Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

100 Câu Hỏi Phật Pháp (Tập 3)

01/07/201514:36(Xem: 28517)
100 Câu Hỏi Phật Pháp (Tập 3)

100 cau hoi Phat Phap tap 3_ThichPhuocThai


100 Câu Hỏi Phật Pháp Tập 3

 

Đôi lời giới thiệu


Trên bước đường tu học Phật, ít nhiều gì, Phật tử cũng thường hay gặp phải những thắc mắc, nghi vấn các vấn đề mà tự mình chưa có thể tìm ra giải đáp. Có những nghi vấn mang tính chất thuần túy kinh điển, nặng về phần nghiên cứu học thuật. Bên cạnh đó, cũng có những nghi vấn liên quan thiết thân trong đời sống sinh hoạt hằng ngày mà bất cứ người Phật tử nào cũng gặp phải trong khi tu học.

Khởi đi từ yếu tố thiết thực đó và cũng muốn để trao đổi trong nhu cầu nghiên cứu, học hỏi Phật pháp, nhứt là đối với những người hằng quan tâm đến Phật giáo, suốt thời gian qua, trong các khóa tu học ngắn hay dài hạn, đều có đề ra mục Phật Pháp Vấn Đáp, để cho quý Phật tử nêu ra những nghi vấn thắc mắc. Và những nghi vấn thắc mắc nầy, đã được thầy Phước Thái gom góp lại để giải đáp thành 100 Câu Hỏi Phật Pháp.

Năm 2010, 100 Câu Hỏi Phật Pháp tập 2 đã được ấn hành 1500 bản. Sách ấn hành chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn thì số lượng sách đã không còn. Từ đó đến nay (2015), trải qua thời gian 5 năm, đạo tràng đã tổ chức nhiều khóa tu học. Cũng như lần trước, những câu hỏi của Phật tử, đã được thầy Phước Thái chịu khó góp nhặt lại để biên soạn thành 100 câu hỏi Phật pháp tập 3. Xét thấy, nội dung của tập 3 nầy, chất lượng cũng không thua kém gì tập 1 và tập 2.

Chúng tôi nhận thấy qua những lời hỏi đáp trong đây không những nó đem lại bổ ích có thêm phần kiến thức Phật pháp cho người Phật tử, mà nó còn mang lại những giá trị thiết thực ích lợi trong việc thật hành của đời sống thực tế hằng ngày.

Hiện nhơn loại đang sống trong một xã hội quá thiên trọng về vật chất, mà xem nhẹ xao lãng về phần tinh thần, đánh mất những yếu tính nhân bản, đạo đức, gây ra biết bao những xáo trộn, tệ nạn, bất an cho xã hội.

Đứng trước thảm trạng bi đát đó, chúng tôi thiết nghĩ, tập sách 100 Câu Hỏi Phật Pháp tập 3 nầy, tuy lượng không bao nhiêu, nhưng phẩm thì rất bổ ích. Nó sẽ là một món ăn tinh thần rất quý giá về mặt bổ dưỡng cho đời sống tâm linh, nhứt là trong chiều hướng xây dựng nếp sống đạo đức nhân bản  hiện nay.

Dựa trên những yếu tố xây dựng căn bản đó, chúng tôi xin hân hạnh trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả tác phẩm hữu ích nầy mà soạn giả đã dày công biên soạn để cống hiến cho quý Phật tử xa gần trong tinh thần cầu tiến học hỏi, chuyển hóa, tu tập.

Chúng tôi xin có mấy lời giới thiệu và cũng xin tán thán công đức  việc làm nầy của soạn giả.

Trụ Trì Chùa Quang Minh

Thượng Tọa Thích Phước Tấn

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Lời Đầu Sách

Quyển sách 100 Câu Hỏi Phật Pháp tập 3 nầy, cũng như tập 2, những câu trả lời trong đây, phần lớn là chúng tôi giải đáp những nghi vấn thắc mắc của quý tu sinh trong những khóa tu học, do chúng tôi cùng quý thầy đứng ra tổ chức. Ngoài ra, chúng tôi cũng có nhận được một số câu hỏi thắc mắc do quý Phật tử các nơi gởi đến qua địa chỉ email.

Qua những câu hỏi của quý liên hữu, Phật tử mà chúng tôi đã giải đáp, thật ra, những điều giải đáp ngắn gọn sơ sài nầy, cũng chưa đạt được sự thỏa mãn yêu cầu của quý vị. Nhưng với tinh thần chia sẻ trao đổi học hỏi Phật pháp với nhau, tùy theo khả năng hiểu biết của chúng tôi tới đâu, thì chúng tôi thật tâm cố gắng giúp cho quý vị tới đó.

Trong khi trao đổi giải đáp những câu hỏi thắc mắc trực tiếp, cũng như một số câu hỏi ở các nơi gởi qua địa chỉ email nhờ chúng tôi giải đáp, phải thành thật mà nói, đây là những câu hỏi rất thật thà đầy chân tình mà những vị đó thật tâm muốn biết. Thật chúng tôi vô cùng cảm động khi chia sẻ trao đổi trả lời. Khi xem qua những câu hỏi và những câu trả lời chơn chất mộc mạc nầy, kính mong quý độc giả, các bậc cụ nhãn cao minh, thương tình cảm thông lượng thứ cho những hiểu biết còn thô sơ nông cạn của chúng tôi.

Nhân đây, chúng tôi cũng xin chân thành tri ân quý liên hữu, Phật tử đã nêu ra những câu hỏi. Nhờ đó mà chúng tôi mới có được thêm quyển sách 100 Câu Hỏi Phật Pháp tập 3 nầy. Như vậy, quyển sách nầy cũng như hai quyển tập 1 và tập 2 trước đây, tất cả đều do sự đóng góp chung của tất cả quý vị nên nó mới được hình thành. Đồng thời, chúng tôi cũng xin chân thành tri ân Thượng Tọa Thích Phước Tấn đã có lời giới thiệu, Đại Đức Thích Phước Quảng, Sư Cô Thích Phước Thanh, Sư Cô Thích Phước An và các Phật tử Lệ Phượng, Hồ Sĩ Trung đã tận tình giúp cho phần kỹ thuật trình bày và sửa bản in. Chúng tôi cũng không quên cám ơn thầy Phước Viên đã tận tâm giúp cho phần in ấn và quý liên hữu, Phật tử xa gần đã phát tâm đóng góp tịnh tài để ấn hành quyển sách nầy.

Kính xin tất cả nhận nơi đây lòng biết ân sâu xa của chúng tôi và chúng tôi cũng xin nguyện đem công đức nầy hồi hướng cho pháp giới chúng sanh đều trọn thành Phật đạo.

Soạn giả cẩn chí

Biên soạn xong ngày 4/3/2015

Nhằm ngày 14 tháng giêng năm Ất Mùi

Pháp Lạc Thất

Tỳ kheo Thích Phước Thái

 

1. Cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà có phải ở trong Tam giới không?

 

Hỏi:  Bạch Thầy, con có ba câu hỏi mong thầy giải đáp cho con được rõ:

1. Cõi Cực lạc của đức Phật A Di Đà là thuộc trong Tam giới hay ngoài tam giới?

2. Cõi Cực lạc là do tâm thức biến hiện ra hay thật có?

3. Cõi Cực lạc có gần với chân không, chân như không?

 

Đáp: Qua ba câu hỏi của Phật tử, tôi xin lần lượt giải đáp để cho Phật tử hiểu rõ thêm.

 

1. Về câu hỏi thứ nhứt, tôi xin xác quyết ngay là cõi Cực lạc không thuộc trong phạm vi Tam giới. Nhưng trước hết, thiết nghĩ, chúng ta cũng cần nên hiểu Tam giới là gì? Trong quyển Từ Điển Phật Học Huệ Quang tập V trang 4103 có giải thích Tam giới như sau: "Tam giới là ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.

 

-  Dục giới (Kàma-dhàtu) : Thế giới của những loài hữu tình còn các tính dâm dục, tình dục, sắc dục, thực dục. Trên từ cõi trời Tha hóa tự tại thứ 6, giữa là cõi người, dưới đến địa ngục Vô Gián; vì nam nữ ở lẫn lộn, nhiều thứ dục nhiễm nên gọi là Dục giới.

 

-  Sắc giới (Rùpa-dhàtu): Sắc nghĩa là biến ngại hoặc thị hiện, là thế giới của những loài hữu tình đã xa lìa dâm dục và thực dục của cõi Dục, nhưng vẫn còn sắc chất thanh tịnh. Thế giới nầy ở trên Dục giới, không có dục nhiễm, cũng không có thân nữ, chúng sinh ở đây đều do hóa sinh, cung điện cao lớn, là do sự hóa sinh của Sắc tất cả đều rất vi diệu, tốt đẹp. Vì còn có sắc chất, nên gọi là Sắc giới. Tùy theo thiền định sâu cạn, thô diệu mà cõi nầy được chia làm 4 bậc, từ sơ thiền Phạm thiên cho đến cõi trời A ca rị tra, tất cả có 18 tầng trời.

 

- Vô sắc giới (Arùpya-dhàtu): Thế giới của những loài hữu tình chỉ có: Thụ, tưởng, hành, thức. Thế giới nầy không có một thứ gì thuộc về vật chất, cũng không có thân thể, cung điện, cõi nước, chỉ có tâm thức trụ sâu trong thiền định nên gọi là Vô sắc giới. Thế giới nầy ở trên Sắc giới, gồm có Tứ thiên ( Không vô biên xứ thiên, Thức vô biên xứ thiên, Vô sở hữu xứ thiên và Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên), còn gọi Tứ vô sắc, Tứ không xứ.

 

Quả báo của Tam giới nầy tuy có hơn kém, khổ vui khác nhau nhưng đều thuộc cõi mê, là những thế giới sinh tử luân hồi của chúng sinh, các bậc Thánh đều lìa bỏ.

 

Theo Phẩm Thí Dụ Kinh Pháp Hoa ghi: "Ba cõi không an, giống như nhà lửa, các khổ đầy dẫy, rất đáng sợ hãi".

 

 Nêu ra như thế để Phật tử thấy rằng, cõi Cực lạc không thuộc trong phạm vi Tam giới. Không ở trong Tam giới, tất nhiên là phải ở ngoài Tam giới. Trong Kinh Di Đà Tiểu Bổn, đức Phật Thích Ca Mâu Ni có nói: "Từ thế giới nầy đi về bên cõi Tây phương Cực lạc phải trải qua mười muôn ức Phật độ, có một thế giới, gọi là Cực lạc. Cõi ấy có Phật hiệu A Di Đà hiện đang thuyết pháp". Lời dạy nầy là đức Phật nhằm xác quyết cho chúng ta biết có cõi Cực lạc ở ngoài Tam giới. Bởi chúng sinh ở cõi Cực lạc thụ hưởng những thứ vui cùng cực không có khổ như cõi Ta bà nầy, nên gọi cõi đó là Cực lạc.

 

2. Cõi Cực lạc không phải do tâm thức biến hiện mà là một cõi có thật. Điều nầy, trong Kinh Di Đà đức Phật đã diễn tả cho chúng ta thấy rất rõ. Một thế giới có đầy đủ chánh báo và y báo trang nghiêm thù thắng vi diệu, thì sao gọi là tâm thức biến hiện được? Nói tâm thức biến hiện là cái không có rồi mình tưởng tượng ra cho có. Như ngồi trong nhà tưởng tượng như có con quỷ hung dữ ở ngoài sân, kỳ thật ngoài sân không có con quỷ. Hoặc giả dưới ánh trăng soi thấy tàu lá chuối rung rinh tưởng là bóng người áo trắng đang lay động. Thấy gốc cây to trong đêm mờ ảo ta tưởng là con ma v.v... Đó gọi là do thức biến hiện ra. Còn cõi Cực lạc là do đức Phật A Di Đà dùng công đức trang nghiêm mà tạo thành. Với 48 điều đại nguyện của Đức Phật cũng đủ để chứng minh cho chúng ta thấy rất rõ điều đó. Một cảnh giới nếu chỉ do tâm thức biến hiện ra, thì cảnh giới đó không thật. Nếu chúng ta tha thiết chuyên cần trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà, tương tục không gián đoạn, đến khi lâm chung sẽ được Phật Di Đà và các hàng Thánh chúng tiếp dẫn chúng ta về cõi nước của Ngài. Vì đó là bản nguyện tiếp dẫn độ sanh của Ngài. 

 

3. Đã gọi là cõi có nghĩa là một thế giới ngoại tại, tất nhiên là phải có hình tướng, thì làm sao gần với chân không, chân như được. Vì chân không hay chân như không có hình tướng và không có sinh diệt. Đây là cảnh giới thân chứng, do sạch hết vô minh phiền não mà thể tánh chân như hiện bày. Tuy nhiên, tất cả các pháp đều không ngoài thể tánh chân như mà có. Cõi Cực lạc cũng không ngoài thể tánh chân như mà thành. Thí như tất cả cảnh vật không ngoài hư không mà có. Nhưng hư không không phải là chân như, vì hư không là vô tri. Cho nên,  thể tánh chân như bao trùm khắp hết muôn pháp vậy.

 

Nói tóm lại, cõi Cực lạc là một cảnh giới có thật và nó không thuộc trong phạm vi Tam giới, vì chúng sinh trong ba cõi vẫn còn bị sinh tử luân hồi và do đó, tất nhiên chúng sinh vẫn còn phải chịu nhiều điều đau khổ. Ngược lại, cõi Cực lạc vượt ngoài vòng luân hồi sống chết và không còn đau khổ như cõi Ta bà. 

 

Kính chúc Phật tử có đầy đủ chánh tín để niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc.

 

2. Thờ một vị Phật hoặc Bồ tát đến ngày vía cúng Phật Bồ tát khác có được không?

 

Hỏi: Kính thưa thầy, Thầy cho con hỏi hiện nay trong nhà con thờ hình tượng Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, nhưng đến những ngày vía của các Vị Phật hoặc Bồ Tát khác, như ngày vía của Phổ Hiền Bồ tát, hay Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, con thiết lễ hoa quả và cúng bái các vị Bồ tát đó có được không? Xin thầy hoan hỷ trả lời cho con biết.

 

Đáp: Đối với chư Phật, Bồ tát trong lúc tu nhân thì mỗi vị đều có những bản nguyện và công hạnh khác nhau. Tuy nhiên, khi thành Phật hay thành Bồ tát rồi thì không có khác. Chỉ khác nhau trên danh xưng hoặc hình thức mà thôi, còn bản thể thì hoàn toàn không khác. Thí như bản chất vàng thiệt thì chỉ có một, nhưng những món đồ trang sức bày bán ở thị trường thì có khác. Tuy mỗi món đồ có khác nhau, nhưng tất cả đều có chung một bản thể là vàng thiệt. Chư Phật, Bồ tát cũng thế. Mỗi vị Phật, Bồ tát tên gọi và bản nguyện độ sanh có khác nhau, nhưng thể tánh thì không hai. Tuy Phật tử thờ Thánh tượng Bồ tát Quan Thế Âm, hay bất cứ hình tượng Phật, Bồ tát nào khác, tới ngày lễ vía của các vị Phật Bồ tát đó, thì Phật tử cũng đều có thể thiết lễ hương hoa cúng bái được cả. Việc làm nầy không có gì sai trái đâu mà Phật tử lo sợ. Chỉ sợ là mình không thành tâm cúng bái các Ngài đó thôi.

 

Như đã nói, chư Phật, Bồ tát cùng đồng một thể tánh, nên Phật tử cúng một vị Phật hay Bồ tát thì các vị Phật, Bồ tát khác cũng đều chứng minh tấm lòng thành của Phật tử rồi. Dụ như trong nhà của Phật tử có nhiều bóng đèn, tuy các bóng đèn hình thể lớn, nhỏ, vuông, tròn, ngắn, dài có khác nhau, nhưng dòng điện thì chỉ có một. Tất cả đều có chung một dòng điện. Nếu không, thì tại sao khi mở công tắc tất cả đều cháy? Khi cúng vía cho vị Phật hay Bồ tát nào, thì Phật tử nên xưng danh hiệu của vị Phật hay Bồ tát đó mà đảnh lễ. Và đồng thời Phật tử cũng có thể niệm danh hiệu của các vị Phật hay Bồ tát khác. Điều nầy không có gì là sai trái lầm lỗi. Điều quan trọng là khi cúng đảnh lễ các Ngài, thì Phật tử phải hết lòng chí thành. Người xưa nói: "Chí thành thông Thánh". Tâm chí thành tha thiết hết sức quan trọng trong khi chúng ta tụng kinh, niệm Phật, hay lễ bái... có tâm chí thành tha thiết thì mới cảm ứng đến chư Phật và Bồ tát. Có thế, thì chúng ta mới tăng thêm phước đức và có an lạc hạnh phúc ngay trong hiện tại. Đó là điều rất hệ trọng mà chư Tổ và các bậc Tôn Đức thường khuyến nhắc chúng ta.

 

Kính chúc Phật tử và gia đình luôn được bình an hạnh phúc và tinh tấn tu hành niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc.

 

3. Luật nhân quả có công bằng không?

 

Hỏi: Kính thưa thầy, tại sao đời nầy có người làm ác mà họ lại được giàu có? theo luật nhân quả thì do đời trước họ bố thí nên nay họ mới được giàu có. Thế nhưng, tại sao họ lại không tiếp tục làm lành bố thí nữa mà họ lại làm toàn những việc xấu ác? Như vậy có trái với luật nhân quả không?

 

Đáp:  Đọc qua câu hỏi của Phật tử, tôi thấy Phật tử vừa nêu câu hỏi mà cũng vừa tự giải thích. Thật ra, có ba vấn đề mà Phật tử muốn biết. Nhân đây, tôi cũng xin nêu ra từng vấn đề một để tạm trao đổi giải thích đôi điều cho Phật tử hiểu thêm.

 

1. Phật tử thắc mắc: "Tại sao đời nầy có người làm ác mà họ lại được giàu có"?  Câu hỏi nầy rất là hữu lý. Điều thắc mắc nầy, không phải chỉ riêng gì Phật tử, mà tôi thiết nghĩ, cũng có nhiều người thắc mắc như thế. Sở dĩ, đời nầy họ làm ác mà họ được giàu có, là vì theo nhân quả, thì đời trước họ đã có thật hành ít nhiều hạnh bố thí. Tuy họ biết bố thí làm những việc từ thiện giúp người, nhưng họ không biết tu. Vì không biết tu nên những tập khí phiền não quá khứ của họ còn quá nhiều. Do đó, nên đời nay sanh ra họ hưởng cái quả báo bố thí của đời trước mà họ được giàu có. Đó là nói do tập nhiễm xấu ác đời trước của họ.

