Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển Thứ 460: Hội thứ hai Phẩm Xảo Tiện thứ 68-1 288

18/04/201318:50(Xem: 17939)
Quyển Thứ 460: Hội thứ hai Phẩm Xảo Tiện thứ 68-1 288

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 19

Quyển Thứ 460: Hội thứ hai Phẩm Xảo Tiện thứ 68-1 288

Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên sức phương tiện khéo léo như thế ấy, phát tâm Bồ đề đã trải bao thời gian?

Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này phát tâm Bồ đề đã trải qua số trăm ngàn trăm ức muôn ức kiếp.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên sức phương tiện khéo léo như thế ấy, đã từng gần gũi cúng dường bấy nhiêu Phật?

Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này đã từng gần gũi cúng dường chư Phật ngang cát sông Căng già.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên sức phương tiện khéo léo như thế ấy, đã trồng những căn lành thù thắng nào?

Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này phát tâm trở đi, không có bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa nào được dẫn căn lành mà chẳng viên mãn tinh siêng tu học. Do nhân duyên đây trọn nên sức phương tiện khéo léo như thế.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên sức phương tiện khéo léo như thế ấy rất là hiếm có?

Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói, Bồ tát Ma ha tát này rất là hiếm có.

Thiện Hiện phải biết: Như vầng nhật nguyệt đi khắp soi xúc cõi bốn đại châu làm sự nghiệp. Trong ấy có bao hoặc tình phi tình theo thế lực ánh sáng kia mà chuyển động đều thành sự nghiệp mình. Như vậy Bát nhã Ba la mật đa soi xúc năm Ba la mật đa kia làm các sự nghiệp, bố thí thảy năm Ba la mật đa thuận theo thế lực Bát nhã Ba la mật đa mà chuyển, đều thành việc mình.

Thiện Hiện phải biết: Như Chuyển luân vương nếu không xe bảy báu chẳng gọi Luân vương. Cần có xe bảy báu mới được gọi Luân vương. Bố thí thảy năm Ba la mật đa cũng lại như thế, nếu lìa Bát nhã Ba la mật đa chẳng được gọi là Ba la mật đa. Chẳng lìa Bát nhã Ba la mật đa mới được gọi là Ba la mật đa.

Thiện Hiện phải biết: Như có người nữ đoan chính đẹp đẽ giàu có, nếu không được người chồng mạnh mẽ giữ gìn, dễ bị kẻ ác nhân làm xâm phạm. Nếu có được người chồng mạnh mẽ giữ gìn, chẳng bị ác nhân xâm phạm. Bố thí thảy năm Ba la mật đa cũng lại như thế vậy, nếu không sức Bát nhã Ba la mật đa nhiếp hộ dễ bị thiên ma và bè lũ kia làm trở hoại. Nếu có sứ Bát nhã Ba la mật đa làm nhiếp hộ, tất cả thiên ma bè lũ kia chẳng thể trở hoại được.

Thiện Hiện phải biết: Như tướng quân mạnh giỏi thạo binh pháp, khéo chuẩn bị các thứ áo gậy bền chắc, oán định nước gần chẳng thể xâm hại được. Bố thí thảy năm Ba la mật đa cũng lại như vậy chẳng lìa Bát nhã Ba la mật đa, thiên ma bè lũ người tăng thượng mạn, cho đến thứ Bồ Tát chiên đà la thảy đều chẳng thể hoại được.

Thiện Hiện phải biết: như các Tiểu vương châu Thiệm bộ thảy tùy tới chầu hầu Chuyển luân Thánh vương, nương Luân vương kia được đến chỗ thắng. Bố thí thảy năm Ba la mật đa cũng lại như vậy, tùy trợ Bát nhã Ba la mật đa, bởi nhờ thế lực kia làm dẫn đem, nên chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện phải biết: Như các nguồn nước phương Đông châu Thiệm bộ, không nguồn nào chẳng đều tới sông lớn Căng già, theo dòng sông Căng già chảy vào biển cả. Bố thí thảy năm Ba la mật đa cũng lại như vậy, không chẳng đều được Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu nhiếp dẫn, mới năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện phải biết: Như tay hữu người năng làm các việc. Như vậy Bát nhã Ba la mật đa năng dẫn tất cả pháp lành thù thắng.

Thiện Hiện phải biết: Ví như các dòng, tùy nó lớn nhỏ, nếu vào biển cả đồng được tên mặn. Như vậy năm Ba la mật đa trước phải vào Bát nhã Ba la mật đa, mới được tên là năng đến bờ kia.

