Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển Thứ 387: Hội thứ nhất Phẩm Chẳng Khá Động thứ 70-2

18/04/201313:34(Xem: 17439)
Quyển Thứ 387: Hội thứ nhất Phẩm Chẳng Khá Động thứ 70-2

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa

Quyển Thứ 387: Hội thứ nhất Phẩm Chẳng Khá Động thứ 70-2

Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nương bản tánh không dạy bảo dạy trao các loại hữu tình khiến chúng siêng năng tinh tấn. Khởi lên lời này: Thiện nam tử! Ngươi đối pháp lành khởi siêng tinh tấn. Nếu khi tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa, đối các pháp này chớ suy nghĩ hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, đối các pháp này chớ suy nghĩ hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, đối các pháp này chớ suy nghĩ hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn đối các pháp này chớ suy nghĩ hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không, đối các pháp này chớ suy nghĩ hai và chẳng hai tướng. Nếu khi trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới, đối các pháp này chớ suy nghĩ hai và chẳng hai tướng. Nếu khi trụ khổ tập diệt đạo thánh đế, đối các pháp này chớ suy nghĩ hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, đối các pháp này chớ suy nghĩ hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu tất cả đà la ni môn, tất cả tam ma địa môn, đối các pháp này chớ suy nghĩ hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa, đối các pháp này chớ suy nghĩ hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu năm nhãn, sáu thần thông, đối các pháp này chớ suy nghĩ hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu Phật mười lực, bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng, đối các pháp này chớ suy nghĩ hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, đối các pháp này chớ suy nghĩ hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo, đối các pháp này chớ suy nghĩ hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, đối các pháp này chớ suy nghĩ hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, đối các pháp này chớ suy nghĩ hai và chẳng hai tướng. Nếu khi tu tất cả Phật pháp khác, đối các pháp này chớ suy nghĩ hai và chẳng hai tướng. Vì cớ sao? Thiện nam tử! Các pháp như thế đều bản tánh không. Lý bản tánh không, chẳng suy nghĩ hai chẳng hai vậy. Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, phương tiện khéo léo hành hạnh Bồ tát, thành thục hữu tình. Các loại hữu tình đã thành thục xong, tùy sở ưng của chúng lần lần an lập, hoặc khiến trụ quả Dự lưu, hoặc khiến trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, hoặc khiến trụ ngôi Bồ tát Ma ha tát, Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, từ sơ phát tâm trọn nên phương tiện khéo léo như thế. Do sức phương tiện khéo léo đây nên thấy các hữu tình tâm nhiều tán động, đối các dục cảnh chẳng năng vắng lặng, phương tiện khiến vào thắng định, bảo lên lời này: Thiện nam tử! Đây, ngươi nên tu tập thắng địnhchớ khởi tưởng tán loạn và đẳng trì. Vì sao? Thiện nam tử! Vì tất cả pháp này bản tánh đều không. Trong bản tánh không, không có pháp khá được đáng gọi tán loạn hay gọi nhất tâm. Nếu các ngươi năng trụ thắng định đây, ra làm việc lành đều mau thành mãn, cũng tùy sở dục trụ bản tánh không. Nói ra làm việc lành là những gì? Nghĩa là khởi nghiệp thắng tịnh nơi thân ngữ ý, hoặc tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Hoặc tu bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Hoặc tu không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Hoặc trụ nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Hoặc trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Hoặc tu khổ tập diệt đạo thánh đế. Hoặc tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Hoặc tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Hoặc tu tất cả đà la ni môn, tất cả tam ma địa môn. Hoặc tới Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Hoặc tu thập địa Bồ tát Ma ha tát. Hoặc tu năm nhãn, sáu thần thông. Hoặc tu Phật mười lực, bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Hoặc tu ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Hoặc tu pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Hoặc tu nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Hoặc tu đạo Thanh văn, đạo Độc giác, đạo Bồ tát, đạo Như Lai. Hoặc tu quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, và Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Hoặc thành thục hữu tình, hoặc trang nghiêm cõi Phật.