 

Còn đối với cái tập nhân xấu ác của đời nầy là do họ tiếp cận với môi trường sống của xã hội. Như thường giao du với các bạn bè xấu ác, bị ảnh hưởng tập nhiễm lâu ngày, nên họ mới trở thành người bất thiện. Như vậy, tuy hiện đời họ làm ác nhưng họ vẫn giàu có, đó là ta phải xét đến cái nhân quá khứ và cái nhân hiện tại. Giàu có là do cái nhân quá khứ họ biết làm phước giúp người. Phật tử nên nhớ, làm phước giúp người chưa phải là tu. Mà đó chỉ biết làm phước mà thôi. Tu là phải chuyển hóa ở nơi ba nghiệp: "thân, miệng, ý". Chuyển hóa nghiệp dữ thành nghiệp lành. Nếu làm phước mà trong tâm vẫn còn đầy dẫy  tham, sân, si, thì vẫn còn tạo nghiệp ác.

 

Như có người đang phân phát bố thí tài vật cho những người nghèo khổ hay bệnh tật, nhưng có ai đó lỡ làm trái ý nghịch lòng họ, thì ôi thôi! tam bành lục tặc của họ nổi lên như sóng cồn. Họ tía tai đỏ mặt, hung hăng bậm trợn la ó om sòm. Thậm chí có người còn nặng lời mắng nhiếc nữa. Như vậy, việc làm phước của họ, không những không được lợi ích mà nó còn gây thêm tội lỗi. Chẳng những người nhận bố thí không mang ơn họ, mà trái lại họ còn bị người ta oán ghét căm thù. Đó là nói nhân và quả hiện tại. Vì vậy, Phật tử nên nhớ, làm phước bố thí là một chuyện, nhưng phải khéo biết tu hành nữa. Nếu không biết tu hành thì cũng vẫn thọ quả báo khổ đau như thường. Tùy theo nghiệp ác nặng nhẹ mà mình đã gây tạo nên phải bị chiêu cảm lãnh lấy quả báo ác. Như có người, họ rất là giàu có, tiền kho bạc đụn, nhà cao cửa rộng, vật chất dồi dào, không thiếu thứ gì, nhưng bản thân của họ thì luôn luôn bị đau yếu bệnh hoạn rề rề trị chữa thuốc thang hoài mà vẫn không hết. Tại sao thế? Tại vì đời trước họ có làm phước bố thí giúp người, nhưng họ vẫn sát sanh hại vật quá nhiều, nên nay tuy họ giàu có, mà nghiệp sát sanh của họ vẫn phải trả. Nhân quả không thể lấy cái nầy bù qua cái kia được. Gieo cái nhân nào thì phải gặt hái cái quả báo đó.

 

2. Câu hỏi thứ hai, Phật tử thắc mắc: Tại sao họ lại không tiếp tục làm lành bố thí nữa mà họ lại làm toàn những việc xấu ác? Phật tử nên biết, không phải ai giàu có cũng làm lành bố thí tu nhân tích đức hết đâu. Dù đời trước họ có bố thí, nhưng không phải vì thế mà đời nầy sanh ra họ lại tiếp tục làm lành bố thí nữa. Bởi trong kinh có nói: "Bồ tát cách ấm còn mê". Đời nầy giàu có là do họ hưởng được cái phước báo của đời trước và cũng phải do cái nhân hiện tại nữa. Nhân hiện tại là họ siêng năng chịu khó làm ăn. Song có điều vì họ có phước nên làm đâu được đó. Dụ như có hai cửa hàng cùng buôn bán gần nhau, nhưng một cái, thì lại bán đắt như tôm tươi, khách hàng tới mua nườm nượp bán không kịp, còn một cái, thì lại bán ế ẩm vì vắng khách hàng tới mua. Như vậy, ta tự hỏi: tại sao hai cửa hàng cùng bán hàng hóa và giá cả giống nhau mà cái thì bán đắt, cái thì bán ế? Phải chăng cái cửa hàng bán đắt là do vì họ có phước, còn cái cửa hàng bán ế, là do vì họ kém phước. Do đó, cái phước báo hơn kém nhau là do ở chỗ gây nhân lành dữ không đồng. Đó là nói sự làm ăn tương đối có phần lương thiện. Tuy nhiên, không phải ai làm giàu cũng là lương thiện hết đâu.

 

Có người làm giàu trên sự đau khổ của kẻ khác. Họ bất chấp mánh mung, gian xảo, thủ đoạn miễn sao có lợi cho họ là được. Ai chết mặc ai, họ không một chút từ tâm thương tiếc. Đó là do lòng tham lam ham muốn làm giàu thúc đẩy họ. Nhưng sự giàu sang nầy thử hỏi họ hưởng được bao lâu? Có biết bao người làm giàu trên mồ hôi nước mắt, xương máu của kẻ khác, cuối cùng, họ cũng bị tiêu tan tán gia bại sản trắng tay không còn gì cả. Chính điều nầy mới là đau khổ ngút ngàn không biết phải than thở cùng ai! Đó cũng là nhân quả của thiên phải hoàn trả cho địa vậy.

 

3. Đến điều thắc mắc thứ ba, Phật tử kết luận: "Như vậy có trái với luật nhân quả không?" Tôi xin thưa ngay là không có gì chống trái cả. Qua những điều tôi tạm nêu ra trình bày ở trên, thiết nghĩ, Phật tử cũng thấy rõ được điều đó. Nghĩa là không có gì chống trái nhau. Hễ gây nhân nào tất nhiên là phải hưởng cái quả báo đó. Bởi luật nhân quả là một định luật tất yếu và rất công bằng. Không có một vật gì dù lớn như quả địa cầu hay nhỏ như hạt bụi li ti mà thoát ra ngoài luật nhân quả. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nên hiểu rõ thêm về chữ "luật" nói ở đây. Nói luật nhân quả, tất nhiên là khác với luật pháp ở thế gian. Bởi luật pháp ở thế gian là do con người đặt định ra. Như nói luật lệ giao thông, luật mua bán nhà đất v.v... Ngược lại luật nhân quả không ai tạo ra nó cả. Mà nó là một quy luật tự nhiên của vũ trụ. Nó tiềm tàng chi phối mọi vật thể. Cho nên, người ta gọi nó là thứ chân lý phổ biến bao trùm khắp cả sự vật.

 

Để Phật tử hiểu rõ hơn, tôi xin được giải thích thêm về lý nhân quả. Nhân là hạt giống, quả là trái hay kết quả. Như ta gieo hạt cam thì hạt cam là nhân của trái cam. Tuy nhiên, từ khi gieo hạt đến kết thành trái cam, nó còn đòi hỏi phải có các duyên, tức những điều kiện phụ thuộc. Cho nên, khi nói đến nhân quả là phải nói đến nhân duyên. Bởi giữa nhân quả và nhân duyên nó có sự quan hệ mật thiết với nhau. Nếu ta đem gieo hạt cam mà không có các trợ duyên phụ thuộc, thì hạt cam đó cũng không có kết quả. Ta có thể nói, hạt cam là chánh nhân là cái nguyên nhân chánh để sinh thành trái cam. Nhưng nếu chỉ có hạt cam không thôi thì làm sao thành trái cam? Do đó, nó còn đòi hỏi phải hội tụ đầy đủ các duyên, tức các điều kiện tốt để cho hạt cam phát triển tốt. Những điều kiện tốt đó như: đất, nước, ánh sáng mặt trời, không khí, phân bón, người chăm sóc v.v... Có đầy đủ những yếu tố đó thì mới giúp cho hạt cam sinh trưởng theo chiều thuận. Nếu những trợ duyên nghịch lại, thì chánh nhân không thành. Hoặc giả khi gieo nhân, nếu không chăm sóc kỹ lưỡng thì cái hạt nhân đó cũng không thành quả. Thí như ta gieo hạt cải, nhưng ta không để ý, bị lũ kiến tha hết, vài ngày sau ta thấy toàn là cỏ không. Như vậy, ta liền thắc mắc, tại sao ta gieo hạt cải mà kết quả lại là cỏ? Đó gọi là nghịch duyên. Vì thiếu sự quan tâm chăm sóc của ta. Cũng thế, có người đang làm lành như đi chùa, tụng kinh, niệm Phật v.v... bị một nghịch duyên nào đó xảy đến, thì họ lại bỏ ngang sự tu hành, như thế cái kết quả sẽ không được như ý họ. Hoặc có người làm công quả giúp cho chùa, ta thấy họ rất là tốt, lẽ ra họ sẽ được mọi người kính mến, nhưng vì họ nghĩ họ là người có công lao giúp cho chùa nhiều hơn những người khác, thế là họ sanh cái tâm cống cao ngã mạn khinh thường người khác, họ nặng lời chê bai quở trách mạ nhục những người cùng cộng sự với họ, thay vì họ được người ta kính mến, nhưng họ lại bị người ta oán hận thù ghét. Bởi do họ không khéo giữ ở nơi ý nghiệp và khẩu nghiệp của họ. Đó gọi là nghịch duyên. Chỉ cần một điều kiện nào đó đi ngược lại, thì cái chánh nhân kia sẽ bị thay đổi ngay. Vì thế ta cần phải lưu tâm cẩn thận điều nầy.

 

Điều ta nên chú ý hơn nữa là nhân quả được đặt định trên chiều thời gian. Nghĩa là từ nhân tới quả cần phải có thời gian. Thời gian là phải xuyên suốt qua ba thời kỳ: quá khứ, hiện tại và vị lai. Như Phật tử nói, đời nầy có người làm ác mà họ lại được giàu có. Dựa trên lý nhân quả Phật tử lại nói thêm, sở dĩ họ được giàu có là do đời trước họ bố thí. Nhân bố thí được hưởng quả giàu có. Điều nầy không sai. Như vậy, thì có phải nhân nào quả nấy không? Nhân quả như bóng theo hình, như vang theo tiếng. Hình thẳng thì bóng ngay, mà hình cong thì bóng vạy. Bởi thế, nên người ta mới nói nhân quả là luật rất công bằng, không thiên vị một ai. Luật nầy không có thể dùng đồng tiền lo lót chạy chọt hối lộ mà có thể thay đổi được.

 

Tuy nhiên, nhân quả cũng không phải cứng ngắc như thế. Ta cũng có thể chuyển đổi được. Ta chuyển ở nơi nhân chớ không phải chuyển ở nơi quả. Như trước kia, ta là kẻ xấu ác hay cờ bạc rượu chè say sưa nghiện ngập, hút chích xì ke ma túy, buôn lậu nha phiến, gây đau khổ cho nhiều người. Nay ta ý thức nhận định được cái hậu quả tai hại của việc làm đó, ta liền mạnh dạn dứt khoát không tiếp tục gây nhân xấu ác đó nữa. Chẳng những ta không gây nhân xấu ác mà ta còn làm những điều lành thi ân bố thí tương tế giúp người. Như thế, ngang đó, là ta sẽ hết khổ ngay. Thế là, từ cái nhân xấu ác ta chuyển thành cái nhân tốt đẹp. Đó là quyền chuyển đổi của ta. Nói cách khác, chuyển nghiệp cũng có nghĩa là ta chuyển đổi thói quen xấu thành thói quen tốt. Bởi thế nên nói tu là chuyển nghiệp chính là ý nầy vậy. Nếu tu mà không chuyển được nghiệp thì không ai tu hành làm gì.

 

Kính chúc Phật tử luôn sống trong ánh quang minh soi sáng của trí tuệ và chuyên tâm tu hành theo lý nhân quả mà hành thiện lợi mình, lợi người để được hưởng những quả báo tốt đẹp vậy.

 

4. Vợ chồng yêu thương nhau đời sau có gặp lại không?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, vợ chồng sống chung yêu thương với nhau, nhưng con không hiểu, kẻ chết trước, người chết sau, kiếp tới có gặp lại nhau không? Kính xin thầy giải đáp cho con hiểu. Con kính cám ơn thầy.

 

Đáp: Vấn đề nầy còn tùy thuộc vào hai người, không thể đơn phương mà quyết định được. Dựa theo lý nhân quả Phật dạy, chúng tôi xin được trình bày góp chút thành ý như sau:

 

 Việc gặp nhau hay không là do ở nơi mỗi người tự định đoạt lấy. Nếu như hai người cùng thề nguyền hẹn ước sẽ làm vợ chồng ở kiếp lai sinh thì điều đó, theo lý nhân quả, thật khó mà tránh khỏi. Bởi chính do cái niệm luyến ái yêu thương nồng nàn sâu đậm, nó tạo thành chất keo ràng buộc dính khắn thắt chặt hai người lại. Sự ràng buộc thắt chặt đó, không những trong hiện tại mà nó còn dính khắn kéo dài mãi đến mai sau. 

 

Dù cho sông cạn đá mòn

Thề non hẹn biển vẫn còn gặp nhau

Không luận chết trước chết sau

Còn duyên còn nợ kiếp sau vẫn còn.

 

Cái nhân của kiếp nầy là vậy, thì nó sẽ dẫn tới cái quả báo của kiếp sau cũng thế. Trừ phi, nếu một trong hai người không muốn tiếp tục cái cảnh vợ chồng nữa. Thí như bà đã ý thức chán ngán cái kiếp sống làm người có quá nhiều khổ đau hệ lụy, nên từ đó, bà không muốn tiếp tục làm người nữa để phải thọ khổ. Thế là mỗi người tự tìm hướng đi cho riêng mình. Tuy hai người vẫn còn yêu thương nhau, nhưng ông hoặc bà không muốn tiếp tục nữa. Như thế thì sẽ không bao giờ gặp nhau. Vì đường ai nấy đi, tình nghĩa đôi ta chỉ có thế thôi, như thế, thì làm sao gặp được? Dụ như một người cứ cắm đầu lầm lũi đi tới, không bao giờ ngó ngoáy lại, còn người kia cứ đuổi rượt theo sau, thử hỏi như vậy hai người đó có gặp nhau không? Tất nhiên là không. Bởi vì nó không còn đồng cảm nghiệp quả với nhau nữa. Cái nhân đã thay đổi thì cái quả cũng sẽ thay đổi theo. Còn việc chết trước hay chết sau thì không thành vấn đề. Bởi do thề nguyền, nên dù chết trước hay chết sau gì rồi cũng sẽ gặp lại nhau mà thôi.

 

Thí như lúc còn sống, ông chồng có dịp phải đi nơi nào đó trước, và ông nói là sẽ hẹn gặp lại bà vợ sau. Khi đến nơi đó, dù giá nào ông cũng phải cương quyết chờ đợi cho bà đến kỳ được. Vì hai người có hẹn ước với nhau. Chỉ trừ trường hợp, bà thay lòng đổi ý là không đi hoặc là đi nơi khác, như thế thì mới không gặp lại nhau. Còn nếu bà quyết định đi đến nơi để gặp ông, chẳng ngại gian lao khó khăn cản trở, miễn sao gặp lại ông cho thỏa lòng mong nhớ là được. Đã thế, thì bảo sao không gặp lại nhau? Như vậy, dù có chết trước hay chết sau gì cũng sẽ gặp lại nhau mà thôi.

 

Việc nầy tùy mỗi người quyết định không ai có quyền quyết định thế cho ai được.

 

Kính chúc Phật tử có đầy đủ sáng suốt để chọn lựa cho mình có một hướng đi vững chắc an thoát tốt đẹp.

 

5. Niệm Phật nhưng còn ăn mặn có được vãng sanh không?

 

Hỏi: Kính thưa thầy, hằng ngày con niệm Phật, nhưng con không có ăn chay trường, như vậy chết con có được vãng sanh không?

 

Đáp: Việc ăn chay hay ăn mặn còn tùy vào cái căn duyên nghiệp quả sâu cạn của mỗi người. Người có căn duyên với Phật pháp sâu dầy thì việc ăn chay đối với họ phải nói không có gì là khó khăn lắm. Ngược lại, thì cũng không phải là chuyện dễ dàng. Thậm chí, có người chỉ ăn chay một bữa thôi mà họ ăn còn không được thay! Huống hồ là ăn chay kỳ hay ăn chay trường. Vì khi cầm đũa lên là họ nhớ đến thịt cá. Do đó, xin đừng bắt họ phải ăn chay. Bởi biệt nghiệp của mỗi người sâu cạn, dầy mỏng có khác nhau. Nói thế, không có nghĩa là chúng ta phó mặc buông xuôi theo duyên nghiệp. Bởi nghiệp là do thói quen, ta cũng có quyền chuyển đổi thói quen xấu trở thành thói quen tốt. Nếu ta ý thức và cương quyết thì không có gì mà làm không được. Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: "Ăn thịt chúng sinh là đồng với sát hại chúng sinh vậy".

 

 Nếu Phật tử niệm Phật mà lại thêm ăn chay trường nữa thì điều đó rất là quý giá. Tuy nhiên, nếu Phật tử ăn chay trường chưa được thì cũng nên tập dần. Nghĩa là mình cứ tăng dần ngày chay kỳ lên đến một lúc nào đó Phật tử cảm thấy không còn thèm thịt cá nữa, thì bấy giờ Phật tử ăn trường chay luôn. Phật Tổ lúc nào cũng khuyên bảo chúng ta nên ăn chay tránh sát hại sinh vật. Bởi sát sinh hại vật là tội lớn nhứt. Thế nên, chúng ta cố gắng tập ăn chay để nuôi dưỡng lòng từ bi và tránh được quả báo oán thù.

 

Trường hợp của Phật tử dù chưa ăn chay trường được, nhưng nếu Phật tử vẫn cố gắng bền tâm niệm Phật và phải niệm Phật cho đúng cách theo lời Phật Tổ chỉ dạy trong kinh điển thì cũng sẽ được vãng sanh. Theo tôi, việc ăn chay tuy là quan trọng, nhưng cũng không quan trọng bằng mình chân thành tha thiết niệm Phật. Có người chỉ biết ăn chay trường thôi, còn việc tu hành niệm Phật thì họ lại coi thường lơ là lúc niệm, lúc không. Nghĩa là họ không có giữ vững lập trường trong việc tu niệm. Họ không có thành tâm tha thiết gì đến việc niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc cả. Thử hỏi ăn chay trường như thế có được lợi lạc tiến bộ gì trong việc tu hành không? Hay chỉ biết ăn chay trường là đủ rồi?  Họ nghĩ ăn chay như vậy là tốt lắm rồi không cần phải niệm Phật hay tu hành chi cho mệt. Quan niệm ăn chay như thế, thì trên bước đường tu hành giác ngộ giải thoát thật không đến đâu cả. Ngược lại, có người tuy họ chưa ăn trường chay được, nhưng họ chịu khó cần mẫn siêng năng bền chí tu hành và niệm Phật. Họ thành tâm tha thiết niệm Phật, và giữ thời khóa đều đặn trọn đời, như thế, thì chắc chắn là họ cũng sẽ được vãng sanh về Cực lạc. 