Thiện Hiện phải biết: Như vua Chuyển luân muốn đến chỗ nào, bốn quân đi theo, xe báu đi trước. Vua và bốn quân nghĩ muốn ăn uống, xe phải đứng lại tức thì. Đã ăn muốn rồi, vua nghĩ muốn đi, xe liền đi trước. Xe kia đi đứng theo ý vua muốn, đến nơi chỗ rồi, chẳng còn đi trước. Như vậy năm Ba la mật đa trước cùng pháp lành muốn tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cần nhờ Bát nhã Ba la mật đa lấy làm dẫn trước, đứng đi đồng theo, chẳng bỏ rời nhau, nếu đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng còn đi nữa.

Thiện Hiện phải biết: Như vua Chuyển luân muốn đi đến đâu, bốn quân bảy báu đi theo trước sau. Bấy giờ, xe báu dù đi ở trước mà chẳng phân biệt trước sau. Như vậy năm Ba la mật đa trước cùng các pháp lành muốn tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quyết dùng Bát nhã Ba la mật đa làm dẫn đường khởi trước. Nhưng Bát nhã Ba la mật đa đây chẳng khởi nghĩ này: Ta ở trước năm Ba la mật đa, trước làm kẻ dẫn đầu kia đi theo ta. Bố thí thảy năm Ba la mật đa chẳng khởi nghĩ này: Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu ở trước chúng ta, ta theo kia vậy. Sở dĩ vì sao? Sáu Ba la mật đa như thế và tất cả pháp, tự tánh đều chậm lụt, không sở năng vi, không có chủ tể, hư dối chẳng thật, không, vô sở hữu, tướng chẳng tự tại, ví như ánh nắng, bóng sáng, trăng nước, việc huyễn, mộng thảy, trong ấy đều không phân biệt tự thể tác dụng chơn thật.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp tự tánh đều không, không có tác dụng thật, các Bồ tát Ma ha tát làm sao tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa, cầu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề?

Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát đối sáu Ba la mật đa đây chúng lúc tu hành thường khởi nghĩ này: Thế giới hữu tình tâm hằng điên đảo, chìm đắm sanh tử, chẳng tự thoát được. Nếu ta chẳng tu thắng hạnh khéo tiện, chẳng năng cứu với kia khổ sanh tử. Ta phải vì các loại hữu tình kia siêng tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đa thắng hạnh khéo tiện, tới chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề để thoát đại khổ sanh tử hữu tình.

Bồ tát Ma ha tát này khởi nghĩ đây rồi, vì các hữu tình xả thí sở hữu trong ngoài tất cả. Đã xả thí rồi, lại khởi nghĩ này: Ta đối trong ngoài đều không xả gì. Sở dĩ vì sao? Vật trong ngoài đây không, vô tự tánh, chẳng thể xả thí, chẳng phải chỉ thuộc ta.

Bồ tát Ma ha tát này do quán sát đây tu hành bố thí Ba la mật đa chóng được viên mãn, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Bồ tát Ma ha tát này vì thoát khổ sanh tử các hữu tình nên trọn chẳng phạm giới. Sở dĩ vì sao? Bồ tát Ma ha tát này thường khởi nghĩ đây: Ta vì giải thoát khổ sanh tử tất cả hữu tình nên cầu tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quyết định chẳng nên giết mạng chúng sanh cho đến tà kiến, cũng quyết định chẳng nên cầu cảnh diệu dục, cầu giàu vui trời, cầu làm Đế Thích, Ma Phạm vương thảy, cũng quyết định chẳng nên cầu bậc Thanh văn hoặc bậc Độc giác duy tự giải thoát.

