Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển Thứ 355: Hội thứ nhất Phẩm Hỏi Nhiều Chẳng Hai thứ 61 - 5

18/04/201312:18(Xem: 18324)
Quyển Thứ 355: Hội thứ nhất Phẩm Hỏi Nhiều Chẳng Hai thứ 61 - 5

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 15

Quyển Thứ 355: Hội thứ nhất Phẩm Hỏi Nhiều Chẳng Hai thứ 61 - 5

Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán bố thí ba la mật đa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa hoặc thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán nội không hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghiã không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô nag4, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán chơn như hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán pháp giới, phát tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán khổ thánh đế hoặc thường hoặc vô thường. Hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán tập diệt đạo thánh đế hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán bốn tĩnh lự hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán tám giải thoát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán bốn niệm trụ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoao85c tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bát tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán không giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoao85c khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán năm nhãn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán sáu thần thông hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán phật mười lực hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngẵ hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán bốn ô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán pháp vô vong thất hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán tánh hằng trụ xả hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán nhất thiết trí hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát kh hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán tất cả đà la ni môn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán tất cả tam ma địa môn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán quả dự lưu hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng quán quả nhất lai, bất hoàn, a la hán hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán độc giác bồ đề hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán tất cả hạnh bồ tát ma ha tát hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát kh hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, chẳng quán chư phật vô thượng chánh đẳng bồ đề hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng dẫn phát bát nhã ba la mật đa. Cũng năng dẫn phát tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí ba la mật đa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng an trụ nội không. Cũng năng an trụ ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghiã không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng an trụ chơn như. Cũng năng an trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ. Thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng an trụ hổ thánh đế. Cũng năng an trụ tập diệt đạo thánh đế.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng dẫn phát bốn tĩnh lự. cũng năng dẫn phát bốn vô lượng, bốn vô sắc định.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng dẫn phát tám giải thoát. Cũng năng dẫn phát tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng dẫn phát bốn niệm trụ. Cũng năng dẫn phát bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng dẫn phát không giải thoát môn. Cũng năng dẫn phát vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng dẫn phát năm nhãn, cũng năng dẫn phát sáu thần thông.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng dẫn phát phật mười lực. cũng năng dẫn bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng dẫn phát pháp vô vong thất, cũng năng dẫn phát tánh hằng trụ xả.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng dẫn phát tất cả đà la ni môn, cũng năng dẫn phát tất cả tam ma địa môn.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đối tất cả pháp như thế chẳng quan sát nên mới năng dẫn phát nhất thiết trí. Cũng năng dẫn phát đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.

Vì cớ sao? Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, đối trong các pháp có sở quan sát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, thời chẳng năng tùy ý dẫn phát an trụ công đức thù thắng.

Lại nữa, thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành tĩnh lự ba la mật đa. Cũng là hành tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí ba la mật đa.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành nội không. Cũng là hành ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghiã không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành chơn như. Cũng là hành pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành khổ thánh đế, cũng là hành tập diệt đạo thánh đế.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành bốn tĩnh lự. cũng là hành bốn vô lượng, bốn vô sắc định.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thớI là hành tám giải thoát. Cũng là hành tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mườI biến xứ.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành bốn niệm trụ. Cũng là hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành không giải thoát môn. Cũng là hành vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành năm nhãn. Cũng là hành sáu thần thông.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa th83m sâu, thời là hành phật mười lực. cũng là hành bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành pháp vô vong thất. Cũng là hành tánh hằng trụ xả.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, thời là hành tất cả đà la ni môn. Cũng là hành tất cả tam ma địa môn.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa thẳm sas6u, thời là hành nhất thiết trí. Cũng là hành đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.

Lại nữa, thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tùy hành chỗ nào có tất cả bao nhiêu ba la mật đa và tất cả phần pháp bồ đề khác thảy, điều tùy tong theo bát nhã ba la mật đa thẳm sâu. Tùy đến chỗ nào có tất cả bao nhiêu ba la mật đa và tất cả phần pháp bồ đề khác thảy điều theo đến.

Thiện hiện! Như chuyển luân thánh vương có bốn binh chủng dung quân, tùy luân vương kia muốn đi chỗ nào là bốn dung quân này thảy đều tùy tong. Tùy luân vương kia đi đến chỗ nào là bốn dung quân này thảy đều theo đến. Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu cũng lại như thế vậy, tùy có chỗ đi và có chỗ đến, có tất cả bao nhiêu ba la mật đa và tất cả phần pháp bồ đề khác thảy đều theo dõi rốt ráo đến nơi nhất thiết trí trí.