 

Nếu bảo rằng, chỉ có ăn chay trường niệm Phật mới được vãng sanh, thì xin hỏi trong hàng Phật tử của chúng ta có được bao nhiêu người ăn chay trường? Như vậy, chả lẽ những người không ăn chay trường thì họ niệm Phật không được vãng sanh hay sao? Sách sử ghi lại, có rất nhiều người không ăn chay trường mà họ chí thành niệm Phật thì cũng được vãng sanh kia mà! (Tuy họ không ăn chay trường, nhưng họ không có sát hại sinh vật. Họ chỉ ăn thịt cá theo tam tịnh nhục mà thôi). Nói thế, không có nghĩa là tôi biện minh hay khuyến khích cho việc ăn mặn (nói đúng phải nói là ăn mạng bởi giết hại sinh mạng mà ăn). Xin Phật tử chớ vội hiểu như thế. Phật Tổ lúc nào cũng khuyên bảo nhắc nhở người Phật tử chúng ta nên cố gắng trường chay. Vì lợi ích của việc ăn chay thì không ai có thể phủ nhận được. Bởi nó có nhiều điều lợi ích cho thân thể và tâm linh.

 

 Phật dạy người Phật tử ăn chay trước tiên là vì lòng từ bi. Mình không thể ăn ngon miệng béo bổ để cung phụng cho cái xác thân hư huyễn, trên sự giãy chết kêu la thất thanh đau thương oằn oại của một con vật. Bởi tuy là loài vật, nhưng nó cũng có tánh linh hiểu biết và ham sống sợ chết như mình. Nếu mình ỷ mạnh mà ra tay giết chết chúng nó để ăn, thì quả thật là mình không có chút từ tâm! Bởi muôn loài đều có sự sống như nhau. Loài nào cũng ham sống sợ chết cả. Như vậy, theo lẽ công bằng, mình không muốn ai giết hại mình thì mình cũng đừng nên giết hại kẻ khác. Đó là mình khéo biết tôn trọng mạng sống với nhau. Sách Nho có câu: "Kỷ sở bất dục, vật ư thi nhân". Nghĩa là điều gì mình không muốn thì chớ nên làm cho người khác phải khó chịu. Mình sợ đau khổ thì tại sao mình lại đem cái đau khổ đến cho kẻ khác?

 

Ngoài lòng từ bi và tôn trọng mạng sống ra, ăn chay còn có được cái lợi thực tế là tránh được cái quả báo chồng chất oán thù, oan gia tương báo. Bởi theo luật nhân quả hễ có vay thì phải có trả. Có gây nhân tất nhiên phải có quả báo. Chẳng qua cái quả báo đó nó đến với mình có mau, chậm khác nhau đó thôi. Vấn đề nầy, chúng tôi cũng đã có bàn giải nhiều trong quyển 100 câu hỏi Phật pháp tập 2, nên ở đây chúng tôi không muốn luận giải dong dài.

 

Trở lại câu hỏi của Phật tử, Phật tử nói là Phật tử niệm Phật mà không có ăn chay trường, như vậy khi lâm chung Phật tử có được vãng sanh hay không? Xin thưa ngay là Phật tử đừng lo sợ không được vãng sanh. Không phải ai niệm Phật hay tu hành cũng đều ăn chay trường hết. Tuy nhiên, nếu Phật tử vừa niệm Phật mà vừa giữ được trai giới thanh tịnh nữa, thì việc vãng sanh của Phật tử có phần bảo đảm vững chắc hơn. Còn nếu như Phật tử chưa ăn chay trường được, thì cứ vẫn giữ ăn chay kỳ. Điều quan trọng không phải là chay hay mặn, trường hay kỳ, mà quan trọng là ở chỗ công phu tu hành niệm Phật của Phật tử. Nếu ăn chay trường, mà lười biếng niệm Phật, một ngày niệm năm ba ngày nghỉ, như thế, thì thử hỏi có được vãng sanh hay không? Vả lại, ăn chay cũng chưa phải là tu.

 

Ở đời, ta thấy có lắm người miệng thì ăn chay mà lòng họ không có chay lạt chút nào. Ai đụng đến họ thì họ nổi sân si lên, phùng mang trợn mắt hung hăng dữ tợn, quyết sống chết một mất một còn với người đó. Hạng người nầy người ta gọi họ là khẩu Phật mà tâm xà. Như vậy, họ chỉ biết ăn chay chớ họ đâu có biết tu hành gì! Người biết tu hành là phải dẹp bớt tham, sân, si, cho lòng mình được trong sáng an lạc nhẹ bớt những gánh nặng ưu phiền. Bởi niệm Phật cũng cốt là để dứt trừ phiền não cho tâm mình được an định. Đồng thời, cũng phải hằng sửa đổi điều chỉnh ở nơi ba nghiệp: "Thân, Ngữ, Ý" của mình. Có thế thì mới tiến bộ trên bước đường tu tập. Cái quan trọng thì chúng ta lại thờ ơ coi thường không quan tâm lưu ý đến, mà chỉ quan tâm đến việc ăn chay, ăn mặn. Như thế thì việc tu hành của chúng ta làm sao tiến bộ được?

 

 Nếu như Phật tử niệm Phật tha thiết chí thành và phải cố gắng tinh cần niệm Phật miên mật tương tục, nhiếp tâm thành ý, không luận thời gian và nơi chốn, lúc nào, ở đâu, làm gì, Phật tử cũng đều chuyên tâm niệm Phật. Được thế, thì lo gì Phật tử sẽ không được vãng sanh. Dù Phật tử chưa ăn chay trường nhưng Phật tử vẫn được vãng sanh. Điều nầy không phải là điều ức đoán hay nói ngoa, mà là một sự thật  chư Phật Tổ đã dạy chúng ta như thế. Xin Phật tử hãy yên tâm niệm Phật và cố gắng tu hành nhất là gìn giữ ở nơi ba nghiệp cho được thanh tịnh. Khi ba nghiệp hằng thanh tịnh thì đồng Phật vãng Tây phương.

 

Kính chúc Phật tử luôn tinh tấn chuyên cần tu tập chóng đạt được kết quả như ý muốn.

 

6. Nằm mơ thấy lằn khói trắng từ trong hòm bay lên, hiện tượng này như thế nào?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con có một thắc mắc ôm ấp mãi mà không biết hỏi ai, nay xin nhờ thầy giải đáp giùm. Số là mẹ con mất năm 1995, khi cúng tuần thất cuối, đêm thứ 48, em trai út của con nằm mơ thấy nắp hòm của mẹ con tự nhiên bật nắp ra, có một lằn khói trắng bay lên cao, như vậy, có phải mẹ con đã được siêu thoát không?

 

Đáp: Qua câu hỏi nầy, xin thưa thật với Phật tử, tôi không phải là nhà tiên tri chuyên đoán giải mộng. Vì thế, chắc chắn là tôi sẽ không làm cho Phật tử hài lòng qua sự băn khoăn thắc mắc đó. Dù tôi cũng rất cảm thông cho tâm trạng của Phật tử luôn ưu tư nghĩ đến mẹ mình. Vì không biết mẹ mình có được siêu thoát hay không? Nếu Phật tử hỏi những chiêm tinh gia chuyên đoán giải mộng, thì có thể họ sẽ trả lời cho Phật tử thỏa mãn hơn. Tuy nhiên, để khỏi phụ lòng Phật tử đã hỏi, thì tôi cũng xin góp chút ngu ý trong vấn đề nầy.

 

Về những điềm mộng trong chiêm bao, chúng tôi cũng đã có giải thích đại khái trong câu hỏi 36, trang 118 của quyển sách 100 câu hỏi Phật pháp tập 2, xin Phật tử đọc lại thì sẽ rõ hơn. Đã nói là mộng thì không thật. Tuy nhiên, cũng có nhiều điềm mộng mà nó báo hiệu cho người ta biết trước những việc sắp xảy ra. Điềm mộng nầy được gọi là "Thiện ác tiên triệu". Nghĩa là báo trước việc lành dữ cho người ta biết. Việc em trai út của Phật tử chiêm bao thấy điềm mộng đó, thú thật, tôi không thể nào dám xác quyết là có hay không. Nếu bảo rằng có thì tôi căn cứ vào đâu mà dám quả quyết như thế. Vì điều gì mình chưa hiểu rõ thì tôi không dám nói càng. Còn nếu nói không, thì tôi cũng không thể khẳng quyết là không. Tuy nhiên, theo lời Phật dạy, việc người chết có được siêu thoát hay không, chúng ta hãy nhìn vào đời sống thực tế hằng ngày của họ khi họ còn sinh tiền. Nếu là một người tu nhân tích đức hiền thiện ăn chay, giữ giới, niệm Phật, tu hành chân chính, thì không những sau khi chết mới được siêu thoát mà họ đã được siêu thoát ngay trong đời sống hiện tại rồi. Trong Kinh Pháp Cú Phật dạy:

 

Dục tri tiền thế nhân,

Kim sanh thọ giả thị

Yếu tri lai thế quả

kim sanh tác giả thị.

 

Nghĩa là:

 

 Nếu mình muốn biết đời trước của mình như thế nào, thì hãy nhìn cái quả báo mà mình đang thọ lãnh ở hiện tại. Còn mình muốn biết cái quả báo đời sau của mình như thế nào, thì mình hãy coi hiện tại mình đã và đang gây tạo những nghiệp nhân gì. Không cần phải đi xem tướng coi bói soi căn chi cả. Người Phật tử mà còn coi nầy, xem kia, thì quả thật chúng ta chưa thực sự tin vào lý nhân quả Phật dạy. Nếu thế, thì chúng ta sẽ trở thành là kẻ mê tín, tà kiến.

 

Nêu ra lời Phật dạy trên, để Phật tử quán chiếu lại đời sống hành nghiệp của mẹ mình khi còn sinh tiền. Nếu bà tạo thiện nghiệp, tất nhiên là cảm thọ quả báo lành. Như thế, thì sẽ thác sanh về cảnh giới lành. Ngược lại, nếu tạo ác nghiệp, tất nhiên, là sẽ phải chiêu cảm thọ quả báo ác. Đó là theo luật nhân quả gây nhân gì thì phải thọ quả báo đó. Tuy nhiên, ngoài tích lũy nghiệp ra, nó còn có cận tử nghiệp. Nghĩa là cái nghiệp nhân xảy ra khi con người sắp chết. Nếu một người, lúc sắp lâm chung mà khởi niệm lành thì khi nhắm mắt sẽ theo nghiệp lành. Ngược lại, thì sẽ theo nghiệp ác. Tuy nhiên, theo kinh nói, thọ báo của cận tử nghiệp không lâu. Cuối cùng, cũng trở lại tích lũy nghiệp. Tức cái nghiệp lành hoặc nghiệp ác mà mình đã gây tạo chất chồng trong nhiều đời và hiện đời.

 

Tóm lại, qua câu hỏi nầy, thú thật chúng tôi không thể trả lời dứt khoát có hay không được. Chúng tôi chỉ nêu ra lời Phật dạy về lý nhân quả báo ứng rồi tùy Phật tử suy niệm. Bởi đây là một điều ngoài sự hiểu biết của chúng tôi. Nếu không khéo chúng ta sẽ rơi vào mê tín dị đoan vậy.

 

Kính cầu nguyện cho hương linh thân mẫu của Phật tử chóng được siêu sanh thoát hóa. Và kính chúc Phật tử có đầy đủ chánh tín Tam bảo và nhân quả để thể hiện ngay trong đời sống hiện tại sẽ đem lại nhiều lợi lạc cho Phật tử vậy.

 

Kính chúc Phật tử có một niềm tin vững chắc theo đúng hướng chân lý nhân quả để được nhiều lợi lạc trong cuộc sống.

 

7. Tụng kinh không hiểu ý nghĩa như thế có được lợi ích gì không?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, hằng đêm con tụng Kinh Di Đà mà con không hiểu gì hết, con nghĩ tụng đọc mà không hiểu thì biết đâu mà thật hành và không thật hành thì làm sao có được lợi ích? Kính mong thầy từ bi giải đáp cho con hiểu.

 

Đáp: Qua câu hỏi trên, tôi rất cảm thông cho nỗi lòng băn khoăn lo âu của Phật tử. Mặc dù Phật tử có cái tâm tu hành, siêng năng tụng đọc kinh điển, nhưng khổ nỗi là không hiểu nghĩa lý gì ở trong kinh nói. Điều nầy, đâu phải chỉ có một mình Phật tử như thế, mà đại đa số Phật tử chúng ta đều mắc phải. Người Phật tử tại gia đâu phải ai cũng thông suốt nghĩa lý kinh điển. Thậm chí ngay cả những người xuất gia ở chùa, nếu không chịu khó nghiên tầm học hỏi thì họ cũng không thể nào hiểu được kinh điển Phật dạy. Do dó, là Phật tử dù tại gia hay xuất gia, Phật Tổ thường khuyến nhắc chúng ta phải nên cố gắng nghiên cứu học hỏi kinh điển. Tuy nhiên, đối với người Phật tử tại gia vì bận rộn công việc mưu sinh nên ít có thời giờ rảnh rỗi để tới chùa nghe pháp hay học hỏi giáo lý như người xuất gia. Thật ra, kinh điển Phật dạy nghĩa lý thậm thâm vi diệu, đâu có ai dám tự hào là mình đã thông suốt hết, ngoại trừ những bậc tu hành đạt đạo, mới có thể thông suốt ở nơi lý mầu của ba tạng kinh điển mà thôi. Như đời Đường thì có Ngài Huyền Trang và đời Diêu Tần thì có Ngài Cưu ma la thập v.v... những vị nầy được gọi là Tam tạng pháp sư, vì các Ngài đã lão thông ba tạng kinh điển.

 

Ngoài ra, phàm phu như chúng ta thì chỉ hiểu được chút ít phần nào đó thôi. Nhưng với điều kiện là chúng ta phải thường xuyên nghe pháp học hỏi với những bậc Thầy có trình độ thâm hiểu giáo lý khá. Vì kinh là ghi chép lại những lời Phật dạy để chúng ta tìm hiểu học hỏi và tụng đọc. Nếu tụng kinh mà không hiểu nghĩa lý trong kinh Phật dạy điều gì thì quả đó là cái khuyết điểm lỗi lầm của người Phật tử chúng ta. Cho nên, là Phật tử chúng ta nên cố gắng, bằng mọi phương cách để tìm hiểu học hỏi, tùy theo hoàn cảnh, phương tiện, và thời giờ của mỗi người. Tuy nhiên, dù hoàn cảnh sống có khó khăn hay thời giờ ít ỏi, thì chúng ta cũng nên khéo sắp xếp công việc làm ăn và dành chút ít thời gian để nghiên tầm học hỏi giáo lý Phật dạy. Đó là chúng ta khéo biết trau dồi trí tuệ cho chúng ta. Người xưa thường nói: "Tu mà không học là tu mù, học mà không tu là đãi sách". Vì thế học và tu phải được đi đôi song hành với nhau. Học, như người có đôi mắt sáng, thấy rõ đường đi nước bước, tránh được nguy hiểm hầm hố chông gai. Tu, như người có đôi chân mạnh vững vàng tiến bước mà không sợ ngã qụy giữa đường. Học là tri, tu là hành. Người tu phải trang bị cho mình: "Tri hành hợp nhứt". Nghĩa là hiểu và làm phải đi đôi với nhau không thể thiếu một được.

 

Phật tử nên nhớ rằng, tất cả sự nghiệp thế gian, một khi xuôi tay khép kín đôi mắt lại rồi, thì tất cả đều bỏ lại cho đời, không mang theo được một vật gì cả. Chỉ có mang theo nghiệp thiện ác và những hạt giống trí tuệ mà mình đã gây tạo đó thôi. Vì những thứ nầy luôn bám sát không bao giờ rời xa mình. Ý thức được điều đó, chúng ta nên cố gắng tu tạo phước lành và tài bồi trí tuệ. Kinh nói: "Phước trí nhị nghiêm" hay "phước trí lưỡng toàn phương tác Phật". Nghĩa là người Phật tử phải tu cả hai vừa tu phước mà cũng vừa tu huệ nữa. Có thế, thì mới mong thành Phật được. Nếu chỉ nghiêng nặng tu một bên, thì chẳng khác nào như xe một bánh, chim một cánh. Đã thế, thì thử hỏi làm sao viễn hành thiên lý  cho được?

 

Tóm lại, việc Phật tử tụng kinh, tuy chưa hiểu được nghĩa lý trong Kinh Phật dạy, nhưng Phật tử vẫn được có phước báo. Vì trong lúc Phật tử ngồi tụng kinh là Phật tử đang thu nhiếp tam nghiệp. Thân thì ngồi nghiêm trang, miệng thì tụng đọc từng lời kinh, ý thì đang dõi theo từng chữ để đọc tụng. Như thế, ai dám bảo là Phật tử không được lợi ích? Chỉ sợ mình lười biếng không có tụng đọc thì mới không được lợi ích đó thôi. Tuy nhiên, trong ba nghiệp thân, miệng, ý, điều quan trọng là ý nghiệp. Nếu ngồi tụng đọc mà Phật tử để cho ý tưởng của mình quen theo đường cũ suy tưởng nghĩ nhớ lung tung, thì đó mới thực sự là không được lợi ích bao nhiêu. Nếu không khéo, chúng ta sẽ trở thành cái máy tụng đọc vậy.

 

Nguyện cầu Phật lực gia hộ cho Phật tử luôn được mạnh khỏe, chuyên cần tinh tấn, hằng trau dồi trí tuệ ngày càng tiến bộ trên bước đường tu học Phật pháp.

 

8. Giữa Phật tánh và pháp tánh khác nhau hay giống nhau?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, trong kinh có nói đến Phật tánh và pháp tánh, nhưng con không hiểu hai cái đó là giống nhau hay khác nhau? Mong thầy giải đáp cho con.

 

Đáp: Hai cái đó có khác mà cũng không khác. Nói thế đối với luận lý của Tây phương thì thật là khó hiểu. Bởi người Tây phương họ nói trắng là trắng hoặc đen là đen. Không thể nói giữa trắng và đen có khác mà cũng không khác. Bởi vậy, người Tây phương có những điều họ không thể hiểu nổi cái luận lý độc đáo của Đông phương. Bởi họ quen nhìn theo cái lối cục bộ phiến diện. Nói khác, vì Phật tánh là chỉ cho loài hữu tình, còn pháp tánh là chỉ cho loài vô tình. Như vậy là khác. Tuy nhiên, nói không khác là vì chúng ta dùng trí huệ (Phật tánh) nhận ra pháp tánh. Người nào giác ngộ nhận ra được pháp tánh thì gọi người đó là Phật.