Bồ tát Ma ha tát này do quán sát đây tu hành tịnh giới Ba la mật đa chóng được viên mãn, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Bồ tát Ma ha tát này vì thoát khổ sanh tử các hữu tình nên trọn chẳng phát khởi tâm giận dữ thảy. Giả sử hằng bị hủy báng lăng nhục, chua cay quở mắng, đau đớn thấu tim tủy, trọn chẳng phát khởi một niệm giận thù. Nếu lại hằng bị dao gậy ngói đá chất khối các vật đánh đập nơi thân, cắt đứt chém đâm, mổ xẻ lóng đốt cũng chẳng phát khởi một niệm ác tâm. Sở dĩ vì sao? Bồ tát Ma ha tát này quán sát tất cả tiếng như hang vang, sắc như bọt nổi, chẳng nên với trong vọng khởi giận thù, hoại các phẩm lành. Bồ tát Ma ha tát này do quan sát đây tu hành an nhẫn Ba la mật đa chóng được viên mãn, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Bồ tát Ma ha tát này vì thoát khổ sanh tử các hữu tình, siêng cầu tất cả pháp lành thù thắng. Cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, ở thời gian giữa thường không lười nhác. Sở dĩ vì sao? Bồ tát Ma ha tát này hằng khởi nghĩ đây: Nếu ta lười nhác chẳng năng cứu vớt tất cả hữu tình khiến xa lìa đại khổ sanh tử, cũng chẳng năng được Nhất thiết trí trí. Bồ tát Ma ha tát này do quán sát đây tu hành tinh tiến Ba la mật đa chóng được viên mãn, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Bồ tát Ma ha tát này vì thoát khổ sanh tử các hữu tình nên tu các thắng định, cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề trọn chẳng phát khởi loạn tâm đồng hành tham sân si thảy. Sở dĩ vì sao? Bồ tát Ma ha tát này thường khởi nghĩ đây: Nếu ta phát khởi loạn tâm đồng hành tham sân si thảy, thời chẳng năng làm nên việc lợi vui cho kẻ khác, cũng chẳng thể chứng được sở cầu Phật quả. Bồ tát Ma ha tát này do quán sát đây, tu hành tĩnh lự Ba la mật đa chóng được viên mãn, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Bồ tát Ma ha tát này vì thoát khổ sanh tử các khổ sanh tử các hữu tình nên chẳng lìa Bát nhã Ba la mật đa, cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề thường siêng tu học thắng huệ vi diệu thế gian xuất thế gian. Sở dĩ vì sao? Bồ tát Ma ha tát này hằng khởi nghĩ đây: Nếu lìa Bát nhã Ba la mật đa, đối các hữu tình chẳng năng thành thục được, cũng chẳng thể được Nhất thiết trí trí. Bồ tát Ma ha tát này do quán sát đây tu hành Bát nhã Ba la mật đa chóng được viên mãn, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện! Do nhân duyên này, dù tất cả pháp không thật tác dụng, tự tánh đếu không, mà chúng các Bồ tát Ma ha tát siêng tu sáu thứ Ba la mật đa thường không lười mỏi cầu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả thứ Ba la mật đa tánh không sai khác, đều là được Bát nhã Ba la mật đa nhiếp thọ, đều do Bát nhã Ba la mật đa thành mãn, lẽ nên hợp làm một Ba la mật đa, chỗ gọi Bát nhã Ba la mật đa. Vì sao nói là Bát nhã Ba la mật đa đối năm Ba la mật đa là tối là thắng, là tôn là diệu, là thượng là vô thượng, vô đẳng vô đẳng đẳng?

Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Sáu thứ Ba la mật đa như thế tánh không sai khác, đều là được Bát nhã Ba la mật đa nhiếp trì vậy. Nếu không Bát nhã Ba la mật đa, bố thí thảy năm chẳng được gọi là Ba la mật đa. Cần nương Bát nhã Ba la mật đa bố thí thảy năm mới được gọi là Ba la mật đa. Vậy nên, năm Ba la mật đa trước nhiếp ở Bát nhã Ba la mật đa, do đây duy nhất Ba la mật đa chỗ gọi Bát nhã Ba la mật đa. Vậy nên, tất cả Ba la mật đa tánh không sai khác.

Thiện Hiện phải biết: Như loại hữu tình tuy có nhiều thứ sắc thân sai khác, nếu có gần gũi núi chúa Diệu cao đều đồng một sắc. Như vậy năm Ba la mật đa trước tuy có các thứ phẩm loại sai khác mà được Bát nhã Ba la mật đa nhiếp thọ, nên đều do Bát nhã Ba la mật đa tu thành mãn vậy, đều vào Bát nhã Ba la mật đa, chẳng thể thi thiết danh tánh sai khác. Lại bố thí thảy Ba la mật đa nương dựa Bát nhã Ba la mật đa mới được vào Nhất thiết trí trí, mới được gọi là đến bờ bên kia.

Vậy nên, sáu thứ Ba la mật đa đều đồng một mùi vị tánh không sai khác, chẳng thể thi thiết đây là bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa. Sở dĩ vì sao? Như vậy sáu thứ Ba la mật đa đều đồng tới Nhất thiết trí trí, năng đến bờ kia, tánh không sai khác. Do nhân duyên này, bố thí thảy sau chẳng thể thi thiết danh tánh có khác.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Ba la mật đa và các pháp, nếu theo thật nghĩa đều không đây hơn kia hơn kém sai khác. Duyên cớ nào nói Bát nhã Ba la mật đa đối năm Ba la mật đa là tối là thắng, là tôn là cao, là diệu là vi diệu, là thượng là vô thượng, vô đẳng vô đẳng đẳng?

Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Nếu theo thật nghĩa Ba la mật đa và tất cả pháp đều không đây hơn kém sai khác, chỉ nương tác dụng nói năng thế tục nói có đây kia hơn kém sai khác, thi thiết bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa. Vì muốn độ thoát sanh lão bệnh tử các loại hữu tình nên dùng thế tục tác dụng. Nhưng sanh lão bệnh tử các loại hữu tình đều chẳng thật có, chỉ giả thi thiết. Sở dĩ vì sao? Vì hữu tình vô sở hữu, năng vớt sanh lão bệnh tử hữu tình thế tục tác dụng. Bởi đấy, nên nói Bát nhã Ba la mật đa đối năm Ba la mật đa là tối là thắng, là tôn là cao, là diệu là vi diệu, là thượng là vô thượng, vô đẳng vô đẳng đẳng.

Thiện Hiện phải biết: Như vua Chuyển luân có bao nhiêu nữ bảo, đối trong hạng người nữ là tối là thắng, là tôn là cao, là diệu là vi diệu, là thượng là vô thượng, vô đẳng vô đẳng đẳng. Như vậy Bát nhã Ba la mật đa là đối bố thí thảy Ba la mật đa là tối là thắng, là tôn là cao, là diệu là vi diệu, là thượng là vô thượng, vô đẳng vô đẳng đẳng.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Duyên nào hằng thường khen noí Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đối bố thí thảy Ba la mật đa là tối là thắng, là tôn là cao, là diệu là vi diệu, là thượng là vô thượng, vô đẳng vô đẳng đẳng?

Phật bảo: Thiện Hiện! Bởi Bát nhã Ba la mật đa đây dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, khắp năng nhiếp lấy tất cả thiện pháp, hòa hợp tới vào Nhất thiết trí trí an trụ chẳng động, nên Ta hằng thường khen nói Bát nhã Ba la mật đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đối các thiện pháp có lấy bỏ chăng?

Phật nói: Chẳng có, Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đối pháp đều không hoặc lấy hoặc bỏ. Vì cớ sao? Vì tất cả pháp đều chẳng thể lấy chẳng thể bỏ vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đối những pháp nào không lấy không bỏ?

Phật bảo: Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đối sắc không lấy không bỏ, đối thọ tưởng hành thức không lấy không bỏ. Đối nhãn xứ cho đến ý xứ không lấy không bỏ. Đối sắc xứ cho đến pháp xứ không lấy không bỏ. Đối nhãn giới cho đến ý giới không lấy không bỏ. Đối sắc giới cho đến pháp giới không lấy không bỏ. Đối nhãn thức giới cho đến ý thức giới không lấy không bỏ. Đối nhãn xúc cho đến ý xúc không lấy không bỏ. Đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không lấy không bỏ.

Đối địa giới cho đến thức giới không lấy không bỏ. Đối nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không lấy không bỏ. Đối vô minh cho đến lão tử không lấy không bỏ. Đối bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa không lấy không bỏ. Đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không không lấy không bỏ. Đối chơn như cho đến bất tư nghì giới không lấy không bỏ.

Đối khổ tập diệt đạo thánh đế không lấy không bỏ. Đối bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi không lấy không bỏ. Đối bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định không lấy không bỏ. Đối tám giải thoát cho đến mười biến xứ không lấy không bỏ. Đối không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn không lấy không bỏ.

Đối Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa không lấy không bỏ. Đối Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa không lấy không bỏ. Đối tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn không lấy không bỏ. Đối năm nhãn, sáu thần thông không lấy không bỏ. Đối năm nhãn, sáu thần thông không lấy không bỏ. Đối ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo không lấy không bỏ. Đối pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả không lấy không bỏ.

Đối nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí không lấy không bỏ. Đối quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề không lấy không bỏ. Đối tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát không lấy không bỏ. Đối chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề không lấy không bỏ. Đối Nhất thiết trí trí không lấy không bỏ.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu vì sao đối sắc không lấy không bỏ, cho đến đối Nhất thiết trí trí không lấy không bỏ?

Phật bảo: Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chẳng suy nghĩ sắc, vậy nên đối sắc không lấy không bỏ. Cho đến chẳng suy nghir Nhất thiết trí trí, vậy nên đối Nhất thiết trí trí không lấy không bỏ.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Vì sao Bát nhã Ba la mật đa chẳng suy nghĩ sắc cho đến chẳng suy nghĩ Nhất thiết trí trí?

Phật bảo: Thiện Hiện! Bởi Bát nhã Ba la mật đa đây đối sắc chẳng suy nghĩ tất cả tướng, cũng chẳng suy nghĩ tất cả sở duyên, vậy nên chẳng suy nghĩ sắc. Cho đến đối Nhất thiết trí trí chẳng suy nghĩ tất cả tướng, cũng chẳng suy nghĩ tất cả sở duyên, vậy nên chẳng suy nghĩ Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu Bồ tát Ma ha tát chẳng suy nghĩ sắc cho đến chẳng suy nghĩ Nhất thiết trí trí là sao tăng trưởng căn lành đã trồng? Nếu chẳng tăng trưởng căn lành đã trồng, làm sao viên mãn Ba la mật đa? Nếu chẳng viên mãn Ba la mật đa, làm sao chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề?

Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu khi Bồ tát Ma ha tát chẳng suy nghĩ sắc cho đến chẳng suy nghĩ Nhất thiết trí trí. Khi ấy Bồ tát Ma ha tát bèn năng tăng trưởng căn lành đã trồng. Vì căn lành đã trồng được tăng trưởng, nên mới năng viên mãn Ba la mật đa. Ba la mật đa được viên mãn, là năng chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát cần chẳng suy nghĩ sắc cho đến chẳng suy nghĩ Nhất thiết trí trí mới năng đầy đủ tu các hạnh Bồ tát Ma ha tát, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Duyên nào Bồ tát Ma ha tát cần chẳng suy nghĩ sắc cho đến chẳng suy nghĩ Nhất thiết trí trí, mới năng đầy đủ tu các hạnh Bồ tát Ma ha tát chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề?

Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát nếu suy nghĩ sắc cho đến suy nghĩ Nhất thiết trí trí thời hữu sở đắc. Vì hữu sở đắc bèn trước cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc. Nếu trước cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc chẳng năng đầy đủ tu các hạnh Bồ tát Ma ha tát, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Nếu Bồ tát Ma ha tát chẳng suy nghĩ sắc cho đến chẳng suy nghĩ Nhất thiết trí trí là vô sở đắc. Vì vô sở đắc thời chẳng trước cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc, cho đến đầy đủ tu các hạnh Bồ tát Ma ha tát, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn được đầy đủ tu các hạnh Bồ tát Ma ha tát, muốn mau chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, phải siêng tu học Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, chẳng nên suy nghĩ chấp trước các pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu Bồ tát Ma ha tát tinh siêng tu học Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phải trụ nơi nào?

Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tinh siêng tu học Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chẳng nên trụ sắc, cho đến chẳng nên trụ Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Duyên nào Bồ tát Ma ha tát tinh siêng tu học Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chẳng nên trụ sắc cho đến chẳng nên trụ Nhất thiết trí trí?

Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tinh siêng tu học Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, vì đối tất cả các pháp không chấp trước vậy, chẳng nên trụ sắc, cho đến chẳng nên trụ Nhất thiết trí trí. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy có pháp khả đối trong ấy mà khởi chấp trước và khả an trụ. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát như thế đem vô sở trướ và vô an trụ mà làm phương tiện, tinh siêng tu học Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khởi nghĩ như vầy: Nếu năng được vô sở chấp trước vô sở an trụ như thế, tinh tiến tu hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, là tu Bát nhã Ba la mật đa, là hành Bát nhã Ba la mật đa. Ta năng được vô sở chấp trước như thế tu Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, Ta năng được vô sở chấp trước như thế là hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, là hành Bát nhã Ba la mật đa.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do nghĩ như thế, lấy tướng chấp trước, xa lìa Bát nhã Ba la mật đa. Nếu xa lìa Bát nhã Ba la mật đa thời xa lìa tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa. Cũng xa lìa nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Cũng xa lìa chơn như cho đến bất tư nghì giới.

Cũng xa lìa khổ tập diệt đạo thánh đế. Cũng xa lìa bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Cũng xa lìa bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Cũng xa lìa tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Cũng xa lìa không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.

Cũng xa lìa Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Cũng xa lìa tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Cũng xa lìa năm nhãn, sáu thần thông. Cũng xa lìa Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng xa lìa pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Cũng xa lìa nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Cũng xa lìa tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát.

Cũng xa lìa chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Cũng xa lìa Nhất thiết trí trí. Sở dĩ vì sao? Vì bnbldmts không sở chấp trước đối tất cả pháp; chẳng phải Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu có chấp trước ấy và tánh chấp trước. Vì cớ sao? Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đều vô tự tánh khá đối các pháp có sở chấp trước.