Thiện hiện! Như kẻ cầm cương giỏi ngồi xe tứ mã khiến tránh đường hiểm, đi nơi chánh đạo, tùy theo ý muốn tới được chỗ đến. Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu cũng lại như vậy, giỏi cầm cương tất cả ba la mật đa và tất cả phần pháp bồ đề khác, khiến tránh đường hiểm sanh tử niết bàn, đi nơi chánh đạo tự lợi lợi tha, đến sở cầu nhất thiết trí trí.

Khi ấy, cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! sao là đạo, sao là phi đạo của bồ tát ma ha tát?

Phật nói thiện hiện! đạo các dị sanh chẳng phải đạo các bồ tát ma ha tát, đạo các thanh văn chẳng phải đạo các bồ tát ma ha tát, đạo các độc giác chẳng phải đạo các bồ tát ma ha tát. đạo tự lợi lợi tha mới là đạo các bồ tát ma ha tát đạo nhất thiết trí trí là đạo các bồ tát ma ha tát, đạo chẳng trụ sanh tử và niết bàn là đạo các bồ tát ma ha tát. Thiện hiện! đây là đạo và phi đạo bồ tát ma ha tát.

Cụ thọ thiện hiện lại thưa phật rằng: bạch thế tôn! bát nhã ba la mật đa thẳm sâu xuất hiện ra đời năng làm đại sự, chỗ gọi chỉ hiện tướng đạo phi đạo cho các bồ tát ma ha tát, khiến các bồ tát ma ha tát biết đây đạo, đây phi đạo, mau năng chứng được nhất thiết trí trí?

Phật nói: thiện hiện! Như vậy, như vậy. Như người vừa nói. Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu xuất hiện ra đời năng làm đại sự, chỗ gọi chỉ hiện tướng đạo phi đạo cho các bồ tát ma ha tát, khiến các bồ tát ma ha tát biết đây đạo, đây phi đạo, mau năng chứng được nhất thiết trí trí.

Lại nữa, thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu xuất hiện ra đời năng làm đại sự, chỗ gọi độ thoát vô lượng vô số vô biên hữu tình đều khiến đặng được lợi ích an vui. Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy làm việc khác lợi vui vô biên mà đối việc này không đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện sắc, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện thọ tưởng hành thức, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhãn xứ, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện sắc xứ, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện thanh hương vị xúc pháp xứ, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhãn giới, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhĩ tỷ thiệt thân ý giới, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện sắc giới, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện thanh hương vị xúc pháp giới, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhãn thức giới, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhãn xúc, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện địa giới, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện thủy hỏa phong không thức giới, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện vô minh, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện bố thí ba la mật đa, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng lal2m việc chỉ hiện tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện nội không, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghiã không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, công tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện chơn như, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện khổ thánh đế, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện tập diệt đạo thánh đế, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện bốn tĩnh lự, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện bốn vô lượng, bốn vô sắc định, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện tám giải thoát, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện bốn niệm trụ, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện không giải thoát môn, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, mà đaốei việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện năm nhãn, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện sáu thần thông, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện phật mười lực, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện pháp vô vong thất, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện tánh hằng trụ xả, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện nhất thiết trí, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện tất cả đà la ni môn, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện tất cả tam ma địa môn, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện quả dự lưu, mà đối việc này không có đắm lấy. Tuy đã năng làm việc chỉ hiện quả nhất lai, bất hoàn, a la hán, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện độc giác bồ đề, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện tất cả hạnh bồ tát ma ha tát, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy đã năng làm việc chỉ hiện chư vô thượng chánh đẳng bồ đề, mà đối việc này không có đắm lấy.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, dẫn đường bồ tát ma ha tát khiến tới vô thượng chánh đẳng bồ đề, ở thời gian giữa quyết định chẳng quay lui.

Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tuy khiến bồ tát ma ha tát xa lìa bậc thanh văn, độc giác thảy, gần gũi vô thượng chánh đẳng bồ đề, mà với các pháp không khởi không diệt, lấy tánh pháp trụ làm định lượng vậy.

Bấy giờ, cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! nếu bát nhã ba la mật đa thẳm sâu đối tất cả pháp không khởi không diệt, bồ tát ma ha tát làm sao khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu nên tu bố thí ba la mật đa? Bồ tát ma ha tát làm sao khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu nên tu tịnh giới ba la mật đa? Bồ tát ma ha tát làm sao khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu nên tu an nhẫn ba la mật đa? Bồ tát ma ha tát làm sao khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu nên tu tinh tiến ba la mật đa? Bồ tát ma ha tát làm sao khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu nên tu tĩnh lự ba la mật đa? Bồ tát ma ha tát làm sao khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu nên tu bát nhã ba la mật đa?