 

Thí như vạn vật ở thế gian là vô thường, nhưng ngặt vì mình chưa tỉnh ngộ, nên thấy mọi sự vật là thường còn. Cũng như các pháp là vô ngã, nhưng vì mình chưa giác ngộ, nên thấy mọi vật đều là thật ngã. Đó là nói trong vòng mê chấp thì ai cũng thấy như thế. Tuy nhiên, đến khi tỉnh ngộ rồi, mình thấy vạn vật đều là vô thường, vô ngã. Như vậy, bản chất của các pháp vốn là vô thường, vô ngã, nhưng vì mê muội nên mình không nhận ra được điều đó. Đến khi tu hành thực sự giác ngộ rồi, mình mới nhận ra các pháp là vô thường và vô ngã. Thế thì cái lý vô thường, vô ngã nó sẵn có tiềm tàng trong mọi sự vật. Đó gọi là pháp tánh, tức tánh thể của muôn pháp trước sau là như vậy. Mặc dù tánh thể của vạn pháp vốn là như thế, nhưng nếu không có cái trí giác để nhận ra lẽ đó thì cũng không ai biết được. Cái trí huệ nhận ra đó được gọi là Phật tánh. Ai nhận ra điều đó? tất nhiên là con người, tức hữu tình giác. Có điều ta cũng cần nên lưu ý, cái lý vô thường, vô ngã, không phải do ai tạo ra cả. Đức Phật, Ngài cũng chỉ là người do sau khi giác ngộ mà nhận ra đó thôi. Mặc dù cái sẵn có mà mình không nhận biết, đến khi giác ngộ được pháp đó, thì thành Phật. Nên nói tuy hai mà không phải hai và cũng không thể nói một được. Vì giác ngộ pháp đó mà được thành Phật thì Phật cũng không ngoài pháp tánh mà thành tựu được đạo quả. Thế nên, nói một là sai mà nói hai thì không đúng, tức khác mà không khác vậy.

 

9. Hạt minh châu và cây tích trượng, Bồ tát Địa Tạng cầm có ý nghĩa gì?

 

Hỏi: Kính thưa thầy, con thấy Bồ Tát Địa Tạng trong lòng bàn tay trái của Ngài có cầm hạt minh châu còn tay phải của Ngài thì cầm cây tích trượng, con không hiểu điều đó tượng trưng cho ý nghĩa gì? Kính mong thầy giải đáp cho.

 

Đáp: Đó là hình ảnh tượng trưng cho một ý nghĩa rất thâm sâu. Đức Bồ tát Địa Tạng mang hình ảnh của một vị xuất gia, Tỳ kheo. Trong khi đó các vị Bồ tát khác phần nhiều lại hiện thân cư sĩ. Như chúng ta đều biết, Bồ tát Địa Tạng có một thệ nguyện rất rộng lớn:

 

Địa ngục vị không

Thệ bất thành Phật

Chúng sanh độ tận

Phương chứng Bồ đề.

 

Nghĩa là:

 

Nếu còn một chúng sanh nào trong địa ngục, thì Ngài thệ nguyện là không thành Phật. Khi nào cứu độ hết chúng sanh, thì Ngài mới thành Phật, tức chứng quả Bồ đề. Nhưng biết bao giờ địa ngục mới trống không đây? Và làm sao có thể độ hết chúng sanh? Trong bốn loài chúng sanh (thai, noãn, thấp, hóa), chỉ riêng loài thai sanh như loài người của chúng ta thôi, thử hỏi biết bao giờ Ngài mới độ hết? Chính vì vậy mà ta thấy bản nguyện của Ngài thật là rộng lớn vô biên không thể nào suy lường được. Vì xứng theo bản nguyện độ sanh của Ngài nên hình ảnh của Ngài phải là con người giải thoát (xuất gia). Mình có giải thoát thì mới có thể độ chúng sanh được giải thoát như mình. Vì thế, nên người ta tạc tượng Ngài để tôn thờ qua hình ảnh của một con người siêu thoát. Với mục đích là để cho chúng sanh phát tâm hâm mộ để cầu Ngài độ thoát. Tuy nhiên, muốn cứu độ chúng sanh, tất nhiên phải cần đến những phương tiện. Tích trượng và minh châu là hai vật thể được tượng trưng nhằm cảnh tỉnh thức nhắc chúng sanh nên hồi quang phản chiếu lại tự tâm mình.

 

Tích trượng là một pháp khí thỉnh thoảng chúng ta hay thấy các nhà sư thường dùng. Đây là vật mà đức Phật và tăng đoàn thời xưa thường hay sử dụng. Xưa kia, đức Phật và các vị tăng đoàn khi đi khất thực, vai mang bình bát, tay cầm tích trượng. Tích trượng có hai công dụng:

- Một là, khi đến trước cửa nhà người, thì rung tích trượng reng reng để người trong nhà biết mà mang thức ăn ra cúng dường.

- Hai là, dùng nó trong lúc đi đường. Bởi Ấn Độ thời xưa rắn rết rất nhiều. Nhất là những con đường có cây cỏ bụi rậm um tùm nên cần phải dùng gậy xua đuổi chúng nó để khỏi bị họa hại.

 

Còn trên đầu tích trượng có mười hai khoen là tượng trưng cho mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên gồm có: "Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ,  hữu, sanh, lão tử". Đó là một chuỗi xích mà chúng sanh luôn bị nó trói buộc phải chịu nhiều đau khổ. Chính đức Phật là người đã giác ngộ mười hai nhân duyên nầy mà Ngài thành Phật. Từ đó, Ngài cũng đem lý nhân duyên nầy để cảnh tỉnh hóa độ chúng sanh. Nếu ai muốn giải thoát thì trước tiên cũng phải ngộ lý mười hai nhân duyên. Bồ tát Địa Tạng sở dĩ tay mặt của Ngài cầm tích trượng có mười hai khoen là nhằm nói lên cái ý nghĩa biểu trưng rằng: Ngài luôn sử dụng pháp thập nhị nhân duyên để cảnh tỉnh chúng sanh. Nhờ sự cảnh tỉnh thức nhắc của Ngài mà chúng sanh nhận được chơn lý, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi đau khổ.

 

Tuy nhiên, muốn thấu rõ lý nhân duyên, cần phải có ánh sáng trí tuệ. Vô minh là đầu mối của mười hai nhân duyên và cũng là đầu mối làm cho chúng sanh phải đau khổ. Vì vô minh che đậy tánh sáng suốt nên chúng sanh mới gây tạo nhiều nghiệp ác. Bởi do thiếu ánh sáng trí tuệ, nên không thấu rõ được đầu mối của vô minh. Từ đó mới có ra chấp ngã, chấp pháp. Ánh sáng trí tuệ phát khởi thì bóng tối vô minh sẽ không còn. Biểu thị cho ánh sáng trí tuệ đó là viên minh châu trong lòng bàn tay trái của đức Địa Tạng. Viên minh châu có công năng soi sáng tất cả chốn ngục hình tối tăm để cho chúng sanh nương theo ánh sáng đó mà được thoát khỏi chốn tối tăm ngục hình. Vì vậy, hễ có một niệm vô minh dấy lên thì liền đó có ánh sáng trí tuệ chiếu đến. Khi đã có trí tuệ thì vô minh không còn. Mà gốc vô minh không còn, thì những thứ ngọn ngành theo đó cũng bị phá vỡ tiêu tan. Sư biểu trưng đó nói lên ý nghĩa tu hành rất cụ thể. Bởi người tu, bất cứ tu pháp môn nào cũng phải sử dụng trí tuệ đứng đầu. Nếu không có trí tuệ thì làm sao chiếu phá vô minh? Không chiếu phá vô minh phiền não thì làm sao được giải thoát? Do đó, bên cạnh vô minh là phải có trí tuệ. Đó là một ý nghĩa tiêu biểu rất thâm huyền và cũng rất thực tế trong việc tu hành giải thoát vậy. 

 

10.  Tung kinh hộ niệm cho một người mới mất mà người đó cả đời không biết tu hành, như vậy người đó có được vãng sanh không?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, hiện nay phong trào hộ niệm cho người chết rất thạnh hành, nhưng con có một thắc mắc, đối với người cả đời họ không biết tu hành ăn chay niệm Phật là gì, thậm chí họ chưa bao giờ bước chân tới chùa một lần, như vậy, khi họ chết mình tụng kinh niệm Phật cho họ, xin hỏi họ có được siêu thoát không?

 

Đáp: Hai chữ tu hành theo Phật tử nghĩ là người đó phải ăn chay, niệm Phật, tụng niệm, bái sám v.v... như thế mới gọi là tu hành. Ngoài ra, không phải là tu hành. Nghĩ thế không phải là sai, nhưng theo tôi, thì cũng chưa đúng hẳn hoàn toàn. Vì hai chữ tu hành nó không hạn cuộc vào những lễ nghi thông thường đó. Có người họ không hành trì như thế nhưng mà họ tu còn giỏi hay hơn chúng ta nhiều. Bởi sự tu hành tùy theo căn cơ sâu cạn và nghiệp duyên hoàn cảnh của mỗi người mà có những sự hành trì khác nhau.

 

Thông thường người ta thường hay chú trọng đến những lễ nghi hình thức bên ngoài nhiều hơn là phần phẩm chất nội dung bên trong. Tuy những lễ nghi hình thức bên ngoài cũng rất quan trọng và cần thiết. Nhưng chúng ta cũng không nên quá chú trọng câu nệ vào hình thức. Có người vì quá chú trọng hình thức bên ngoài mà quên mất cái chất lượng nội dung bên trong. Như những hình thức lễ nghi cúng bái tụng niệm v.v... Hình thức bên ngoài, nó chỉ có tác dụng là những phương tiện giúp cho phần khai sáng nội dung bên trong thôi. Chính vì quá chú trọng hình thức bên ngoài nên người ta có những đánh giá sai lầm. Người ta thường nói: "Chiếc áo không làm nên thầy tu". Trên nguyên tắc chúng ta đồng ý là như vậy. Tuy nhiên, nếu không có chiếc áo cũng không ai biết đó là thầy tu. Vì vậy cả hai giữa hình thức và nội dung phải được hỗ tương với nhau. Nhưng nội dung bao giờ cũng là quan trọng hơn. Nội dung đó là gì? Là chúng ta phải thường xuyên quán chiếu ở nội tâm. Câu nói: "Phản quan tự kỷ bổn phận sự bất tùng tha đắc" của Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy cho vua Trần Nhân Tông là nói lên cái cốt lõi của người tu. Người tu mà chỉ theo ngọn bỏ gốc thì thử hỏi làm sao đạt được đạo lý giải thoát? Cái gốc bên trong là chúng ta phải hằng gạn lọc chuyển hóa vô minh phiền não.

 

Vì quá chú trọng bên ngoài nên chúng ta thấy ai ăn chay, niệm Phật, đi chùa thường, thì ta cho người đó là cần mẫn tu hành. Ngược lại, thì chúng ta kết luận cho người đó không biết tu hành. Nếu chỉ đánh giá đơn thuần trên phương diện hình thức không thôi, theo tôi, thì cũng chưa hẳn đúng. Muốn đánh giá người đó có thực sự tu hành hay không, chúng ta cũng không nên vội kết luận ở bề ngoài. Mà chúng ta cần phải xét qua hai phương diện: hình thức và nội dung, rồi sau đó chúng ta mới có thể đánh giá được. Bằng không, thì sự nhận định đánh giá của chúng ta cũng dễ bị sai lệch lắm. Tôi xin đơn cử nêu ra một vài trường hợp điển hình cụ thể để Phật tử suy nghiệm.

 

- Có người ăn chay trường, niệm Phật, thường đi chùa và thậm chí còn dự những khóa tu học nữa, nhưng họ không kiềm chế lòng sân hận nổi lên chỉ vì giành nhau chỗ ngủ nghỉ thôi. Họ nổi nóng la ó om sòm không để ý gì đến những người bạn đồng tu chung quanh khác, mặc dù người ta đã hết lời an ủi khuyên lơn giải bày với họ. Nhưng họ vẫn một mực cố chấp và không chịu nhường nhịn. Tuy đó là một việc cỏn con nhỏ nhoi thôi, nhưng ngọn lửa sân hận của họ bốc cháy  cao độ thật khó dập tắt. Nó đốt cháy cả tim gan họ thật là đáng ghê sợ thương xót! Cổ nhân có câu nói: "Nhứt tinh chi hỏa năng thiêu vạn khoảnh chi tân, bán cú phi ngôn ngô tổn bình sanh chi phước". Nghĩa là một đốm lửa nhỏ nó có thể đốt cháy cả khu rừng, nửa lời nói không phải nó làm tổn hại hết phước đức của mình. Đối với hạng người nầy, Phật tử có thể cho họ là người có tu hành không? Hay họ chỉ là người biết ăn chay, niệm Phật, và đi chùa theo tập quán của họ đó thôi.

 

- Có người cũng ăn chay trường, niệm Phật, đến chùa làm công quả thường xuyên, nhưng họ lại chuyên đi đâm thọc nói xấu thiên hạ ở sau lưng. Họ hết nói xấu người nầy, đến chỉ trích người kia, mục đích của họ là họ muốn ly gián làm cho hai bên nghi ngờ ngầm hại lẫn nhau. Họ gây ra một sự xáo trộn trong chúng và hiểu lầm lẫn nhau. Có thế, thì họ mới thỏa mãn cái lòng ganh tỵ giận tức đố kỵ của họ.  Họ gây cho hai đàng xích mích ly gián để họ đứng giữa được lợi. Họ là hạng người chuyên ném đá giấu tay. Quả họ là hạng người quá ư thâm độc. Đối với hạng người lòng dạ ác độc nầy, thì Phật tử đánh giá họ như thế nào? Có phải họ là người thật tâm tu hành không? Hay họ chỉ là kẻ tu giả trá bên ngoài để che mắt lừa phỉnh gạt gẫm thiên hạ?!

 

- Có người đang lần chuỗi niệm Phật hoặc đang gõ mõ tụng kinh, bỗng ai đó làm họ bực mình, họ ném chuỗi quăng chuông mõ đứng lên la ó chửi mắng đối phương thậm tệ. Hành động dữ dằn hung tợn của họ ai thấy cũng phải phát run sợ. Như thế, họ có thật sự tu hành hay không?

 

Những trường hợp xảy ra tương tự như thế còn rất nhiều không thể kể hết. Vì vậy, nếu cho rằng ăn chay, niệm Phật, đi chùa là tu hành, theo tôi, sự đánh giá đó vẫn còn hời hợt phiến diện. Muốn đánh giá một người có tu hay không, thì trước hết, chúng ta phải hiểu hai chữ tu hành là gì. Chữ "tu" có nghĩa là sửa, "hành" là làm theo cái điều mà mình đã sửa đổi. Như trước kia mình là người hay nói láo, nói xạo, nói thêu dệt, nói lời hung ác, nói lưỡi đôi chiều, đâm đầu nầy, thọc đầu kia, cho hai đàng xích mích với nhau, bây giờ biết tu mình sửa lại không nói những lời như thế nữa. Chẳng những không nói như thế thôi mà trái lại, mình còn phải nói lời chân thật. Nói lời chân thật, hòa ái, dịu dàng, đoàn kết, xây dựng, yêu thương, đó là mình đã khéo biết thật hành. Tất nhiên, là mình phải tôn trọng sự thật. Đó là đơn cử một trong những điều mà mình sửa ở nơi cái miệng, tức cái khẩu nghiệp, nói cho đúng là ngữ nghiệp.

 

Về thân nghiệp thì mình cũng phải sửa. Như trước kia mình hay giết hại sinh vật, bây giờ biết tu mình không giết hại sinh vật nữa. Hoặc mình hay dùng tay lấy đồ đạc, ăn giựt, ăn cướp của người ta, bây giờ mình sửa lại không làm như thế nữa, đó là mình biết tu và hành.

 

Nói tóm lại, tu hành là mình sửa đổi, nói đúng hơn là chuyển hóa ở nơi ba nghiệp: "thân, khẩu, ý". Từ xấu chuyển thành tốt, dở chuyển thành hay, tà chuyển thành chánh, hư chuyển thành nên v.v... Được thế, mới gọi là người biết tu hành. Trong ba cái nghiệp đó, nó có gốc ngọn, sâu cạn khác nhau. Gốc là tu ở nơi tâm, ngọn là tu ở nơi thân và miệng. Bởi hai cái nầy ở bên ngoài tương đối dễ sửa hơn. Nếu mình chuyển đổi được cái tâm xấu ác trở thành cái tâm lương thiện thì cái thân miệng cũng phải làm theo. Vì tâm là chỉ huy ra lệnh cho thân và miệng phải làm theo nó. Khác nào như tài xế điều khiển chiếc xe chớ chiếc xe không thể điều khiển tài xế. Nói rõ hơn thân và miệng chỉ là công cụ để cho tâm sai khiến mà thôi. Cho nên tu tâm mới là quan trọng. Người xưa nói:

 

Người đời sớm phải tri cơ

Gương lu vì bụi trăng lờ vì mây

Chở che nhờ đức cao dày

Dẫu tu cho mấy chẳng tày tu tâm.

 

Như vậy, sự tu hành mình không thể đánh giá ở bề ngoài được. Có người họ không ăn chay, niệm Phật ra tiếng bên ngoài, hay đi chùa thường, nhưng họ vẫn tu trong tâm họ. Như trường hợp hai người cùng gặp nghịch cảnh giống nhau, người ăn chay, niệm Phật, đi chùa, thì lại không kiềm chế được sự nóng giận bực tức của mình, ngược lại người kia tuy họ không có ăn chay, niệm Phật, đi chùa, nhưng đối trước nghịch cảnh đó, họ vẫn giữ bình tĩnh thản nhiên không lộ ra một chút sân hận bực tức buồn phiền trách móc chi cả. Trường hợp như thế, thì theo Phật tử đánh giá người nào khéo biết tu và người nào không khéo biết tu? Cho nên, người ta nói ăn chay, niệm Phật, đi chùa chưa phải là tu chính là ở điểm nầy. Tuy nhiên, việc ăn chay, niệm Phật, đi chùa, vẫn là gieo trồng được thiện nghiệp. Điều nầy không ai có thể phủ nhận được. Nhưng nếu luận về việc tu hành thì chúng ta cũng cần nên  kiểm nghiệm thẩm xét lại cho kỹ trước khi đánh giá.