Vậy nên, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba mật đa khởi nghĩ như vầy: Đây là Bát nhã Ba la mật đa, ta hành Bát nhã Ba la mật đa, thời Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa đối tất cả pháp và Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đều có chấp trước.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa khởi tưởng như vầy: Đây là Bát nhã Ba la mật đa, ta hành Bát nhã Ba la mật đa thòi là khắp hành thật tướng các pháp. Bồ tát Ma ha tát này do khởi tưởng đây bèn lui Bát nhã Ba la mật đa. Nếu lui Bát nhã Ba la mật đa thời là lui mất tất cả bạch pháp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khởi nghĩ như vầy: Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu nhiếp thọ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự Ba la mật đa cho đến nhiếp thọ Nhất thiết trí trí. Bồ tát Ma ha tát này lui mất Bát nhã Ba la mật đa. Nếu lui mất Bát nhã Ba la mật đa thời chẳng năng nhiếp thọ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự Ba la mật đa, cho đến chẳng năng nhiếp thọ Nhất thiết trí trí. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Chẳng phải lìa Bát nhã Ba la mật đa năng khắp nhiếp thọ Bồ đề phần pháp và năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khởi nghĩ như vầy: An trụ Bát nhã Ba la mật đa bèn đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề định được nhận ký. Bồ tát Ma ha tát này thời lui mất Bát nhã Ba la mật đa. Nếu lui mất Bát nhã Ba la mật đa, thời đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng được nhận ký. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Chẳng phải lìa Bát nhã Ba la mật đa khá đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề được nhận ký vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khởi nghĩ như vầy: An trụ Bát nhã Ba la mật đa thời năng dẫn phát bố thí Ba la mật đa cho đến tĩnh lự Ba la mật đa. Như vậy cho đến năng dẫn phát đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Bồ tát Ma ha tát này thời lui mất Bát nhã Ba la mật đa. Nếu lui mất Bát nhã Ba la mật đa thời chẳng năng dẫn phát bố thí Ba la mật đa cho đến tĩnh lự Ba la mật đa. Như vậy cho đến chẳng năng dẫn phát đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Chẳng phải lìa Bát nhã Ba la mật đa mà năng dẫn phát an trụ thắng pháp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khởi nghĩ như vầy: Phật biết các pháp không tướng nhiếp thọ, tự chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Được Bồ đề rồi, vì các hữu tình tuyên nói khai chỉ thật tướng các pháp, Bồ tát Ma ha tát này thời là lui mất Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Như Lai đối pháp không hay, không biết, không nói, không chỉ. Sở dĩ vì sao? Vì thật tánh các pháp chẳng thể hay biết, chẳng thể thi thiết, làm sao được có hay biết nói chỉ tất cả pháp ấy? Nếu nói thật có hay biết nói chỉ tất cả pháp ấy là không có lẽ ấy.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa, làm sao sẽ xa lìa được các thứ lỗi lầm như thế?

Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa khởi nghĩ như vầy: Tất cả pháp vô sở hữu chẳng thể lấy. Nếu pháp vô sở hữu chẳng thể lấy thời không có kẻ năng hiện Đẳng giác, cũng không có năng tuyên nói khai chỉ. Nếu hành như thế là hành Bát nhã Ba la mật đa lìa các lỗi lầm.

Nếu Bồ tát Ma ha tát chấp pháp vô sở hữu chẳng thể lấy, thời xa lìa Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đối tất cả pháp không sở chấp trước, không sở nhiếp thọ. Nếu đối các pháp có sở chấp trước, không sở nhiếp thọ. Nếu đối các pháp có sở chấp trước, có sở nhiếp thọ, thời lìa Bát nhã ba la mật đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã ba la mật đa đối Bát nhã ba la mật đa hãy xa lìa hay chẳng xa lìa. Cho đến bố thí Ba la mật đa đối bố thí Ba la mật đa hãy xa lìa hay chẳng xa lìa. Như vậy cho đến Nhất thiết trí trí đối Nhất thiết trí trí hãy xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Nếu Bát nhã ba la mật đa đối Bát nhã ba la mật đa hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, Bồ tát Ma ha tát làm sau được không chấp trước, dẫn phát Bát nhã ba la mật đa. Cho đến nếu bố thí Ba la mật đa đối bố thí Ba la mật đa hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, Bồ tát Ma ha tát làm sao được không chấp trước, dẫn phát bố thí Ba la mật đa. Như vậy cho đếnnếu Nhất thiết trí trí đối Nhất thiết trí trí hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, Bồ tát Ma ha tát làm sao được không chấp trước, dẫn phát Nhất thiết trí trí?