Tất cả pháp lành thắng tịnh như thế do sức thắng định đều mau thành xong, và tùy sở nguyện trụ bản tánh không. Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo vì muốn nhiêu ích các loài hữu tình nên từ sơ phát tâm cho đến rốt ráo cầu làm thiện lợi thường không gián đoạn. Vì muốn nhiêu ích các loài hữu tình nên từ một nước Phật đến một nước Phật cúng dườngcung kính, tôn trọng ngợi khen các Phật Thế Tôn. Ở chỗ các Phật nghe thọ chánh pháp, xả thân thọ thân trải vô số kiếp cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, ở thời gian giữa trọn chẳng quên mất.

Thiện Hiện! Các Bồ tát này được đà la ni căn thân ngữ ý thường không lui giảm. Vì cớ sao? Vì Bồ tát Ma ha tát này hằng đủ khéo tu Nhất thiết trí, bấy nhiêu sở tác năng khéo suy nghĩ. Do đủ khéo tu Nhất thiết trí, bấy nhiêu sở tác năng khéo suy nghĩ, nên đối tất cả đạo đều năng tu tập. Nghĩa là đạo Thanh văn, hay đạo Độc giác, đạo Bồ tát, đạo Như Lai, đạo hơn trời, đạo hơn người, đạo thắng thần thông các Bồ tát. Các Bồ tát Ma ha tát do đạo thù thắng thần thông đây, nên thường làm nhiêu ích, thường không lui mất. Bồ tát Ma ha tát này trụ dị thục thần thông thù thắng đây, thường làm những việc thắng lợi an vui cho các hữu tình, dù phải trải qua các thú sanh tử luân hồi, mà thắng thần thông thường không lui giảm. Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật trụ bản tánh không, phương tiện khéo năng khéo lợi vui các loại hữu tình.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, từ sơ phát tâm trọn nên phương tiện khéo léo như thế. Do sức phương tiện khéo léo đây nên trụ bản tánh không, thấy các hữu tình ttí tuệ mỏng ít, ngu si điên đảo, gây các ác nghiệp, phương tiện dẫn vào trí huệ thù thắng, khởi lên lời này: Thiện nam tử! Các ngươi nên tu Bát nhã Ba la mật đa, quán tất cả pháp bản tánh vắng không. Các ngươi nếu năng tu Bát nhã Ba la mật đa đây, quán tất cả pháp bản tánh đều không, các nghiệp sở tu hành thân ngữ ý đều tới cam lồ. Được quả cam lồ, tất đem cam lồ mà làm hậu biên. Các thiện nam tử! Tất cả pháp này đều bản tánh không. Trong bản tánh không, hữu tình và pháp tuy chẳng khá được mà sở tu hành cũng không lui mất. Vì cớ sao? Thiện nam tử! Trong bản tánh không, không tăng giảm pháp, không kẻ tăng giảm. Sở dĩ vì sao? Lý bổn tánh không chẳng có tự tánh, chẳng không tự tánh, lìa các phân biệt, tuyệt các hý luận, nên đối trong ấy vô tăng vô giảm. Do đây sở tác trọn không lui mất. Vậy nên, các ngươi nên tu Bát nhã Ba la mật đa quán bản tánh không, làm việc đáng làm. Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa, phương tiện khéo léo dạy bảo dạy trao các loại hữu tình khiến tu tập Bát nhã Ba la mật đa, quán bản tánh không tu các nghiệp lành.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này dạy bảo trao các hữu tình tu các nghiệp lành như thế thường không biếng nhác. Chỗ gọi tự thường hành mười thiện nghiệp đạo, cũng khuyên người hành mười thiện nghiệp đạo. Tự thường thọ trì năm giới, cũng khuyên người thọ trì năm giới. Tự thường thọ trì tám giới, cũng khuyên người thọ trì tám giới. tự thường thọ trì giới xuất gia, cũng khuyên người thọ trì giới xuất gia. Tự thường tu bốn tĩnh lự, cũng khuyên người tu bốn tĩnh lự. Tự thường tu bốn vô lượng, cũng khuyên người tu bốn vô lượng. Tự thường tu bốn vô sắc định, cũng khuyên người tu bốn vô sắc định. Tự thường tu bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; cũng khuyên người tu bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Tự thường tu không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; cũng thường khuyên người tu không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tự thường tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật đa; cũng thường khuyên người tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật đa.