 

Trở lại câu hỏi trên của Phật tử, tôi không thể khẳng quyết là họ có siêu thoát hay không? Bởi vì cái gì mình không thấy thì không dám nói. Tuy nhiên, nếu như thường nhựt người đó biết ăn hiền ở lành tuy họ không có ăn chay, niệm Phật, đi chùa như Phật tử đã nói, nhưng họ vẫn tu theo cái đạo làm người của họ. Nghĩa là họ vẫn có cái tâm tốt hành thiện cứu đời, giúp người. Khi sắp lâm chung họ lại được sự trợ niệm tốt của mọi người, thì theo tôi, họ cũng không đến đổi sa vào cảnh giới ác. Bởi họ không có gây nhân ác, thì làm sao họ bị chiêu cảm thọ quả báo ác? Phật tử đâu có nói họ làm ác đâu. Họ chỉ không có ăn chay, niệm Phật, đi chùa như một người Phật tử bình thường thôi. Nhưng bình thường họ vẫn tu nhân tích đức làm lành lánh dữ, thì họ cũng có thể thác sanh về cảnh giới an lành. Môi trường tái sanh của họ tùy theo chỗ tạo nghiệp lành dữ mà họ đã gây để phải chiêu cảm thọ báo. Còn việc vãng sanh về Cực lạc hay không, còn tùy thuộc vào cái cận tử nghiệp của họ. Nếu được đại chúng trợ niệm tốt, thì biết đâu họ lại khởi thiện niệm tưởng nhớ đến Phật. Ngay giây phút đó mà họ mạng chung cũng có thể được vãng sanh về Cực lạc. Vì "Trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, phần nói về Hạ phẩm Hạ sinh, hạng người Ngũ nghịch Thập ác sắp đọa địa ngục a tỳ, được thiện tri thức dạy cho niệm Phật, niệm mười tiếng hoặc chỉ niệm mấy tiếng là mạng chung, cũng vẫn được Phật tiếp dẫn vãng sinh về Tây Phương" (Gia Ngôn Lục của Tổ Ấn Quang).

 

Qua đó, chúng ta thấy nếu một người sắp lâm chung mà họ được thiện hữu tri thức thức nhắc, cộng thêm những người thành tâm hộ niệm cho họ, ngay lúc đó mà họ hồi tâm chuyển ý chí thành niệm Phật, chỉ niệm Phật vài tiếng thôi, thì họ cũng được Phật tiếp rước vãng sanh về Cực lạc. Trường hợp như ông Trương Thiện Hòa, theo sách sử ghi lại, bình nhật ông sinh sống bằng nghề giết heo, khi sắp lâm chung tướng địa ngục hiện ra, nhưng nhờ có thiện hữu tri thức nhắc nhở và chí thành trợ niệm, nên ông thành tâm niệm mười tiếng Phật, kết quả ông cũng được vãng sanh Cực lạc. Đây là trường hợp phải nói rất là hy hữu đặc biệt. Ngoài ra không phải ai cũng đều được như thế. Bởi lúc sắp lâm chung có những điều chướng ngại khó giữ được chánh niệm. Như cơn đau nhức hoành hành, luyến ái gia sản tài vật và thân bằng quyến thuộc v.v... Kinh nói: "Niệm bất nhứt bất sanh Tịnh độ, ái bất nhiễm bất sanh Ta bà". Như thế thì làm sao có được chánh niệm mà niệm Phật? Bởi thế, nên việc trợ niệm rất là quan trọng trong giờ phút hấp hối sắp lâm chung nầy. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên đợi đến khi bệnh nặng hay sắp lâm chung rồi mới thỉnh chư Tăng, Ni và Ban trợ niệm. Người biết tu hành lo xa thì không nên ỷ lại như thế. Phần trợ niệm chỉ là trợ duyên phần nào thôi, còn được vãng sanh hay không chủ yếu vẫn là ở nơi bản thân của người đó định đoạt. Phật cũng chỉ giúp chúng ta một cánh tay thôi. Còn lại là phần tự lực gắng chí tu hành niệm Phật của chúng ta. Nếu bình nhật không lo tu hành làm lành lánh dữ, ăn chay, niệm Phật đợi đến khi đau yếu bệnh nặng hay sắp chết thì mới nghĩ tới, thì e rằng đã quá muộn màng rồi! Không có tích lũy nghiệp tốt thì cũng khó có được cái cận tử nghiệp tốt. Kính mong các hành giả Tịnh Độ nên suy xét kỹ lại điều nầy. Chúng ta không nên có tâm ỷ lại mà phải chuốc lấy tai họa về sau vậy.

 

11. Thờ nhiều tượng Phật và Bồ tát có sai trái gì không?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con thờ Bồ Tát Quan Âm riêng biệt trên một cái trang cao, còn ba tượng Phật: Di Đà, Dược Sư và Di Lặc thì con thờ ba Ngài chung trên một cái tủ thờ. Xin hỏi, con thờ như thế có sai trái gì không? Kính xin thầy cho con biết. Cám ơn thầy.

 

Đáp: Tôi xin đáp ngay là Phật tử không có gì sai trái cả. Bởi việc thờ Phật hay Bồ tát ở trong nhà là điều hợp lý và rất quý báu. Tuy nhiên, có điều nếu mình thờ nhiều tượng Phật, Bồ tát trong nhà quá, thì có thể mất đi phần trang nghiêm thẩm mỹ. Như Phật tử thờ chỗ nầy, chỗ kia cao thấp khác nhau, khi tưởng niệm hay hành lễ thì mình cũng khó giữ được nhiếp tâm chánh niệm lắm. Bởi khi thì nghĩ đến Di Đà lúc lại nghĩ đến Quan Âm, rồi Dược Sư, Di Lặc v.v... Chính vì thế, nên chư Tổ mới khuyên chúng ta nên thờ trong nhà một tượng Phật hay tượng Bồ tát là đủ. Tùy theo hành giả tu tập hành trì theo pháp môn nào thì thờ Phật hay Bồ tát theo pháp môn đó cho thích hợp. Như người tu theo pháp môn Tịnh độ thì chư Tổ khuyên chúng ta nên thờ một tượng Phật Di Đà hoặc thờ tượng Tam Thánh: Di Đà, Quan Âm và Thế Chí cũng được. Bởi Đức Phật Di Đà là vị giáo chủ ở cõi Tây phương Cực lạc. Người niệm Phật với mục đích là muốn được vãng sanh về thế giới Cực lạc của Ngài. Còn hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí thì luôn hầu cận bên Đức Phật A Di Đà, với thâm ý là để trợ tuyên nhiếp hóa cùng với Đức Phật A Di Đà. Các Ngài có bản nguyện là sẽ tiếp dẫn những chúng sanh nào đủ duyên lành sanh về thế giới Cực lạc. Đó là cách thức thờ phụng của người tu theo pháp môn Tịnh độ.

 

 Còn người tu Thiền thường thì người ta thờ tượng Phật Thích Ca. Vì Đức Phật Thích Ca tu thiền thành Phật dưới cội cây Bồ đề ở Ấn Độ. Đồng thời Ngài cũng là vị giáo chủ của cõi Ta bà nầy. Sở dĩ chư Tổ khuyên chúng ta nên thờ Phật hay Bồ tát như thế là vì các Ngài muốn cho chúng ta dễ được nhiếp tâm. Nghĩa là chúng ta chỉ chú tâm vào một nơi thôi. Như thế thì tâm hành giả dễ được an định hơn. Còn nếu chúng ta không chú tâm như thế thì sẽ không có chánh niệm. Chính cái chỗ nhiếp tâm đó mới có được cái chánh niệm. Có chánh niệm tất nhiên hành giả có an lạc, còn thất niệm tất sẽ bị đau khổ.

 

Tuy nhiên, người Phật tử thường có cái tâm lý cho rằng, mình thờ nhiều tượng Phật hay Bồ tát trong nhà, thì sẽ được các Ngài gia hộ nhiều. Nếu thờ một vị thì e sự gia hộ không được nhiều lắm. Thậm chí có người còn có cái quan niệm sai lầm là xem việc thờ Phật hay Bồ tát như thờ một vị thần linh. Thờ để được sự che chở phù hộ của các Ngài mà trong gia đạo luôn được bình an. Hơn nữa không có ma quỷ nào dám bén mãng tới quấy phá. Bởi các Ngài có thần lực hơn quỷ thần. Do đó mà quỷ thần phải kiêng nể kính sợ các Ngài. Thờ Phật với quan niệm như thế thì thật là sai trái.

 

Thậm chí có người còn lo lót hối lộ cho các Ngài bằng cách cúng cho các Ngài một vài món vật phẩm nào đó để mong cầu các Ngài phải luôn nhớ đến mà phù hộ. Thờ Phật với quan niệm như thế thì thật là tội lỗi sai lầm. Thờ như thế chẳng khác nào chúng ta đã xê dịch Ngài từ một con người ở vị trí giác ngộ chuyển Ngài sang ở vị trí thần linh và còn bắt các Ngài phải phò hộ độ trì cho chúng ta nữa. Chúng ta nên nhớ rằng, Phật hay Bồ tát các Ngài không có quyền năng thưởng phạt hay ban phước giáng họa cho ai cả. Các Ngài chỉ là những người hướng dẫn chỉ giáo cho chúng ta tu hành đúng theo con đường chánh lý để được giác ngộ và giải thoát. Chúng ta phải tin chắc vào luật nhân quả mà Phật và Bồ tát đã chỉ dạy. Là Phật tử chúng ta cần phải học hỏi giáo lý để có được trí tuệ sáng suốt biện biệt lẽ chánh tà chân ngụy cho rõ ràng. Nếu không, thì chúng ta dễ rơi vào con đường cạm bẫy tà ngoại. Cho nên chánh kiến, chánh tín đối với người Phật tử thật hết sức quan trọng. Có chánh kiến thì chúng ta mới nhận định mọi vấn đề không bị sai lầm. Chánh kiến là ngọn hải đăng soi sáng cho chúng ta đi đúng hướng chân lý.

 

Như vậy, chúng ta phải thờ Phật như thế nào mới đúng ý nghĩa? Thờ Phật với mục đích là để chúng ta noi theo tấm gương đức hạnh từ bi trí tuệ cao cả của Ngài. Vì Phật là người đã giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Ngài luôn thể hiện một đời sống cao thượng qua những ngôn từ và hành động. Nhứt cử nhứt động đời Ngài đều đáng cho chúng ta noi gương thật hành theo. Thờ Phật trong nhà để mỗi khi chúng ta ra vô chiêm ngưỡng hình tượng Ngài mà nghĩ đến cái công ơn vị tha cao cả vĩ đại của Ngài mà chúng ta cố gắng noi gương và thật hành theo. Thật hành được phần nào thì chúng ta sẽ được lợi lạc phần đó.

 

Điều chúng ta cũng nên lưu ý, khi thờ Phật hay Bồ tát trong nhà  chúng ta nên thiết lập chỗ thờ các Ngài phải trang nghiêm thanh tịnh. Và cũng không nên thờ nhiều vị quá mà mất đi phần trang nghiêm thẩm mỹ như trên đã nói.

 

Về cách thức thờ tượng Phật và Bồ tát, như Phật tử đã nói, Phật tử thờ Thánh tượng Quan Âm ở trên trang cao, còn ba tôn tượng Phật: Di Đà, Dược Sư, Di Lặc thì thờ chung trên một cái tủ. Nếu như Phật tử thờ Thánh tượng Quan Âm ở trên ba tôn tượng: Di Đà, Dược Sư, Di Lặc, thiết nghĩ thờ như thế thì không được đúng lắm. Bởi Kinh nói, Bồ tát Quan Thế Âm và Đại Thế Chí là hai vị Bồ tát luôn hầu cận bên đức Phật A Di Đà ở cõi Tây phương Cực lạc. Như vậy mà Phật tử thờ Bồ tát Quan Thế Âm ở trên các Ngài thì điều đó không nên. Tôi đề nghị với Phật tử nên thờ tượng Phật Di Đà ở trên còn ba vị: Quan Âm, Dược Sư và Di Lặc thờ ngang nhau thì được.  

 

Kính chúc Phật tử có đầy đủ niềm tin vững chắc vào Tam bảo và lý nhân quả để tu hành cho đến ngày viên thành Phật quả.

 

12. Đi kinh hành ba hoặc bảy vòng tượng trưng cho ý nghĩa gì?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, thường thì sau giờ thọ trai trong những khóa tu cũng như ngày thọ Bát đều có đi kinh hành, có thầy nói đi kinh hành đúng ra là phải đi ba vòng hoặc bảy vòng. Tại sao phải đi đúng theo con số như thế? Và con số 3 và số 7 tượng trưng cho ý nghĩa gì? Kính mong thầy giải đáp cho chúng con hiểu.

 

Đáp: Trong nhà Phật có nêu ra nhiều pháp môn tu. Hành giả tự chọn cho mình một pháp môn tu thích hợp. Thích hợp với sở thích và căn cơ trình độ của mình. Tuy nhiên, dù hành giả tu bất cứ pháp môn nào mục đích nhắm tới cũng là để được giác ngộ và giải thoát. Kinh hành niệm Phật cũng là một pháp môn tu. Thông thường, người tu theo pháp môn Tịnh Độ, thì sau giờ thọ trai của những khóa tu đặc biệt, hay những ngày thọ bát tại chùa, chư Tăng, Ni và Phật tử thường hay đi kinh hành niệm Phật ở điện Phật. Việc đi kinh hành nầy không phải tự ý trong chùa bày ra như vậy. Mà nó có một truyền thống lâu đời bắt nguồn từ thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế.

 

Tụng đọc Kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy sau khi Phật thọ trai xong, Ngài thường đi kinh hành dưới cội cây. Tuy nhiên, cách đi kinh hành của Đức Phật có khác hơn chúng ta. Bởi Phật đi kinh hành trong sự lặng lẽ để quán chiếu tư duy sâu sắc về con người và vạn hữu vũ trụ, Ngài không có niệm Phật thành tiếng như chúng ta (vì Ngài là Phật còn niệm Phật nào nữa). Còn ngày nay chúng ta đi kinh hành phải niệm Phật thành tiếng. Việc đi kinh hành nầy, theo tôi, thì nó có ba điều lợi ích:

 

- Thứ nhứt, là để tiêu hóa những thức ăn mà mình vừa mới thọ thực. Đây cũng là điều rất phù hợp với phương pháp vệ sinh trong việc giữ gìn sức khỏe. Bởi mới ăn no mà đi nằm nghỉ liền thì khó tiêu hóa và cũng dễ sanh ra bệnh hoạn.

- Thứ hai, vừa đi vừa niệm Phật, hành giả sẽ được tiêu nghiệp sanh phước. Đó cũng là một phương cách dễ nhiếp tâm và được nhiều công đức lợi lạc.

 

- Thứ ba, chúng ta đi từng bước chân vững chắc và miệng thì xưng danh hiệu Phật, một bề tưởng nhớ đến Phật không tưởng nhớ đến việc gì khác, nhờ đó mà chúng ta có được năng lượng chánh niệm và đem năng lượng chánh niệm nầy để hồi hướng cho pháp giới chúng sanh đều được hưởng chung lợi lạc thật là hữu ích.

 

Bất cứ việc làm nào nếu chúng ta thật hành đúng pháp thì việc làm đó chắc chắn là sẽ mang lại cho chúng ta nhiều điều hữu ích lợi lạc. Phương pháp đi kinh hành mới nhìn vào chúng ta thấy rất đơn giản, nhưng kỳ thật thì cũng hết sức quan trọng. Bởi lẽ khi đi không phải chúng ta đi nghêu ngao cho có lệ, hoặc vừa đi vừa tính toán nghĩ suy chuyện bao đồng thế gian, đi như thế thì chỉ có cái xác đi mà không có cái hồn. Nghĩa là chúng ta đi trong thất niệm, thân và tâm không hợp nhứt. Chúng ta phải đi và niệm Phật như thế nào cho tâm ta được an lạc và phát sanh trí tuệ. Đi như thế mới đúng pháp. Khi đi, chúng ta nên lưu ý mọi người phải giữ khoảng cách bước chân đều nhau. Không được đi cận kề nhau quá và cũng đừng để khoảng cách xa nhau.

 

Chúng ta giữ sao cứ một câu hiệu Phật A Di Đà gồm có bốn bước chân. Điều nầy mỗi hành giả cần phải được thực tập hướng dẫn đi cho đúng. Khi mọi người đi dúng rồi, thì sẽ rất nhịp nhàng và không còn cảm thấy bỡ ngỡ ngượng ngập nữa. Bước đầu chúng ta đi cảm thấy hơi khó khăn, vì chúng ta quen đi theo những bước chân ngoài đời. Đi trong vội vã và hấp tấp. Đi trong tính toán lo âu và sợ hãi. Đi đâu cũng muốn đi vội, đi nhanh, đi cho mau tới. Ngày xưa đức Thế Tôn đi từng bước chân thanh thoát, nhẹ nhàng, Ngài đi trong sự vững chãi và thảnh thơi. Không phải đi trong sự nặng nề uể oải như chúng ta. Nếu chúng ta đi nhanh đùn cục hoặc đi quá chậm tạo thành khoảng cách xa nhau rồi bấy giờ ta lại đi nhanh như chạy cho kịp, thế là vừa mất oai nghi mà cũng vừa mất luôn chánh niệm. Đi kinh hành niệm Phật cũng là một pháp tu rất lợi lạc nên chúng ta cần phải thực tập cho kỹ. Đi như thế, nhìn vào mất đi vẻ thẩm mỹ trang nghiêm. Người đi sau nhìn người đi trước và đi cho ngay hàng thẳng lối không được cong quẹo. Đó là chúng tôi nói sơ về phương cách lợi ích của việc đi kinh hành niệm Phật.

 

Còn Phật tử hỏi, tại sao phải đi ba vòng hoặc bảy vòng?  Xin thưa, đây cũng chỉ là một con số tượng trưng thôi. Theo trong quyển Sa Di Luật Giải do Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Hành Trụ dịch, ở phần "Oai Nghi" nói về "Vào Chùa Am" có đoạn nói: "Phàm cung kính nhiễu tháp mấy vòng đều có chỗ tiêu biểu cả. Như "ba vòng" tiêu biểu cúng dường "Tam Bảo", trừ "ba độc" sạch "ba nghiệp", dứt ba đường ác đặng gặp "Tam Bảo". "Bảy vòng" trừ "tội thất chi" đặng bảy phần "Bồ Đề" v.v..." Trên đây nói nhiễu tháp cũng giống như đi kinh hành vậy. Nói trừ "Ba Độc" tức là trừ ba món "Tham, Sân, Si". Ba thứ nầy sở dĩ nói là độc, bởi chính nó là nguyên động lực thúc đẩy chúng sanh tạo nghiệp ác mà phải chịu nổi trôi thọ khổ trong tam đồ lục đạo. Trừ sạch ba thứ nầy thì chúng sanh sẽ hết khổ sanh tử. Còn đi bảy vòng là trừ được thất chi tội. Thất chi nghĩa là ba tội của thân: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, bốn tội của miệng: nói dối, nói lời trau chuốt, nói hai lưỡi đâm thọc, và nói lời hung ác trù rủa chửi mắng. Nói đặng bảy phần Bồ đề hay còn gọi là bảy thứ Giác chi: "Trạch pháp, tinh tấn, khinh an, hỷ, niệm, định, xả". Trạch pháp: dùng trí huệ để lựa chọn chân pháp, xả bỏ pháp hư ngụy. Tinh tấn: không lười biếng đối với việc tu hành chánh pháp. Khinh an: cảm thấy thân tâm cảm khoái an ổn. Hỷ: tâm vui mừng vì được chánh pháp. Niệm: trong tâm sáng suốt, thường nhớ thiền định và trí huệ. Định: nhập thiền định, tâm không tán loạn. Xả: tâm không thiên lệch, không chấp trước, giữ sự bình đẳng.