Phật nói: thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu. Nên duyên nhất thiết trí trí, vì các hữu tình mà tu bố thí ba la mật đa. Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, nên duyên nhất thiết trí trí, vì các hữu tình mà tu tịnh giới ba la mật đa. Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, nên duyên nhất thiết trí trí, vì các hữu tình mà tu an nhẫn ba la mật đa. Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, nên duyên nhất thiết trí trí, vì các hữu tình mà tu tinh tiến ba la mật đa. Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, nên duyên nhất thiết trí trí, vì các hữu tình mà tu tĩnh lự ba la mật đa. Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa thẳm sâu, nên duyên nhất thiết trí trí, vì các hữu tình mà tu bát nhã ba la mật đa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đem căn lành đây cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng vô thượng chánh đẳng bồ đề. Với khi hồi hướng xa lìa ba tâm là ai hồi hướng, dung hồi hướng chi, hồi hướng chỗ nào.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này đem căn lành đây như vậy hồi hướng sở câu vô thượng chánh đẳng bồ đề, thờI là tu sáu món ba la mật đa mau được ciên mãn; cũng tu bồ tát từ bi hỷ xả mau được viên mãn. Do đây chóng được nhất thiết trí trí, cho đến ngồi yên tòa diệu bồ đề thường chẳng xa lìa sáu món ba la mật đa như thế.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát chẳng lìa sáu món ba la mật đa thờI chẳng xa lìa nhất thiết trí trí. Vậy nên, thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát muốn mau chứng được sở cầu vô thượng chánh đẳng bồ đề. Phải siêng tinh tiến tu học sáu món ba la mật đa, phải siêng tinh tiến tu hành sáu món ba la mật đa.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát thường siêng tinh tiến tu học, tu hành sáu món ba la mật đa như thế, tất cả căn lành mau được viên mãn, mau chứng vô thượng chánh đẳng bồ đề. Vậy nên, thiện hiện! Các bồ tát ma ha tát nên cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rờI nhau.

Bấy giờ, cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! bồ tát ma ha tát làm sao năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau?

Phật nói: thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán sắc chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán thọ tưởng hành thức chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng, chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán nhãn xứ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán sắc xứ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán thanh hương vị xúc pháp xứ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán nhãn giới chẳng tương ứng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán sắc giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán thanh hương vị xúc pháp giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán nhãn thức giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán nhãn xúc chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán địa giới chẳng tương ứng. Chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán thủy hỏa phong không thức giới chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán vô minh chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử sầu thán khổ ưu não chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán bố thí ba la mật đa chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán nội không chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghiã không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán chơn như chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giớI chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán khổ thánh đế chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán tập diệt đạo thánh đế chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán bốn tĩnh lự chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán bốn vô lượng, bốn vô sắc định chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán tám giải thoát chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán bốn niệm trụ chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán không giải thoát môn chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán năm nhãn chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán sáu thần thông chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán phật mười lực chẳng tương ưng chẳng phải tương ưng; như thật quán bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán pháp vô vong thất chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán nhất thiết trí chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán tất cả đà la ni môn chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán tất cả tam ma địa môn chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán quả dự lưu chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; như thật quán quả nhất lai, bất hoàn, a la hán chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán độc giác bồ đề chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán tất cả hạnh bồ tát ma ha tát chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật quán chư phật vô thượng chánh đẳng bồ đề chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Lại nữa, thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hằng khởi nghĩ này: ta chẳng nên trụ sắc, cũng chẳng nên trụ thọ tưởng hành thức. Vì cớ sao? Vì sắc phi năng trụ, phi sở trụ; thọ tưởng hành thức cũng phi năng trụ, phi sở trụ. Vậy, thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hằng khởi nghĩ này: ta chẳng nên trụ nhãn xứ, cũng chẳng nên trụ nhĩ thiệt thân ý xứ. Vì cớ sao? Vì nhãn xứ phi năng trụ, phi sở trụ; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng phi năng trụ, phi sở trụ. Vậy, thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát hằng khởi nghĩ này: ta chẳng nên trụ sắc xứ, cũng chẳng nên trụ thanh hương vị xúc pháp xứ. Vì cớ sao? Vì sắc xứ phi năng trụ, phi sở trụ; thanh hương vị xúc pháp xứ cũng phi năng trụ, phi sở trụ. Vậy, thiện hiện! Bồ tát ma ha tát này năng cùng sáu món ba la mật đa thường chung tương ưng chẳng bỏ rời nhau.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567