Tự thường trụ nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không, cũng thường khuyên người trụ nội không, cho đến vô tánh tự tánh không. Tự thường trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới, cũng thường khuyên người trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. Tự thường trụ khổ tập diệt đạo thánh đế, cũng thường khuyên người trụ khổ tập diệt đạo thánh đế.

Tự thường trụ tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ; cũng khuyên người thường trụ tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Tự thường tu tất cả đà la ni môn, tất cả tam ma địa môn; cũng khuyên người thường tu tất cả đà la ni môn, tất cả tam ma địa môn. Tự thường tu Bồ tát thập địa, cũng thường khuyên người tu Bồ tát thập địa. Tự thường học năm nhãn, sáu thần thông; cũng khuyên người thường học năm nhãn, sáu thần thông.

Tự thường học Phật mười lực, bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng khuyên người thường học Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tự thường học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả; cũng khuyên người thường học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả.

Tự thường học ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo; cũng khuyên người thường học ba mươi hai tướng đại sĩ tám mươi tùy hảo. Tự thường học pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả; cũng khuyên người thường học pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Tự thường học nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; cũng khuyên người tu học nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.

Tự thường khởi trí quả Dự lưu mà chẳng trụ trong ấy, cũng khuyên người thường khởi trí quả Dự lưu hoặc khiến an trụ; tự thường khởi trí quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán mà chẳng trụ trong ấy, cũng khuyên người thường khởi trí quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán hoặc khiến an trụ. Tự thường khởi trí Độc giác Bồ đề mà chẳng trụ trong ấy, cũng khuyên người khởi trí Độc giác Bồ đề hoặc khiến an trụ. Tự thường khởi hành đạo Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cũng khuyên người thường khởi hành đạo Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo, tự thường tu hành nghiệp lành thường không biếng bỏ, dạy bảo dạy trao các loại hữu tình khiến tu nghiệp lành thường không biếng bỏ. Thiện Hiện! Đấy gọi là Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật phương tiện khéo léo. Các Bồ tát Ma ha tát do sức phương tiện khéo léo đây, nên an lập hữu tình nơi trong thật tế mà năng chẳng hoại tướng.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp bản tánh đều không. Trong bản tánh không, hữu tình và các pháp đều chẳng khá được. Do ở trong đấy cũng không có phi pháp, Bồ tát Ma ha tát làm sao vì các hữu tình cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề thường làm nhiêu ích?

Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như vậy ngươi đã nói, có bao nhiêu pháp bản tánh đều không. Trong bản tánh không, hữu tình và các pháp đều chẳng khá được. Do ở trong đây cũng không phi pháp.

Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp bản tánh chẳng không, các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng nên an trụ lý bản tánh không. Tu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề vì nhiêu ích hữu tình thuyết pháp bản tánh không.

Thiện Hiện! Tất cả pháp đều bản tánh không, cho nên các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa trụ lý tất cả pháp bản tánh không, tu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề vì nhiêu ích hữu tình thuyết pháp bản tánh không.

Thiện Hiện! Những gì là các pháp bản tánh không đều không? Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật rõ biết bản tánh không rồi, trụ bản tánh không vì người thuyết pháp.

Thiện Hiện! Sắc bản tánh không, thọ tưởng hành thức bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, như thật rõ biết các uẩn bản tánh không như thế rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Nhãn xứ bản tánh không, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ bản tánh không. Sắc xứ bản tánh không, thanh hương vị xúc pháp xứ bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, như thật rõ biết các xứ bản tánh không như thế rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Nhãn giới bản tánh không, nhĩ tỷ thiệt thân ý giới bản tánh không. Sắc giới bản tánh không, thanh hương vị xúc pháp giới bản tánh không. Nhãn thức giới bản tánh không, nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới bản tánh không. Nhãn xúc bản tánh không, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc bản tánh không. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ bản tánh không, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ bản tánh không.