 

 Xin nhắc lại, đây chỉ là những con số nêu ra tượng trưng mà thôi. Chớ không phải chỉ đi có ba vòng hay bảy vòng mà trừ hết các tội lỗi như thế. Bởi vì trong khi chúng ta đi mà nhiếp tâm niệm Phật thì ngay lúc đó thân và miệng của chúng ta đâu có tạo tội. Như vậy, thì chúng ta cũng đã trừ được những tội lỗi do thân và miệng gây ra trong lúc chúng ta đi kinh hành niệm Phật vậy.

 

Kính chúc Phật tử luôn tinh tấn tu hành để được tiêu tội sanh phước và chóng viên thành Phật quả.

 

13. Mở máy niệm Phật trong lúc nằm ngủ có tội lỗi gì không?

 

Hỏi: Bạch thầy, Con thường xuyên mở máy niệm Phật cho dễ ngủ, trong lúc con ngủ mê máy vẫn niệm Phật đều cho tới sáng con mới tắt. Như vậy, con có bị mang tội lỗi không? Kính mong thầy giải đáp cho con hiểu. Con kính trọng ơn thầy.

 

Đáp: Việc đó tuy không có tội, nhưng có cái lỗi là khinh suất. Dù vẫn biết đó là máy niệm Phật, nhưng nếu để máy niệm Phật cho mình dễ ngủ thì mình mắc phải cái lỗi là thiếu sự thành kính tha thiết chí thành trong việc niệm Phật. Đối với sự tu hành ngày nay phải nói chúng ta có quá nhiều phương tiện, tiện lợi. Làm cái gì cũng phải nhờ đến máy móc cả. Thậm chí, như Phật tử nói ngủ không được cũng phải nhờ mở máy niệm Phật cho được dễ ngủ. Phật tử thử nghĩ, những vị tu hành ngày xưa, có vị nào ngủ không được phải nhờ đến máy móc tụng kinh niệm Phật mới có thể ngủ được không? Hay là các ngài nhờ công phu tu hành đạo lực cao thâm tâm được an định mà dễ ngủ?

 

Ngày xưa, vì không có máy móc điện tử như chúng ta bây giờ, nên việc vận dụng công phu tu hành của các ngài rất là chí thành khẩn thiết. Các ngài không có ỷ lại như chúng ta. Vì vậy làm việc gì các ngài cũng phải hết sức chú tâm thành ý không dám khinh suất lơ là. Khi nghe pháp hay học hỏi kinh điển cũng vậy. Bởi thế nên các ngài nhớ dai và thu thập nhiều. Còn bây giờ mình ỷ lại vào máy móc nhiều quá. Khi muốn nghe pháp hoặc muốn thầy nào thuyết giảng thì cứ mở máy ra là có. Vì quá dễ dàng nên chúng ta lại sanh cái niệm coi thường khinh lờn. Nhiều khi nghe để mà nghe hoặc nghe để cho đỡ buồn chớ không mấy quan tâm theo dõi. Chính vì vậy mà chúng ta nghe nhiều nhưng rốt lại thu thập ghi nhớ chẳng có bao nhiêu. Ngược lại, đối với các ngài vì chú tâm nghe kỹ và thiết tha quý trọng học hỏi nên các ngài mới chóng được khai phát huệ tâm và tu hành chóng đạt được kết quả cao.

 

Còn sự tu hành của chúng ta ngày nay, vì ỷ lại vào phương tiện máy móc quá nhiều, nên kết quả không được tốt đẹp như các ngài. Sở dĩ người ta chế ra máy niệm Phật, với mục đích là nhằm để thức nhắc chúng ta hằng nhớ mà niệm Phật. Vì tâm của chúng ta hay quên và luôn phan duyên chạy theo trần cảnh, khác nào như con khỉ con vượn chuyền cây. Ngày đêm chúng chuyền nhảy lung tung lăng xăng không bao giờ đứng yên một chỗ. Tâm vọng của chúng ta cũng vậy. Không lúc nào nó đứng yên hay dừng lại. Do đó, nên cần phải có một cái thường xuyên nhắc nhở nó. Nhờ có máy niệm Phật để nhắc nhở cho mình niệm theo. Như vậy, máy niệm Phật cũng là một phương tiện tiện lợi trợ duyên rất tốt để cảnh tỉnh thức nhắc mình. Không phải người ta chế máy niệm Phật để ru cho mình ngủ đâu. Đó là tại mình lạm sử dụng không đúng cách đó thôi.

 

Phật tử nên xét lại, ngủ không được có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính là do chúng ta suy nghĩ quá nhiều. Tiếng Anh gọi là stress nghĩa là đầu óc quá bức xúc căng thẳng. Có khi chúng ta bị một vấn đề nội kết phiền muộn nào đó, mà chúng ta chưa tháo gỡ được. Từ đó, chúng ta suy nghĩ nhiều nên thần kinh bị căng thẳng tạo thành mất ngủ. Đó là cái lỗi do chúng ta không khéo tu niệm nên để tâm chúng ta bám theo duyên trần nên mới bị như thế.

 

 Đối với các loại máy móc điện tử ngày nay, nếu chúng ta khéo biết sử dụng thì nó cũng giúp ích cho chúng ta rất nhiều. Tuy nhiên, nó có thể là con dao hai lưỡi. Lợi thì cũng có mà hại thì cũng có. Nếu chúng ta không khéo lợi dụng nó thì nó trở thành có hại khống chế chúng ta. Nó làm cho chúng ta không còn tự chủ được nữa. Nếu không muốn nói là chúng ta sẽ trở thành làm kẻ nô lệ cho nó. Chúng ta nên quan tâm cẩn trọng dè dặt để ý điểm nầy.

 

 Việc mở máy niệm Phật của Phật tử để Phật tử nghe mà niệm theo, thì điều nầy không có gì sai trái lỗi lầm. Tuy nhiên, nếu Phật tử với dụng ý là mở máy niệm Phật để cho Phật tử dễ ngủ, theo tôi, việc làm nầy không đúng lắm. Tôi xin được góp ý với Phật tử là lần sau nếu như Phật tử có mở máy niệm Phật thì Phật tử cũng nên niệm theo máy hoặc niệm thành tiếng hay niệm thầm đều được cả. Tuy nhiên, nếu Phật tử niệm ra tiếng thì không nên nằm niệm. Bởi niệm như thế thành cái lỗi thất kính. Đấy là điều mà chư Tổ Liên Tông thường khuyên dạy. Còn nếu Phật tử niệm thầm trong tâm thì nằm niệm cũng không sao. Song có điều trong lúc niệm Phật, Phật  tử cũng nên thành tâm chí thành mà niệm. Không nên có cái ý là mở máy niệm Phật cho Phật tử dễ ngủ. Vì như thế sẽ không có lợi lạc chi cả. Còn khi Phật tử ngủ quên mà máy vẫn niệm, thì điều đó không có lỗi gì. Bởi vì nó là cái máy để lâu chỉ tốn hao pin hoặc mau hư máy đó thôi.

 

 Nhân đây, tôi cũng xin góp chút thành ý với Phật tử. Phật Tổ thường dạy chúng ta khi niệm Phật mình phải nhiếp tâm mà niệm. Nghĩa là tâm và tiếng phải hiệp khắn nhau và phải niệm mỗi chữ mỗi câu cho rành rẽ rõ ràng. Nếu khi niệm Phật mà chúng ta không niệm như thế, thì coi chừng chúng ta sẽ trở thành một cái máy niệm Phật. Vì chỉ có biết phát ra thành tiếng thôi, giống hệt như cái máy niệm Phật không khác. Cổ Đức có dạy: "Khẩu niệm Di Đà tâm tán loạn, hãm phá hầu lung dã đồ nhiên". Nghĩa là: Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn, toạc hầu rách họng uổng công thôi. Phật tử nên nhớ niệm Phật là niệm tâm, tức tâm phải sáng suốt nhận rõ từng chữ từng câu. Không thể miệng niệm một đàng mà tâm nghĩ một ngã. Niệm như thế, thì làm sao tương ưng với Phật. Bởi Phật là giác, là sáng suốt, trong khi đó mình niệm mà để tâm chạy rong đâu đâu. Đó là niệm chúng sanh, niệm loạn tưởng chớ không phải là niệm Phật. Và như thế, thì việc niệm Phật của chúng ta sẽ không được lợi lạc. Bởi niệm Phật cốt là để dứt trừ phiền não để cho tâm ta được an định, chớ không phải niệm suông trên đầu môi chót lưỡi. Phật tử nên chú ý cẩn thận việc làm nầy.

 

Kính chúc Phật tử luôn an vui khỏe mạnh, đầy đủ tín tâm, bền chí niệm Phật và phải niệm Phật cho đúng cách thì mới có kết quả tốt đẹp được.

 

14. Để hai con lân dưới chân Bồ Tát Quan Thế Âm có được không?

 

Hỏi: Bạch thầy, chồng con đi chùa thấy 2 con lân để dưới tượng Phật Bà. Về nhà chồng con cũng mua 2 con lân để dưới chân Phật Bà, nhưng để ở trên bàn thờ, thấy vậy, con không đồng ý, nhưng chồng con lại bảo: Bộ bà không thấy trong kinh có nói sư tử Phật sao, đó cũng là một vị Bồ tát. Lời nói và việc làm như thế có sai trái gì không? Kính mong thầy hoan hỷ chỉ bảo cho con. Kính cám ơn thầy.

 

Đáp: Lân là một trong bốn linh vật quý, người ta thường gọi là Tứ linh, tức Long, Lân, Quy, Phụng. Theo tín ngưỡng dân gian Á Đông như tại Triều Tiên, Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam.... Lân có đầu nửa rồng, nửa thú, đôi khi chỉ có một sừng. Tuy lân có mọc sừng nhưng chưa bao giờ húc ai. Do đó, người ta cho lân là hiện thân của tâm từ bi. Xét về hình thể, theo Bách Khoa Từ Điển cho rằng: "phần nhiều lân có sừng nai, tai chó, trán lạc đà, mắt quỷ, mũi sư tử, miệng rộng, thân ngựa, chân hươu, đuôi bò. Thực ra trong tạo hình của người Việt chúng không tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc nầy. Chúng thường được thể hiện trong tư cách đội tòa sen làm chỗ dựa cho Văn Thù Bồ Tát hay các vị Hộ Pháp, và nhiều khi ngồi trên đầu cột cổng hay xuất hiện trên mái nhà. Trong những tư cách nầy chúng xuất hiện biểu trưng cho sức mạnh của linh vật tầng trên, cho trí tuệ và như thế chúng có khả năng kiểm soát tâm hồn những người hành hương".

 

Chính vì là linh vật hiền hòa tượng trưng cho từ bi nên trong chùa người ta thường hay để hai con lân bên cổng hay ở dưới chân tượng Bồ tát Quán Thế Âm như Phật tử đã nói. Đã là vật linh thiêng tượng trưng cho lòng từ bi thì để hầu bên đức Bồ Tát Quán Thế Âm cũng là chuyện hợp lý thôi. Bởi Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát đầy lòng từ bi tầm thinh cứu khổ. Đặt để như vậy thì đâu có gì là sai trái mà Phật tử không đồng ý. Tuy nhiên, nếu trên bàn thờ mà an trí như vậy thì có thể mất đi vẻ thẩm mỹ trang nghiêm. Có lẽ vì thế mà Phật tử không mấy hài lòng. Việc nầy, Phật tử có thể nên thương lượng với ông để tìm một nơi đặt để cho thích hợp. Còn ông cho rằng trong kinh có nói sư tử Phật, điều nầy có thể là ông đã hiểu lầm về từ ngữ danh xưng. Trong Kinh có nói là sư tử hống chớ tôi không thấy chỗ nào  nói là sư tử Phật. Nói sư tử hống, tức tiếng rống của con sư tử. Đây là dụ cho Phật, Bồ tát thuyết pháp tự tại vô ngại, vì các Ngài không có lo âu sợ sệt và làm cho tất cả phiền não mê lầm của chúng sinh đều tiêu trừ, ví như sư tử rống lên một tiếng thì tất cả các con thú khác đều phải khiếp đảm kinh hồn, sợ hãi chạy trốn hết.

 

 Trong quyển nghi thức Hồng Danh Sám Hối do Ngài Bất Động Pháp Sư đời Tống bên Trung Hoa soạn ra, trong đó có danh hiệu Phật là: "Sư Tử Hẩu Tự Tại Lực Vương Phật". Ý nói Phật là vua của các pháp có sức tự tại không gì ngăn ngại, giống như tiếng rống của sư tử là loài chúa tể sơn lâm vậy. Có lẽ ông nhớ không rõ nên mới nói là Sư Tử Phật. Đã là Phật sao còn nói đó là vị Bồ tát. Nói như thế thì không đúng. Phật là Phật còn Bồ tát là Bồ tát, chớ không thể nói Phật là Bồ tát được. Bởi Phật là quả vị cao tột trong các hàng Bồ tát. Bồ tát có nhiều hạng tùy theo trình độ tu chứng mà có nhiều bậc được gọi khác nhau. Đến Đẳng Giác Bồ tát là vị Bồ tát cận kề với Phật. Chỉ cần dứt sạch hết phần vi tế vô minh phiền não thì thành Diệu Giác, tức thành Phật quả.

 

Phật tử hỏi việc làm và lời nói của ông có sai trái không? Theo tôi, thì việc đặt kỳ lân hầu bên cạnh đức Bồ tát Quán Thế Âm thì không có gì là sai trái, chỉ thờ như thế trông có vẻ mất đi phần thẩm mỹ trang nghiêm đó thôi. Nếu ông bà thấy được thì cũng không sao. Song có điều tôi thành thật khuyên Phật tử nên tìm cách thuyết phục ông, nếu Phật tử không đồng ý cách thờ như thế. Nên vĩ hòa vi quý, đừng vì chuyện thờ một chút bất đồng ý kiến mà gây ra sự tranh cãi hơn thua với nhau thì điều đó sẽ không tốt, vì làm mất đi sự hòa khí êm ấm trong gia đình. Nếu vì thờ Phật, Bồ tát mà chúng ta lại xích mích tranh cãi hơn thua với nhau, thì chắc không có ông Phật hay vị Bồ tát nào chứng minh cho lòng ta cả. Chứng minh sao được đã thờ Phật, Bồ tát trong nhà mà tranh cãi hơn thua với nhau thì còn gì có ý nghĩa thờ phụng nữa đâu? Như vậy, Phật và Bồ Tát nhìn thấy cảnh tượng đó chắc là các Ngài thương xót đau lòng lắm! Nếu chịu khó lắng nghe cho thật kỹ, thì ta sẽ nghe Bồ Tát Quán Thế Âm than: "Hai người nầy chỉ vì hai con kỳ lân để gần mình mà chúng nó bất hòa tranh cãi hơn thua quyết liệt với nhau. Đã tốn tiền mua mà lại còn mất luôn cả tình thương yêu hòa khí với nhau, thì thử hỏi chúng nó thờ mình để làm gì?! Than ôi! thật là chua sót quá"!

 

Vậy tốt hơn hết là hai người nên tìm cách dung hòa với nhau. Còn lời nói của ông chẳng qua đó là cách nói để biện hộ cho việc làm của ông và ông cho như thế là đúng. Nhưng vì nhớ không rõ danh hiệu Phật nên ông mới nói ra như thế. Việc đó cũng không có gì là lỗi lầm quá đáng. Tuy nhiên, cái gì mình nhớ rõ thì nói còn bằng không thì nên tìm hiểu lại cho rõ ràng trước khi phát ngôn. Nếu nói sai lệch ý kinh điển thì điều đó gây cho người khác hiểu sai lầm mà mang tội không tốt. Bởi thế nên có câu: "Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly Kinh nhứt tự tức đồng ma thuyết". Nghĩa là nếu chỉ biết y cứ vào Kinh điển mà giải thích thì e rằng sẽ oan cho ba đời chư Phật, còn nếu rời lìa Kinh điển một chữ thôi, cũng đồng với ma nói. Với lời nói nầy, Phật Tổ khuyên chúng ta nên phải hết sức cẩn thận khi giảng kinh thuyết giáo.

 

Kính chúc Phật tử luôn giữ hòa khí, tấn tu đạo nghiệp, chuyên cần niệm Phật, chóng đạt thành sở nguyện.

 

15. Ý nghĩa cúng xuất sanh như thế nào? Và tại sao phải cúng như thế?

 

Hỏi:  Kính thưa thầy, mỗi lần thọ trai ở quá đường, con thấy quý thầy gắp vài hạt cơm rồi thầm đọc kệ chú gì con không hiểu, sau đó có người bưng cái chung đó đem ra ngoài cúng cũng tụng đọc bài kệ và câu chú. Xin hỏi, việc làm nầy có ý nghĩa gì? Kính mong thầy hoan hỷ giải thích cho con hiểu. Kính cảm ơn thầy.