Phật bảo: Thiện Hiện! Bát nhã ba la mật đa đối Bát nhã ba la mật đa chẳng xa lìa chẳng phải chẳng xa lìa. Cho đến Nhất thiết trí trí đối Nhất thiết trí trí chẳng xa lìa chẳng phải chẳng xa lìa. Vậy nên, Bồ tát Ma ha tát được không chấp trước dẫn phát Bát nhã ba la mật đa cho đến dẫn phát Nhất thiết trí trí. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Chẳng tức tự tánh, chẳng lìa tự tánh mà năng an dẫn phát tự tánh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã ba la mật đa chẳng chấp trước sắc rằng đây là sắc, sắc đây thuộc kia. Cũng chẳng chấp trước thọ tưởng hành thức rằng đây là thọ tưởng hành thức, thọ tưởng hành thức đấy thuộc kia. Như vậy cho đến chẳng chấp trước Nhất thiết trí trí rằng đây là Nhất thiết trí trí, Nhất thiết trí trí đây thuộc kia.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này đối tất cả pháp như thế vì không chấp trước nên mới năng dẫn phát được Bát nhã ba la mật đa cho đến bố thí Ba la mật đa. Cho đến năng dẫn phát được Nhất thiết trí trí. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã ba la mật đa, đối trong các pháp có sở chấp trước rằng đây là pháp, pháp đây thuộc kia, thời chẳng năng tùy ý dẫn phát được công đức an trụ thắng diệu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã ba la mật đa chẳng quán sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Cũng chẳng quán thọ tưởng hành thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Cũng chẳng quán thọ tưởng hành thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Cho đến chẳng quán Nhất thiết trí trí hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Bồ tát Ma ha tát này đối tất cả pháp như thế vì chẳng quán sát nên mới năng dẫn phát được Bát nhã ba la mật đa cho đến bố thí Ba la mật đa. Như vậy cho đến năng dẫn phát được Nhất thiết trí trí. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã ba la mật đa đối trong các pháp có sở quán sát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, thời chẳng năng tùy ý dẫn phát được công đức an trụ thắng diệu.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã ba la mật đa thời là tu hành tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa. Cũng là an trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. Cũng là an trụ khổ tập diệt đạo thánh đế. Cũng là tu hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Cũng là tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Cũng là tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Cũng là tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.

Cũng là tu hành Bồ Tát thập địa.Cũng là tu hành tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Cũng là tu hành năm nhãn sáu thần thông. Cũng là tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng là tu hành pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Cũng là tu hành Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Cũng là tu hành tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Cũng là tu hành chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Cũng là tu hành Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tùy đi chỗ nào, sở hữu tất cả Ba la mật đa và tất cả Bồ đề phần pháp thảy đều đi theo. Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu tùy đến chỗ nào, sở hữu tất cả Ba la mật đa và tất cả Bồ đề phần pháp thảy đều đến theo.

Thiện Hiện! Như vua Chuyển luân tùy đi chỗ nào bốn thứ dũng quân thảy đều đi theo. Vua Chuyển luân kia tùy đến chỗ nào bốn thứ dũng quân thảy đều theo đến. Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu cũng lại như thế, tùy có đi đâu và có đến chỗ nào, sở hữu tất cả Ba la mật đa và tất cả các Bồ đề phần pháp thảy đều đi theo đến chỗ rốt ráo là Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện! Như kẻ đánh xe giỏi ngồi xe tứ mã khiến tránh đường hiểm, đi nơi đường chính, theo muốn bản ý nằng đến nơi chỗ. Bát nhã ba la mật đa và tất cả các Bồ đề phần pháp, khiến tránh đường hiểm sanh tử niết bàn, đi nơi đường chính tự lợi lợi tha, đén bản sở cầu Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là đường Thanh văn hoặc đường Độc giác chẳng phải đường các Bồ tát Ma ha tát, vì nương đấy chẳng năng đến Nhất thiết trí trí vậy. Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu sở dẫn sáu thứ Ba la mật đa là đường các Bồ tát Ma ha tát, vì nương đây định năng đến được Nhất thiết trí trí vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu hiện ra thế gian năng xong đại sự, chỗ gọi chỉ rõ tướng đường chẳng phải đường cho các Bồ tát Ma ha tát, khiến chúng các Bồ tát Ma ha tát biết là đường chẳng phải đường, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí?

Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói, Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu hiện ra thế gian năng xong đại sự, chỗ gọi chỉ rõ tướng đường chẳng phải đường cho các Bồ tát Ma ha tát biết đây đường đây chẳng phải đường, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu hiện ra thế gian năng xong đại sự, chỗ gọi độ thoát vô lượng vô số vô biên hữu tình, khiến được lợi ích an vui thù thắng.

Thiện Hiện phải biết: Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu dù làm vô biên lợi ích an vui cho người, mà đối việc đây không sở lấy đắm.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu dù năng chỉ rõ việc sở tác sắc mà đối việc đấy không chỗ lấy đắm. Dù năng chỉ rõ việc sở tác thọ tưởng hành thức, mà đối việc đấy không chỗ lấy đắm. Như vậy cho đến dù năng chỉ rõ việc sở tác Nhất thiết trí trí, mà đối việc ấy không chỗ lấy đắm. Dù năng chỉ rõ việc sở tác Thanh văn Độc giác, mà đối việc đấy không chỗ lấy đắm.

Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu dù năng dẫn đem tất cả chúng Bồ tát Ma ha tát khiến tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, xa lìa Thanh văn bậc Độc giác thảy mà đối pháp vô sanh diệt, lấy tánh pháp trụ làm định lượng vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đối tất cả pháp vô sanh vô diệt, Bồ tát Ma ha tát làm sao khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, vì các hữu tình hành bố thí, trì tịnh giới được, khởi nhẫn an được, siêng tinh tiến được, trụ tĩnh lự được, tu bát nhã được?

Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa duyên Nhất thiết trí trí vì các hữu tình hành bố thí được, trì tịnh giới được, khởi an nhẫn được, siêng tinh tiến được, trụ tĩnh lự được, tu bát nhã được.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này đem căn lành đây cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí như thế, thời tu sáu thứ Ba la mật đa mau được viên mãn, cũng tu Bồ Tát từ bi hỷ xả mau được viên mãn. Cho đến ngồi yên tòa diệu Bồ đề, thường chẳng xa lìa sáu thứ Ba la mật đa như thế. Nếu chẳng xa lìa sáu thứ Ba la mật đa như thế, thời chẳng xa lìa Nhất thiết trí trí.

Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn mau chứng được Nhất thiết trí trí, phải siêng tinh tiến tu học sáu thứ Ba la mật đa, phải siêng tinh tiến tu hành sáu thứ Ba la mật đa.

Nếu Bồ tát Ma ha tát thường siêng tinh tiến tu học, tu hành sáu thứ Ba la mật đa như thế, tất cả căn lành chóng được viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Vậy nên, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát nên cùng sáu thứ Ba la mật đa thường chung tương ưng, chớ bỏ lìa nhau.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát làm sao năng cùng sáu thứ Ba la mật đa thường chung tương ưng chớ bỏ lìa nhau?

Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát như thật quán sắc chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Như thật quán thọ tưởng hành thức chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng.Cho đến như thật quán Nhất thiết trí trí chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Bồ tát Ma ha tát này năng cùng sáu thứ Ba la mật đa thường chung tương ưng, chẳng bỏ lìa nhau.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát hằng khởi nghĩ này: Ta chẳng nên trụ sắc, cũng chẳng nên trụ phi sắc. Ta chẳng nên trụ thọ tưởng hành thức, cũng chẳng nên trụ Nhất thiết trí trí, cũng chẳng nên trụ phi Nhất thiết trí trí. Vì cớ sao? Vì sắc chẳng năng trụ chẳng sở trụ, thọ tưởng hành thức cũng chẳng năng trụ chẳng sở trụ. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí trí chẳng năng trụ chẳng sở trụ vậy. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này năng cùng sáu thứ Ba la mật đa thường chung tương ưng, chẳng bỏ lìa nhau. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát năng dùng phương tiện vô trụ như thế tu hành sáu thứ Ba la mật đa, Bồ tát Ma ha tát này chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện! Ví như có người muốn ăn quả xoài hoặc quả mãng cầu, trước lấy hạt nó, với chỗ đất mầu mỡ mà trồng xuống đó, tùy thời tưới bón, giữ gìn sửa sang. Nó lần lữa sanh trưởng mộng cọng nhánh lá, hòa hợp thời tiết bèn có hoa quả. Quả nên chín rồi, lấy mà ăn đó.

Như vậy, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, trước học sáu thứ Ba la mật đa. Lại đối hữu tình dùng bố thí, hoặc dùng ái ngữ, hoặc dùng lợi hành, hoặc dùng đồng sự mà nhiếp thọ đó. Đã nhiếp thọ rồi, dạy khiến an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa. Đã an trụ rồi giải thoát tất cả sanh lão bệnh tử, chứng được an vui thường trú rốt ráo. Bồ Tát như vậy sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng sanh.

Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn đối các pháp chẳng nhờ duyên người mà mình tự ngộ hiểu, muốn năng thành thục tất cả hữu tình, muốn đối cõi Phật năng khéo trang nghiêm tịnh, muốn mau ngồi yên tòa diệu Bồ đề, muốn năng uốn dẹp tất cả ma quân, muốn chóng chứng được Nhất thiết trí trí, muốn quay xe pháp thoát chúng hữu tình sanh lão bệnh tử, chứng được an vui thường trú rốt ráo. Cần học sáu thứ Ba la mật đa, dùng bốn nhiếp sự phương tiện nhiếp thọ các chúng hữu tình. Đã nhiếp thọ rồi nên khiến an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa. Bồ Tát như thế khi siêng tu học, nên đối Bát nhã Ba la mật đa thường siêng tu học.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com