Địa giới bản tánh không, thủy hỏa phong không thức giới bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, như thật rõ biết các giới bản tánh không như thế rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Nhân duyên bản tánh không; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên bản tánh không. Các pháp theo duyên sanh ra bản tánh không. Vô minh bản tánh không; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử sầu thán khổ ưu não bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, như thật rõ biết pháp duyên khởi bản tánh không như thế rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Bố thí Ba la mật đa bản tánh không; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nha, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật đa bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, như thật rõ biết các pháp đến bờ kia rốt ráo bản tánh không rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Bốn tĩnh lự bản tánh không; bốn vô lượng, bốn vô sắc định bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết rõ tĩnh lự, vô lượng, vô sắc định như thế bản tánh không rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Bốn niệm trụ bản tánh không; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật biết rõ bốn niệm trụ thảy Bồ đề phần pháp bản tánh không rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Không giải thoát môn bản tánh không; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, như thật biết rõ các giải thoát môn bản tánh không rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Nội không bản tánh không; ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa,như thật rõ biết không tánh như thế bản tánh không rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Khổ thánh đế bản tánh không, tập diệt đạo thánh đế bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật rõ biết thánh đế như thế bản tánh không rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Tám giải thoátbtk; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, như thật rõ biết giải thoát, thắng xứ, các định biến xứ bản tánh không rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Tất cả đà la ni môn bản tánh không, tất cả tam ma địa môn bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, như thật rõ biết đà la ni môn, tam ma địa môn bản tánh không rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Bồ tát Cực hỷ địa bản tánh không; Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật rõ biết Bồ tát các địa bản tánh không rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Năm nhãn bản tánh không, sáu thần thông bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật rõ biết các nhãn, thần thông bản tánh không rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Phật mười lực bản tánh không; bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật rõ biết các lực, vô úy, vô ngại giải, pháp bất cộng bản tánh không rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Đại từ bản tánh không; đại bi, đại hỷ, đại xả bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật rõ biết các đại vô lượng bản tánh không rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Ba mươi hai tướng đại sĩ bản tánh không, tám mươi tùy hảo bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật rõ biết các tướng tùy hảo bản tánh không rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Pháp vô vong thất bản tánh không, tánh hằng trụ xả bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật rõ biết pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả bản tánh không như rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Nhất thiết trí bản tánh không; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật rõ biết các trí bản tánh không rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Quả Dự lưu bản tánh không; Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật rõ biết quả Thanh văn thừa, Độc giác Bồ đề bản tánh không rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Thiện Hiện! Tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát bản tánh không, chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề bản tánh không;dứt hẳn tất cả tập khí phiền não nối nhau bản tánh không. Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật rõ biết các hạnh Bồ tát, Bồ đề, Niết bàn bản tánh không rồi, trụ bản tánh không, vì các hữu tình tuyên nói pháp bản tánh không như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu tánh nội không bản tánh chẳng không; nếu tánh ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không tánh cũng chẳng không về bản tánh, thời các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng nên vì các hữu tình nói tất cả pháp bản tánh đều không. Nếu nói lời này là phá hoại bản tánh không. Nhưng bản tánh không lý chẳng thể hoại được, vì phi thường phi đoạn. Sở dĩ vì sao? Lý bản tánh không vô phương vô xứ, vô sở tùy lai, cũng vô sở khứ. Không lý như thế cũng tên pháp trụ, trong đấy không pháp, không tụ không tán, không giảm không tăng, không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh. Tất cả pháp này tánh bổn sở trụ. Các Bồ tát Ma ha tát an trụ trong ấy, cầu tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng thấy các pháp có chỗ phát tới, không chỗ phát tới, vì tất cả pháp đều vô sở trụ, nên gọi pháp trụ. Các Bồ tát Ma ha tát an trụ trong đây tu hành Bát nhã Ba la mật đa, thấy các pháp bản tành không rồi, quyết định đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề được quả bất thối. Vì sao? Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy có pháp năng làm chướng ngại. Vì thấy các pháp không làm chướng ngại nên bèn đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng sanh nghi hoặc, vậy nên Bất thối.