 

Đáp: Đây là nghi thức thọ trai cúng quá đường của chư Tăng, Ni. Theo nghi thức, thì sau khi tụng bài cúng dường đến phần "xuất sanh". Khi xuất sanh, thì thầy Duy na gắp bảy hạt cơm và tay bắt ấn cam lồ thầm đọc bài kệ và câu chú:

 

Pháp lực bất tư nghì

Từ bi vô chướng ngại

Thất liệp biến thập phương

Phổ thí châu sa giới

Quỷ tử mẫu khoáng dã

Thần kim sí điểu vương

Tất linh giai bảo mãn

Án độ lợi ích tóa ha (3 lần)

 

Tạm dịch:

 

Pháp lực không nghĩ bàn

Từ bi chẳng chướng ngại

Bảy hạt khắp mười phương

Cho khắp vô lượng cõi

Mẹ con quỷ đồng nội

Cánh vàng vua thần điểu

Hết thảy đều no đủ

Án độ lợi ích tóa ha (3 lần)

 

Ý nghĩa của bài kệ trọng tâm cũng chỉ nói lên cái tấm lòng từ bi vị tha của Phật, Bồ tát rộng lớn vô biên không có giới hạn. Khi gắp bảy hạt cơm, thì mình phải tập trung tâm ý, nghĩa là phải có chánh niệm để chú nguyện cho các loài đó. Mục đích là cho chúng được hưởng dụng ăn no đủ. Đó là pháp lực của Phật không thể nghĩ bàn. Vì có bảy hạt cơm mà bố thí châu biến pháp giới. Và tại sao phải là bảy hạt? Con số bảy nầy trong nhà Phật thường dùng lắm. Như cúng thất cũng cúng bảy ngày, Phật ra đời cũng đi bảy bước v.v... Tuy nhiên, với con số bảy nầy có nhiều thuyết luận giải khác nhau. Và người ta cho rằng không ai có thể giải thích tường tận ý nghĩa của nó được cả. Tùy theo quan niệm nhận thức hiểu biết của mỗi người mà người ta giải thích mỗi cách có khác nhau. Con số nầy không những trong nhà Phật hay thường đề cập đến mà ngay cả các lĩnh vực học thuyết khác cũng đều có đề cập đến. Bởi nó là một con số linh thiêng mầu nhiệm của vạn hữu vũ trụ. Trong nhà Phật có câu nói: "Pháp nhĩ như thị". Nó là thế ấy, xin đừng hỏi tại sao. Cũng như đừng hỏi tại sao lửa lại nóng và nước lại lạnh. Còn ấn cam lồ vì cam lồ là tượng trưng cho từ bi.

 

Một người tu hành, khi đã thể nhập sống trọn vẹn với bản tâm rồi, thì không thể dùng lời nói hay tâm lượng mà có thể suy nghĩ luận bàn đến được. Vì đó là cảnh giới ly ngôn, bặt hết mọi dấu vết. Sau khi chứng ngộ, thì sẽ phát sanh ra vô số diệu dụng làm lợi ích cho chúng sanh. Và những diệu dụng nầy cũng không thể suy lường được. Điều nầy với trình độ hiểu biết thô thiển hạ liệt như chúng ta thì không thể nào có thể thấu hiểu hết được?

 

Sau khi Thầy cả thầm đọc bài kệ và câu chú xuất sanh xong, bấy giờ chú thị giả (người hầu thầy) mới bưng cái chung (có chút nước và 7 hạt cơm) đến bàn nhỏ để cúng gọi là Tống thực. Chú thị giả tụng có âm điệu và lớn tiếng:

 

Đại bàng kim sí điểu

Khoáng dã quỷ thần chúng

La sát quỷ tử mẫu

Cam lồ tất sung mãn

Án mục đế tóa ha (3 lần)

 

Tạm dịch:

 

Chim đại bàng cánh vàng

Chúng quỷ thần hoang dã

Mẹ con quỷ La Sát

Cam lồ đều no đủ

Án mục đế tóa ha (3 lần)

 

Tôi xin giải thích đại khái qua từng câu của bài kệ đó để cho Phật tử hiểu rõ thêm.

 

Đại bàng kim sí điểu: Nghĩa là con chim đại bàng có cánh vàng. Kim là vàng, sí là cánh, điểu là chim. Con chim nầy, tiếng Phạn gọi là Ganruda, phiên âm Ca lâu la, còn gọi là diệu sí điểu, một loài chim thần to lớn, hung dữ có lông màu vàng. Loại chim nầy chúng hay đi kiếm loài rồng để ăn thịt. Đó là nghiệp báo của chúng. Có lần chim sí điểu đuổi bắt rồng, rồng hoảng sợ ẩn trốn dưới tòa sen của Đức Phật và nó xin Phật từ bi cứu mạng. Đức Phật dùng oai thần che chở rồng và đồng thời, Phật giảng một bài pháp cho kim sí điểu nghe, hầu để hóa giải oan gia nghiệp chướng truyền kiếp lâu đời của hai loài nầy. Sau khi nghe Phật giảng dạy thì kim sí điểu phát tâm quy y Tam bảo, trở thành một trong tám bộ chúng ủng hộ Phật pháp. Theo truyền thuyết, lúc Đức Phật thuyết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở nói Linh Thứu thì có rất nhiều loài chim nầy đến dự nghe.

 

Khoáng dã quỷ thần chúng: Quỷ thần, tiếng Phạn gọi là Tavika, phiên âm A thác bạt câu, Hán dịch là "lâm nhân". Loại quỷ thần nầy chúng thường cư trú ở những nơi đồng không mông quạnh, rừng rú hoang vắng, ưa ăn thịt uống máu chúng sanh. Về sau được Đức Phật cảm hóa chúng nên chúng từ bỏ nghiệp ác và sống nhờ vào sự cúng thí thực phẩm cho chúng hưởng dụng. Cho nên Phật dạy, người xuất gia mỗi khi thọ trai phải nhớ cúng thí cho chúng. Nếu không, thì chúng phải chịu đói khát khổ sở.

 

La sát quỷ tử mẫu: La sát tiếng Phạn gọi là Raksha, Hán dịch là khả quý, tốc tật quỷ, hộ giả. Theo thần thoại Ấn Độ, la sát là loài ác quỷ. Nam la sát có hình thù đen thui xấu xí, tóc đỏ mắt xanh. Nữ La sát thì hình tướng xinh đẹp, quyến rũ. Loài nầy, chúng thích ăn thịt uống máu huyết tanh hôi. Chúng có thần thông thường phi hành trong hư không, đi nhanh trên mặt đất. La sát còn chỉ cho loài quỷ mang đầu trâu, ngựa coi việc trừng phạt ở địa ngục.

 

Quỷ tử mẫu, tiếng Phạn gọi là Hriti, Há lợi đế, Hán dịch là tử mẫu, quỷ mẹ của năm trăm quỷ con, là vợ của ác thần. Loài nầy do sân hận nên phát lời thề độc là chuyên đi tìm ăn thịt trẻ sơ sinh trong thành Vương xá, nên bị đọa thành Dược Xoa. Đức Phật vì muốn độ chúng nên dùng thần thong giấu mất đứa con mà chúng yêu quý nhất. Bấy giờ, quỷ mẹ thương nhớ con khóc la gào thét cầu khẩn van xin thảm thiết. Chúng khẩn cầu Đức Phật cứu giúp cho. Đức Phật dạy, Bà có đến 500 đứa con nay chỉ mất có một đứa, sao Bà lại đau buồn khổ lụy đến như thế? Như vậy, bà thử nghĩ những bà mẹ ở trong thành Vương xá nầy, khi mất con thì họ sẽ đau buồn khổ sở bi lụy đến như thế nào?! Quỷ mẹ nghe Phật dạy, liền tỉnh ngộ cầu xin Phật sám hối và nguyện từ nay trở đi bảo hộ những phụ nữ sanh sản và các đứa trẻ sơ sanh cho mọi người được an lành.

 

Cam lồ tất sung mãn: Cam lồ (lộ) tiếng Phạn là Amrta, nghĩa là sương ngọt, chỉ cho thức ăn quý báu của chư thiên. Khi ăn vào thì sẽ được trường sanh bất tử . Hai chữ cam lồ còn tượng trưng cho ý nghĩa từ bi. Dùng chất cam lồ ngọt mát để tưới tẩm xoa dịu những nỗi đau khổ cho chúng sanh. Tất sung mãn nghĩa là tràn đầy. Lòng từ bi của chư Phật, Bồ tát lúc nào cũng tràn đầy khắp cả.

 

Tóm lại, ý nghĩa của bài kệ trên là nói lên tấm lòng từ bi vô lượng vô biên của Đức Phật. Ngài đã dùng lòng từ bi (dụ như nước cam lồ) để hóa độ cho các loài hung dữ trở thành hiền hòa. Và những loài hung dữ nầy sau khi đã được Đức Phật hóa độ, chúng phát nguyện luôn ủng hộ Phật pháp, đồng thời còn bảo hộ cho những bà mẹ và các trẻ em sơ sanh, như mẹ La sát chẳng hạn. Điều đó cho chúng ta thấy rằng, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải xóa tan mọi tranh chấp hận thù. Đó là ý nghĩa của việc cúng "Xuất sanh" và "Tống thực" vậy.

 

16. Người cư sĩ tại gia có được thuyết pháp giống như người xuất gia không?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, có người nói việc thuyết pháp giảng kinh, chỉ có người xuất gia mới có thể thuyết giảng thôi, chớ còn người cư sĩ tại gia có gia đình thì không thể giảng kinh thuyết pháp được. Con không biết lời nói đó có đúng không? Xin thầy từ bi giải đáp cho con rõ.

 

Đáp: Người nói như thế chứng tỏ họ chưa nghiên cứu sách sử văn hóa Phật giáo ghi lại. Trong nền văn học Phật giáo đã ghi lại có rất nhiều vị cư sĩ tài ba lỗi lạc, không những họ giỏi về thế pháp mà còn lão thông về kinh điển Phật giáo nữa. Dù rằng việc thuyết pháp giảng kinh đó là vai trò trọng trách hoằng pháp lợi sinh của người xuất gia, tuy nhiên, người cư sĩ tại gia cũng có thể giảng kinh thuyết pháp như người xuất gia. Điều nầy không phải ở thời đại hiện nay, mà trong thời đại của đức Phật vẫn có các vị cư sĩ giảng kinh thuyết pháp. Điển hình như cư sĩ Duy Ma Cật chẳng hạn. Vì muốn tuyên dương giáo nghĩa đại thừa, nên Ngài hiện thân có bịnh để nói pháp quở trách phá chấp cho các hàng Thanh Văn và chúng phàm phu ngoại đạo. Việc thuyết pháp đó đã được ghi lại trong văn bản của Kinh Duy Ma. Từ đó, trải qua nhiều thời đại ở các nước Phật giáo theo hệ phái Phật giáo Phát triển, rải rác đều có ghi lại những vị cư sĩ thuyết pháp giảng đạo. Tuy những vị nầy vẫn sống đời sống tại gia có gia đình vợ con như những người khác. Tuy nhiên, họ có một đời sống đạo đức tâm linh phong phú thanh cao khác hơn người thường. Họ có những sở đắc và những hành động xuất cách phi thường mà chúng ta không thể nào đoán định được. 

 

Ở Việt Nam thời Trần, có Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là một vị cư sĩ tài ba lỗi lạc nổi bật xuất chúng. Ngài đã từng giảng dạy cho các Tăng Ni và cư sĩ đến tham vấn về đạo lý thiền. Ở Trung Hoa, thời xưa, thì có ông cư sĩ họ Bàng cũng nổi tiếng là người chứng ngộ lý thiền và cũng đã từng xiển dương chánh pháp. Trong thời cận đại và hiện đại cũng có nhiều vị cư sĩ rất thông hiểu giáo lý và giảng dạy cho chư Tăng, Ni và cư sĩ thụ học. Trường hợp như cư sĩ bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, hay như cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền v.v... Ở Trung Hoa thì có cư sĩ Lý Bỉnh Nam là người cũng đã từng giảng giải giáo lý đạo Phật cho chư Tăng Ni và cư sĩ dự nghe. Ngoài ra, còn và còn rất nhiều những vị cư sĩ thuyết pháp giảng kinh như thế.

 

Như vậy, chúng ta thấy, ngoài chư Tăng, Ni những vị có khả năng thuyết pháp giảng kinh ra, bên cạnh đó, còn có rất nhiều vị cư sĩ cũng tích cực đóng góp hoằng dương Phật pháp không thua gì chư Tăng, Ni. Về mặt hoằng dương Phật pháp, không phải chỉ có giảng kinh thuyết pháp không thôi, mà người Phật tử còn thể hiện đóng góp qua nhiều lĩnh vực khía cạnh khác nữa. Trong Phẩm Pháp Sư thứ mười của Kinh Pháp Hoa, Đức Phật đã minh xác quy định rất rõ về những công hạnh của một vị pháp sư truyền bá chánh pháp mà đặc biệt là Kinh Pháp Hoa. Trong Kinh có nêu ra năm hạng pháp sư:

 

- Hạng thứ nhứt là thọ trì kinh (Juji, thọ nhận và gìn giữ).

- Hạng thứ hai là đọc tụng kinh (doku-ju, đọc và tụng).

- Hạng thứ ba là giảng nói kinh (gesetsu, giảng nói).

- Hạng thứ tư thư tả biên chép kinh (shosha, sao chép).

Trong hạng thứ hai được chia làm hai: đọc và tụng. Ta cần nên phân biệt giữa đọc và tụng khác nhau. Đọc kinh có nghĩa là cầm bổn nhìn mặt chữ mà đọc. Còn tụng là tụng thuộc lòng không cầm bổn và tụng có âm điệu trầm bổng v.v... Trên đây gọi là năm hạnh pháp sư.

 

Trong năm hạnh nầy, thì hạnh thọ trì là quan trọng nhất. Thọ trì không có nghĩa là mình đem kinh ra tụng đọc mà gọi là thọ trì. Đó là cái nghĩa rất cạn cợt trên bề mặt. Thọ trì nói ở đây là sau khi hành giả nhận ra (thọ) Tri Kiến Phật (nói theo kinh nầy) và hằng sống (trì) với tánh thể sáng suốt thanh tịnh đó, được vậy mới đúng nghĩa là thọ trì.

 

Còn hạnh thư tả biên chép, đối với ngày xưa vì kỹ thuật in ấn chưa được phát minh nên người ta chuyền tay nhau để biên chép. Trong thời hiện đại, vì kỹ thuật máy móc tối tân nên việc in ấn không còn là một vấn đề khó khăn nữa. Do đó, ngoài việc ấn hành kinh sách ra, chúng ta còn sử dụng những phương tiện tốt khác như: phim ảnh, đĩa ghi âm, máy thu băng và nhiều phương tiện thính thị khác. Đó là điều rất tiện lợi cho việc phổ biến truyền bá giáo lý Phật giáo vậy.

 

Nói tóm lại, không luận xuất gia hay tại gia, đứng về phương diện truyền bá chánh pháp, thì ai cũng có thể đóng góp được cả, tùy theo khả năng, hoàn cảnh và phương tiện sẵn có của mình. Riêng về mặt giảng kinh thuyết pháp, thì không phải ai cũng có thể làm được. Tất nhiên, đòi hỏi người đó phải có một kiến thức sở học uyên thâm về Phật pháp và phải có phong thái đạo hạnh tốt mới xứng đáng với tư cách của một vị giảng sư hay pháp sư. Như vậy, người cư sĩ tại gia dù có gia đình cũng vẫn có thể giảng kinh thuyết pháp được. Tuy nhiên, có điều đối với niềm tin tưởng của người Phật tử thì lại có khác. Bởi người cư sĩ dù có trình độ uyên thâm về giáo lý nhưng họ vẫn còn có đời sống ràng buộc bởi gia đình. Do đó, nên đạo hạnh của họ không thể nào so sánh với những bậc chơn tu xuất thế được. Ngoại trừ những bậc xuất trần thượng sĩ như các Ngài: Duy Ma Cật, Tuệ Trung Thượng Sĩ và Bàng Long Uẩn v.v....  Những vị nầy, chỉ là các vị Bồ tát hiện thân của một người cư sĩ để dễ cảm hóa chúng sinh mà thôi. Ngoài ra, những vị cư sĩ bình thường thì không thể nào dám so sánh với các Ngài được.

 

17. Tại sao tu hành mà còn dùng da bò làm trống đánh ở trong chùa?

 

Hỏi: Bạch thầy, lâu nay con có một thắc mắc, Phật dạy người tu hành không được sát sanh hại vật, Nhất là đối với người xuất gia tuyệt đối không được sát sanh. Thế nhưng con không hiểu tại sao trong chùa dùng trống đánh bằng da bò. Như vậy, có lỗi gì không? Và còn có lòng từ bi không? Kính mong thầy giải thích rõ cho con hiểu.

 

Đáp: Xin thưa ngay là không có lỗi gì cả. Trống là một trong những pháp khí mà trong chùa thường sử dụng. Thường trong chùa có hai loại trống để dùng đến trước và trong khi tụng niệm. Các loại trống nầy thường làm bằng đá, cây, đồng v.v... Xưa kia, thời của đức Phật cũng đã có sử dụng trống để báo thời gian, cảnh báo. Khi có bố tát, hoặc nghe pháp... thì dùng nó để tập họp chúng tăng. Trong Ngũ Phần Luật có ghi: "Chư Tỳ kheo bố tát, chúng bất thời tập. Phật ngôn nhược đả kiền chùy nhược đả cổ..." Nghĩa là các vị Tỳ kheo bố tát, tập họp không đúng thời, Phật dạy, nên đánh kiền chùy hoặc đánh trống... Trung quốc thời xưa người ta dùng nó trong các dịp lễ lộc, vũ hội. Về kích thước của trống có nhiều loại to nhỏ khác nhau. Có loại trống to để trên giá (gọi là trống tẩu)  trống nầy được dùng để đánh bát nhã. Loại trống nhỏ người ta gọi là trống ứng (dùng nó để tán tụng) còn loại treo để đánh thì gọi là trống treo.

 

Sử ghi: "Từ đời Đường về sau, theo thanh quy của thiền môn, trống là một trong những loại pháp khí dùng làm hiệu lệnh báo thời sớm tối. Sau nầy Phật giáo Trung Quốc tiến thêm bước nữa là phối hợp nhịp điệu, âm thanh của tiếng trống hòa cùng những lời tán tụng, phổ thành nhạc điệu, gọi là "kỹ nhạc cúng dường, trang nghiêm đạo tràng", dùng âm thanh làm Phật sự, trợ giúp đại chúng phát tâm thành kính với Tam bảo".

 

Việc sử dụng trống chuông trong thiền môn đã trở thành rất quen thuộc của quần chúng Phật tử. Đối với hai thứ pháp khí nầy không ai còn xa lạ gì. Tuy nhiên, Phật tử thắc mắc tại sao trong chùa dùng trống đánh bằng da bò và như thế còn có lòng từ bi không?  

 

Xin thưa, như đã nói việc sử dụng da bò làm trống đã có từ lâu đời. Vì đây cũng là một nghề nghiệp sinh sống đã có truyền thống văn hóa lâu đời. Nghề nầy là do các nghệ nhân khéo tay có kỹ thuật về thẩm âm và thủ công cao mới có thể thực hiện tốt được. Dĩ nhiên,  điều nầy không phải do người xuất gia giết bò rồi lấy da của nó làm trống. Hiểu như thế là sai lầm. Tuy đây là việc làm của người thế gian, nhưng vì xét thấy rất hữu ích cho việc sử dụng trong chùa, cho nên nhà chùa mới dùng nó. Sở dĩ, trong chùa dùng trống, như trên đã nói là cốt để báo thời gian, cảnh báo cho đại chúng biết. Đồng thời cũng còn sử dụng trống trong việc lễ nghi tán tụng v.v...Tuy con bò đã chết đi, nhưng nó còn để lại cái tấm da mà người ta khéo biết lợi dụng dùng nó để làm lợi ích cho mọi người. Việc làm nầy đứng về mặt lợi ích hành thiện, thì rất là có ích lợi. Vì người ta dùng da của nó làm trống vừa để cảnh tỉnh người đời tỉnh thức tu hành, vừa sử dụng trong nhịp điệu tán tụng v.v... Nói chung, việc làm nầy đều nhắm vào sự lợi lạc cho mọi người. Như thế, thì sao nói là không có từ bi? Bởi vì nhờ đó mà nó càng tăng thêm phước đức. Biết đâu, nó sẽ chuyển kiếp tái sinh ở một môi trường tốt đẹp an lành khác thì sao? Như vậy, thì từ cái vô ích không có phước mà người ta làm cho nó tăng thêm hữu ích phước báo, thế thì sao dám nói là không có từ bi?