Lại nữa, Thiện Hiện! Trong bản tánh không, ngã chẳng khá được. Hữu tình chẳng khá được, thi thiết hữu tình chẳng khá được. Mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, khiến tác giả, khởi giả, khiến khởi giả, thọ giả, khiến thọ giả, tri giả, khiến giả cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Trong bản tánh không, sắc chẳng khá được, thọ tưởng hành thức cũng chẳng khá được. Thiện Hiện! Trong bản tánh không, nhạn xứ chẳng khá được;nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng chẳng khá được. Thiện Hiện! Trong bản tánh không,sắc xứ chẳng khá được; thanh hương vị xúc pháp xứ chẳng khá được.

Thiện Hiện! Trong bản tánh không, nhãn giới chẳng khá được; nhĩ tỷ thiệt thân ý giới cũng chẳng khá được. Thiện Hiện! Trong bản tánh không, sắc giới chẳng khá được; thanh hương vị xúc pháp cũng chẳng khá được. Thiện Hiện! Trong bản tánh không, nhãn thức giới chẳng khá được; nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Trong bản tánh không, nhãn xúc chẳng khá được; nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc cũng chẳng khá được. Thiện Hiện! Trong bản tánh không, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khá được;nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Trong bản tánh không, địa giới chẳng khá được; thủy hỏa phong không thức giới cũng chẳng khá được. Thiện Hiện! Trong bản tánh không, nhân duyên chẳng khá được; đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng chẳng khá được. Thiện Hiện! Trong bản tánh không, các pháp theo duyên sanh ra đều chẳng khá được. Thiện Hiện! Trong bản tánh không, vô minh chẳng khá được; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử sầu thán khổ ưu não cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Trong bản tánh không, bố thí Ba la mật đa chẳng khá được; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Trong bản tánh không, nội không chẳng khá được; ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Trong bản tánh không, bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Trong bản tánh không, khổ thánh đế chẳng khá được, tập diệt đạo thánh đế cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Trong bản tánh không, bốn tĩnh lự chẳng khá được; bốn vô lượng, bốn vô sắc định cũng chẳng khá được. Thiện Hiện! Trong bản tánh không, tám giải thoát chẳng khá được; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Trong bản tánh không tất cả đà la ni môn chẳng khá được; tất cả tam ma địa môn cũng chẳng khá được. Thiện Hiện! Trong bản tánh không, không giải thoát môn chẳng khá được; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Trong bản tánh không, Bồ tát Cực hỷ địa chẳng khá được;Bồ tát Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Trong bản tánh không, năm nhãn chẳng khá được, sáu thần thông cũng chẳng khá được. Thiện Hiện! Trong bản tánh không, Phật mười lực chẳng khá được; bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Trong bản tánh không, pháp vô vong thất chẳng khá được, tánh hằng trụ xả cũng chẳng khá được. Thiện Hiện! Trong bản tánh không, nhất thiết trí chẳng khá được; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Trong bản tánh không, quả Dự lưu chẳng khá được; Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Trong bản tánh không, tất cả hạnh Bồ tát ma ha tát chẳng khá được, chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Trong bản tánh không, pháp sắc phi sắc chẳng khá được; pháp hữu kiến vô kiến, hữu đối vô đối, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Trong bản tánh không, ba mươi hai tướng đại sĩ chẳng khá được, tám mươi tùy hảo cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Như Lai Phật hóa làm bốn chúng, đó là Bí sô, Bí sô ni, Ô ba sách ca, Ô ba tư ca. Giả sử vị hóa Phật trăm ngàn, trăm ức, muôn ức kiếp, vì bốn chúng kia tuyên nói pháp yếu. Ý ngươi hiểu sao? Hóa chúng như thế vả có năng được quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, hoặc được chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chăng? Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng được. Bạch Thiện Huệ! Chẳng được. Vì sao? Vì các hóa chúng này đều vô thật sự. Chẳng phải pháp vô thật khá có được. Phật nói: Thiện Hiện! Các pháp cũng vậy, bản tánh đều không, đều vô thật sự, với trong ấy những Bồ tát Ma ha tát nào ví những hữu tình nào thuyết những pháp gì khá khiến được quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, hoặc được quả A la hán, hoặc được Độc giác Bồ đề, hoặc lại được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề?

Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát tuy vì hữu tình tuyên nói các thứ pháp bản tánh không, mà các hữu tình thật chẳng khá được. Vì thương xót kia đọa pháp điên đảo, nên cứu vớt khiến trụ pháp không điên đảo. Không điên đảo ấy là không phân biệt. Không phân biệt là không điên đảo vậy. Nếu có phân biệt thời có đảng lưu điên đảo kia vậy.

Thiện Hiện! Trong các không phân biệt không không điên đão, không có ngã, không hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, khiến tác giả, khởi giả, khiến khởi giả, thọ giả, khiến thọ giả, tri giả, khiến giả, cũng không có sắc, không có thọ tưởng hành thức. Cũng không có nhãn xứ, không nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Cũng không có sắc xứ, không thanh hương vị xúc pháp xứ. Cũng không có nhãn giới, không nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Cũng không có sắc giới, không thanh hương vị xúc pháp giới. Cũng không có nhãn thức giới, không nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Cũng không có nhãn xúc, không nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Cũng không có nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, không nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.

Cũng không địa giới, không thủy hỏa phong không thức giới. Cũng không nhân duyên; không đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Cũng không các pháp theo duyên sanh ra. Cũng không vô minh; không hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử sầu thán khổ ưu não. Cũng không bố thí Ba la mật đa; không tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa.

Cũng không nội không; ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.

Cũng không bốn niệm trụ; không bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Cũng không khổ thánh đế, không tập diệt đạo thánh đế. Cũng không bốn tĩnh lự; không bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Cũng không tám giải thoát, không tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Cũng không tất cả đà la ni môn, không tất cả tam ma địa môn. Cũng không không giải thoát môn; không vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.

Cũng không Cực hỷ địa; không Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Cũng không năm nhãn, không sáu thần thông.

Cũng không Phật mười lực; không bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng không pháp vô vong thất, không tánh hằng trụ xả. Cũng không nhất thiết trí; không đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.

Cũng không quả Dự lưu; không quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Cũng không tất cả hạnh Bồ tát ma ha tát, không chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Cũng không pháp sắc phi sắc; không pháp hữu kiến vô kiến, hữu đối vô đối, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi. Cũng không ba mươi hai tướng đại sĩ, không tám mươi tùy hảo.

Thiện Hiện! không có sở hữu đây tức bản tánh không. Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa an trụ trong đây, thấy các hữu tình đọa tưởng điên đảo, phương tiện khéo léo khiến được giải thoát. Nghĩa là khiến giải thoát không có ngã, tưởng ngã; không có hữu tình mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, khiến tác giả, khởi giả, khiến khởi giả, thọ giả, khiến thọ giả, tri giả, khiến giả, tưởng hữu tình cho đến kiến giả.

Cũng khiến giải thoát không có sắc, tưởng sắc; không có thọ tưởng hành thức,tưởng thọ tưởng hành thức.

Cũng khiến giải thoát không có nhãn xứ, tưởng nhãn xứ; không có nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, tưởng nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Cũng khiến giải thoát không cósắc xứ, tưởng sắc xứ; không có thanh hương vị xúc pháp xứ, tưởng thanh hương vị xúc pháp xứ. Cũng khiến giải thoát không có nhãn giới, tưởng nhãn giới; không có nhĩ tỷ thiệt thân ý giới, tưởng nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Cũng khiến giải thoát không cósắc giới, tưởng sắc giới; không thanh hương vị xúc pháp giới, tưởng thanh hương vị xúc pháp giới. Cũng khiến giải thoát không cónhãn thức giới, tưởng nhãn thức giới; không nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới, tưởng nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Cũng khiến giải thoát không có nhãn xúc, tưởng nhãn xúc; không nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc, tưởng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Cũng khiến giải thoát không có nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, tưởng nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ; không nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, tưởng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.

Cũng khiến giải thoát không có địa giới, tưởng địa giới; không thủy hỏa phong không thức giới, tưởng thủy hỏa phong không thức giới. Cũng khiến giải thoát không có nhân duyên, tưởng nhân duyên; không đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, tưởng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Cũng khiến giải thoát không có các pháp theo duyên sanh ra, tưởng các pháp theo duyên sanh ra. Cũng khiến giải thoát không cóvô minh, tưởng vô minh; không hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử sầu thán khổ ưu não, tưởng hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não.

Cũng khiến giải thoát không có bố thí Ba la mật đa, tưởng bố thí Ba la mật đa; không tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa, tưởng tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa.

Cũng khiến giải thoát không có nội không, tưởng nội không; không ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không; tưởng ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không.

Cũng khiến giải thoát không có bốn niệm trụ, tưởng bốn niệm trụ; không bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lưc, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, tưởng bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi. Cũng khiến giải thoát không có khổ thánh đế, tưởng khổ thánh đế; không tập diệt đạo thánh đế, tưởng tập diệt đạo thánh đế.

Cũng khiến giải thoát không có bốn tĩnh lự, tưởng bốn tĩnh lự; không bốn vô lượng, bốn vô sắc định, tưởng bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Cũng khiến giải thoát không có tám giải thoát, tưởng tám giải thoát; không tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, tưởng tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Cũng khiến giải thoát không có tất cả đà la ni môn, tưởng tất cả đà la ni môn; không tất cả tam ma địa môn, tưởng tất cả tam ma địa môn. Cũng khiến giải thoát không có không giải thoát môn, tưởng không giải thoát môn; không vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, tưởng vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.

Cũng khiến giải thoát không có Cực hỷ địa, tưởng Cực hỷ địa; không Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa, tưởng Ly cấu địa cho đến Pháp vân địa. Cũng khiến giải thoát không có năm nhãn, tưởng năm nhãn; không sáu thần thông, tưởng sáu thần thông.

Cũng khiến giải thoát không có Phật mười lực, tưởng Phật mười lực; không bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, tưởng bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng khiến giải thoát không có pháp vô vong thất, tưởng pháp vô vong thất; không tánh hằng trụ xa, tưởng tánh hằng trụ xả. Cũng khiến giải thoát không có nhất thiết trí, tưởng nhất thiết trí; không đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, tưởng đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.

Cũng khiến giải thoát không có quả Dự lưu, tưởng quả Dự lưu. Không quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, tưởng quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Cũng khiến giải thoát không có tất cả hạnh Bồ tát ma ha tát, tưởng tất cả hạnh Bồ tát ma ha tát. Không chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, tưởng chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Cũng khiến giải thoát không có pháp sắc phi sắc; tưởng pháp sắc phi sắc; không có pháp hữu kiến vô kiến, hữu đối vô đối, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi, tưởng pháp hữu kiến vô kiến cho đến hữu vi vô vi.

Cũng khiến giải thoát không có ba mươi hai tướng đại sĩ, tưởng ba mươi hai tướng đại sĩ; không tám mươi tùy hảo, tưởng tám mươi tùy hảo. Cũng khiến giải thoát năm thủ uẩn thảy các pháp hữu lậu. Cũng khiến giải thoát bốn niệm trụ thảy các pháp vô lậu. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Bốn niệm trụ thảy các pháp vô lậu cũng chẳng phải như thắng nghĩa đế vô sanh vô diệt, vô tướng vô vi, vô hý luận, vô phân biệt cũng nên giải thoát. Thắng nghĩa đế ấy tức bản tánh không. Bản tánh không đây tức là sở chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề của chư Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com