 

Tóm lại, việc sử dụng da bò trong nhà chùa không có lỗi gì và cũng không phải là không có từ bi.

 

Kính chúc Phật tử tâm Bồ đề kiên cố, chánh tín tu hành cho đến ngày viên thành Phật quả.

 

18. Tại sao phải tổ chức xuất gia ngắn hạn? Và ý nghĩa của việc đắp ý nâu và y vàng như thế nào?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, con xin thầy hoan hỷ giảng cho chúng con được hiểu rõ một vài vấn đề trong việc xuất gia ngắn hạn: Tại sao cạo tóc mới được đắp y vàng? còn đắp y nâu thì không cạo tóc? Mục đích của việc làm nầy như thế nào? Kính móng thầy từ bi hoan hỷ giải thích cho chúng con được rõ.

 

Đáp: Nói đến xuất gia là nói đến hạnh tu xuất thế. Hạnh nguyện nầy không phải dễ thật hành. Đây là noi theo hạnh tu của Phật và các thánh chúng khất sĩ thời xưa. Bởi xuất gia là người phải có chí nguyện cao cả. Phải dám từ bỏ tất cả mọi thứ dục lạc ở thế gian. Chính vì thế, nên ít có người dám sấn bước đi theo con đường nầy. Tuy nhiên, vì muốn cho các Phật tử cư sĩ tại gia gieo trồng duyên lành hạt giống xuất gia nên chư Tổ mới tạm bày ra cách xuất gia ngắn hạn. Thời gian dài ngắn không nhứt định. Có khi 10 ngày hoặc hai tuần hay một tháng tùy theo các chùa tổ chức. Thời gian các vị dự tu được xem như là tập sự theo nghi cách phẩm hạnh của người xuất gia. Nghĩa là phải hành trì tu tập giữ giới và oai nghi như một người xuất gia thực thụ.

 

Phật tử hỏi tại sao cạo tóc mới được đắp y vàng? Đây là tuân theo giới luật Phật chế. Một người xuất gia thọ giới Sa di, tức 10 giới thì phải cạo tóc. Dù là xuất gia tập sự ngắn hạn cũng phải như thế. Ở đời người ta quý trọng nhứt là mái tóc. Bởi thế mới có câu nói: "Cái răng cái tóc là gốc con người". Do vì quý tiếc mái tóc cho nên không ai dám đụng đến một sợi tóc. Ngược lại, khi một người phát tâm xuất gia, từ bỏ mọi thứ dục nhiễm thế gian, cho đến sự chăm sóc làm đẹp thân thể, đối với người xuất gia cũng phải từ bỏ hẳn. Tổ Quy Sơn nói: "Người xuất gia tâm hình phải khác với người đời". Hơn nữa, sự cạo râu tóc cũng là noi theo đức Phật ngày xưa. Khi vượt thành xuất gia chính Thái Tử Sĩ Đạt Ta cũng đã từng cắt tóc. Lịch sử đã ghi lại như thế.

 

Còn Y là pháp phục mà do đức Phật chế ra cho các Tăng, Ni mặc. Những vị chính thức được có Y là kể từ khi đã thọ giới luật. Y có nhiều loại, nhưng ở đây chúng tôi chỉ nói riêng về chiếc Y Sa di như lời Phật tử đã hỏi. Theo luật Phật chế người thọ mười giới tức là Sa di thập giới: vị nầy bắt đầu chính thức được gia nhập vào trong hàng ngũ xuất gia. Những vị thọ mười giới thì chỉ được mặc (mang) chiếc "Mạng Y" là những chiếc Y không có các mạng (miếng), tức là Y không có "Điều" như các loại Y của các vị thọ Đại giới Tỳ kheo mặc. Khi đắp Y vào để hành lễ thì có bài kệ mà người thọ giới Sa di cần phải ghi nhớ thuộc lòng. Bài kệ  như sau:

 

Đại tai giải thoát phục

Vô tướng phước điền y

Phi phụng trì giới hạnh

Quảng độ chư quần sanh

 

Nghĩa là:

 

Lành thay áo giải thoát

Là ruộng phước không tướng

Mặc kính đúng giới hạnh

Rộng độ hết chúng sinh

 

Đó là nói những vị thọ mười giới đắp Y vàng, tức Y Mạng như đã nói ở trên. Những vị nầy còn được gọi là những vị thọ giới Sa di chính thức, nhưng chưa phải là thực thụ lâu dài mà chỉ tu tập sự trong thời gian ngắn hạn mà thôi. Còn những vị đắp y màu mâu hay màu đà (hoại sắc) thì gọi là bán chính thức không có cạo tóc. Chiếc Y màu nâu nầy chỉ là một tấm vải trơn không có mạng gì cả. Dĩ nhiên là hoàn toàn khác với chiếc Y của Sa di mặc. Bởi những vị nầy chỉ là dự tu không chính thức. Thú thật, việc mặc những chiếc Y màu nâu nầy, tôi không thấy Kinh Luật nào nói đến. Theo tôi nghĩ, đây cũng là một phương tiện tốt do chư Tôn Thiền Đức bày ra nhằm mục đích khuyến khích cho những ai chưa đủ nhân duyên thế phát thọ giới Sa di để họ tập tu gieo trồng hạt giống xuất thế vậy. Dù là dự thính đắp y nâu, nhưng sự hành trì tu tập của họ trong suốt thời gian dự tu, cũng không khác gì Sa di chánh thức. Tuy nhiên, khi hành lễ, họ phải đứng sau những vị thọ giới Sa di đắp y vàng đúng theo luật Phật chế. Việc nầy cũng đáng khích lệ cho những ai muốn tập tu theo phẩm hạnh của người xuất gia. Cả hai dù chánh thức hay bán chánh thức cũng đều gieo trồng chủng duyên xuất gia rất có lợi lạc trong hiện tại và mai sau vậy.

 

19. Đã về Cực lạc rồi sao còn nguyện trở lại Ta bà làm gì? Như thế có chống trái không?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con nghe có thầy phục nguyện trong đó có câu là về Cực lạc chóng đắc vô sanh pháp nhẫn hoàn lai Ta bà độ tận chúng sinh. Đã sợ Ta bà khổ mới nguyện vãng sanh về Cực lạc, đã về được Cực lạc rồi còn nguyện trở lại Ta bà chi nữa. Nguyện như vậy có mâu thuẫn gì không? Kính xin thầy giải đáp cho chúng con rõ. Kính cám ơn thầy.

 

Đáp: Trong câu hỏi của Phật tử có ba vấn đề mà chúng tôi xét thấy cần nêu ra để tiện bề tìm hiểu:

 

Thứ nhứt là cụm từ "chóng đắc Vô sanh pháp nhẫn". Vì đây là lời cầu nguyện nên người cầu nguyện có ý muốn cho hương linh của người mất được vãng sanh về thế giới Cực lạc để tiếp tục tu hành và chóng được thành tựu Vô sanh pháp nhẫn. Sao gọi là Vô sanh pháp nhẫn? Vô sanh ở đây xin chớ ngộ nhận là không tái sanh trở lại, mà nó có nghĩa là: chỉ cho một thực thể " không sanh không diệt". Còn pháp nhẫn chữ nhẫn ở đây không có nghĩa là nhẫn nhịn hay chịu đựng theo cái nghĩa thông thường, mà nó có nghĩa là an trú. An trú ở đâu? Tức an trú ở nơi pháp vô sanh, bất diệt. Nói cách khác là chứng nhập ở nơi thể tánh chơn như mà thể tánh chơn như thì bất sanh bất diệt v.v... 

 

Thứ hai là "Hoàn lai Ta bà độ tận chúng sanh". Câu nầy có nghĩa là nguyện cho người nào đó sau khi chứng nhập vô sanh pháp nhẫn, trở lại cõi Ta bà nầy để hóa độ chúng sanh. Bởi chúng sanh ở cõi nầy còn dẫy đầy đau khổ. Người tu hành sau khi hoàn tất phần tự lợi thì phải nghĩ đến phần lợi tha. Như một sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường, thì phải đi làm một việc nào đó theo nghề nghiệp sở hành chuyên môn của mình để giúp ích cho nhơn quần xã hội. Trong khi còn nỗ lực miệt mài học hỏi ở nhà trường, thì đó là phần tự lợi. Đến khi ra trường giúp ích cho mọi người thì đó là thể hiện phần lợi tha. Đức Phật sở dĩ chúng ta gọi Ngài là Phật, bởi Ngài đã hoàn tất cả hai công hạnh: tự giác và giác tha, nên gọi Ngài là Giác hạnh viên mãn. Nghĩa là cả hai đều hoàn thành một cách viên mãn tốt đẹp.

 

Thứ ba, sau khi nêu ra hai phần trên, Phật tử lại nghi vấn: Tại sao đã về Cực lạc rồi mà còn nguyện trở lại Ta bà chi nữa? Nguyện như vậy có mâu thuẫn không?

 

Xin thưa ngay là không có gì chống trái mâu thuẫn cả. Như trên đã nói, hạnh nguyện của người tu, không phải chỉ nghĩ riêng cho mình, mà còn phải nghĩ đến làm lợi ích cho tha nhân. Nếu chỉ nghĩ đến lợi ích cho riêng mình, thì đó mới thật là ích kỷ và chống trái. Vì như thế, là trái với lòng từ bi vị tha của người tu hành theo Phật giáo. Bởi Phật giáo chủ trương là phải từ bi cứu khổ mang lại nguồn an vui hạnh phúc đến cho muôn loài. Nguyện vãng sanh về Cực lạc không có nghĩa là ở luôn bên đó mà phải trở lại cõi nầy để hóa độ chúng sinh. Vì đó là bản nguyện độ sanh của người tu. Mình được lợi lạc thì cũng muốn cho mọi người được lợi lạc như mình. Vì vậy, nên những ai đã phát nguyện vãng sanh về Cực lạc chứng được vô sanh pháp nhẫn rồi cũng đều phải hoàn lai Ta bà để phổ độ chúnh sinh. Đó là điều làm theo bản nguyện của mình chớ không có gì gọi là chống trái cả. Chống trái chăng, là khi mình được vãng sanh về Cực lạc rồi chỉ muốn an hưởng giải thoát cho riêng mình thôi, mặc cho cõi nầy ai khổ mặc ai, không một chút từ tâm đoái hoài thương tưởng, đó mới thật là chống trái. Vì trái với bản nguyện của mình và cũng trái với bản hoài độ sanh của chư Phật và Bồ tát vậy.

 

Thí như có người ra khỏi biển khổ lên được bờ giải thoát rồi, bấy giờ người đó nhìn lại thấy mọi người còn đang bị loi nhoi hụp lặn chết đuối chơi vơi trong biển khổ, thử hỏi người đó có nhẫn tâm nhìn ngó rồi ngoảnh mặt làm ngơ bỏ đi không? Nếu bỏ đi như thế, thì quả thật họ là một con người vô lương tâm và quá ư tàn nhẫn. Đã thế thì người đó có xứng đáng là người tu theo đạo giác ngộ giải thoát không? Hỏi tức là chúng ta đã có sẵn câu trả lời rồi vậy.

 

20. Hối lỗi vì can dự vào việc người.

 

Hỏi: Bạch thầy, có lần sau khi thọ bát ở chùa về, con chứng kiến một cuộc cãi vả đôi chối giữa đứa con dâu với đứa cháu dâu kêu con bằng cô. Thấy vậy, con mới đứng ra hóa giải dàn xếp cho yên chuyện, nhưng không ngờ đứa cháu dâu phản bác lại bảo con không nên xen vào chuyện của nó. Con tức quá nói không ra lời, nên lúc đó con quỳ xuống xin lỗi và bảo: "Xin con cho cô gánh hết tất cả lỗi đừng cãi nữa để cô chịu hết". Đứa cháu dâu bắt lỗi con trù nó giảm thọ, con giải thích cách nào cũng không được. Như vậy, có phải con có lỗi trù nó hay không? Và việc làm nầy của con đúng hay sai? Mong thầy chỉ dẫn cho con cách nào xóa lỗi. Kính cảm ơn thầy nhiều.

 

Đáp: Việc khuyên can của Phật tử đó là điều rất tốt không có gì là sai trái cả. Người có tấm lòng nhân từ hòa ái, hào hiệp, biết yêu thương người, khi thấy việc bất bình xảy ra dù là người thân hay sơ, họ cũng hết lòng dự vào can gián, vì họ không muốn chứng kiến cảnh ấu đả gây ra sự tổn thương thiệt hại cho đôi bên. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp vì lòng tốt của mình mà mang họa hại vào thân. Bởi thế nên người xưa có câu nói: "Ách giữa đàng mang vào cổ". Chuyện can dự vào việc người cũng thường hay xảy ra như thế. Cùng một hành động can gián khuyên giải, nhưng có người vì nóng tánh không giữ được sự bình tĩnh kiên nhẫn sáng suốt, ban đầu còn ở vị thế là ngưòi đứng ra hòa giải, nhưng sau cùng cũng nhập cuộc lâm trận ăn thua đủ với nhau luôn. Ngược lại, có người thì họ còn giữ được sự bình tĩnh kiên nhẫn, khéo dùng lời lẽ can gián phải trái để khuyên bảo đôi bên, nên họ sớm dập tắt được ngọn lửa sân hận đang cháy của đối phương. Tuy nhiên, việc đứng ra hóa giải một cuộc tranh chấp, còn tùy theo cường độ tranh chấp nặng nhẹ của đối phương và cộng thêm đức độ uy tín, tài năng khéo léo của người đứng ra dàn xếp hóa giải nữa. Không phải cuộc hóa giải nào cũng được dễ dàng êm thắm yên xuôi hết đâu.

 

Trường hợp của Phật tử cũng thế. Vì Phật tử không thể dửng dưng khi chứng kiến giữa người thân trong gia đình xảy ra việc bất hòa tranh chấp cãi vã hơn thua với nhau. Tuy Phật tử khuyên giải bằng tất cả tấm lòng của một người lớn. Thế nhưng, lòng tốt của mình đôi khi cũng dễ bị đối phương hiểu lầm. Bởi do việc xử sự hành động của mình không được tế nhị, khéo léo. Hoặc có đôi khi người khuyên giải có hơi thiên lệch tình cảm không công bằng nên làm cho đối phương bất phục. Khi Phật tử khuyên giải thì bị người cháu dâu chẳng những không nghe theo mà còn thốt lời vô lễ với Phật tử. Do đó nên Phật tử vì quá tức giận nên mới hành động quỳ xin lỗi và bảo: " Xin con cho cô gánh hết tất cả lỗi đừng cãi nữa để cô chịu hết". Hành động và lời nói nầy của Phật tử rõ ràng là có sự hờn lẫy giận tức trong đó. Bởi thế nên người cháu dâu mới cho Phật tử là trù nó giảm thọ.

 

Hành động của Phật tử chẳng những không có kết quả tốt đẹp mà còn bị người cháu dâu phản bác lại. Bởi Phật tử là người vô can đâu có dính líu gì đến việc cãi vã của hai người. Đó chẳng qua, vì Phật tử nóng lòng muốn dàn xếp cho yên chuyện mà phải hành động như thế. Trong trường hợp nầy Phật tử vì giận tức mà hành động có hơi quá đáng. Tại sao Phật tử phải quỳ và gánh lỗi của người khác? Phật tử quên rằng, lỗi ai gây ra thì người đó phải chịu nhận lấy, không ai thay thế tội lỗi cho ai được cả. Dù là tình thân ruột thịt máu mủ cũng không thể nào thay nhau được. Nếu thay được thì còn gì là luật nhân quả? Không thể người nầy ăn mà người khác lại no bụng? Đâu có chuyện ngược đời như vậy. Nếu thay thế được, thì xưa kia, Tôn giả Mục Kiền Liên đã thay tội lỗi cho mẹ của Ngài rồi. Đâu cần gì phải thỉnh Phật và chư Tăng chú nguyện.

 

Chính hành động và lời nói của Phật tử không khéo nên mới gây ra  chạm tự ái mạnh của người cháu dâu, nên cháu mới tức giận và quy trách tội lỗi cho Phật tử là trù rủa cháu. Hai người đang cãi vã với nhau, lẽ ra, Phật tử nên lấy quyền của người mẹ, người cô, mà khuyên bảo hay la rầy cả hai người mới phải, ngược lại, Phật tử chỉ van xin người cháu dâu thôi. Chính điều đó làm cho người cháu dâu hiểu lầm nghĩ Phật tử thiên vị bênh vực người con dâu nên mới hành động như vậy. Hành động nầy tuy Phật tử không có ý như thế, nhưng chỉ vì nóng lòng mà hành động thiếu bình tĩnh sáng suốt đó thôi. Vì thế, nên Phật dạy người Phật tử, từ bi nhưng phải có trí huệ soi sáng. Nói cách khác, từ bi cần phải có sự điều động của lý trí. Có thế, thì việc làm mới không bị vấp phải lỗi lầm.

 

Tóm lại, việc làm của Phật tử tuy mục đích nhắm tới thì không sai nhưng hành động của Phật tử làm như thế thì không đúng lắm. Phật tử đâu cần phải quỳ lụy xin lỗi như thế. Vì Phật tử là bậc trưởng thượng của hai người kia mà! Phật tử chỉ dùng lời khuyên can phân tích phải trái để hóa giải việc tranh cãi. Nếu họ nghe thì tốt còn bằng không thì thôi. Bởi khi tranh cãi ai cũng muốn biện minh cho mình là phải hết nên không ai chịu khuất phục nhịn nhục thua ai. Đó là do lòng sân hận nóng giận thúc đẩy nên mới có sự tranh cãi hơn thua như thế. Lửa đang bùng cháy mà không biết cách dập tắt thì chỉ chuốc lấy họa hại vào thân thôi!

 

Lần sau, nếu gặp trường hợp như thế, tôi thành thật khuyên Phật tử nên bình tĩnh khéo léo trong việc khuyên giải. Thật ra Phật tử đâu có lỗi gì mà phải xóa. Chỉ có cái lỗi là khuyên can muốn cho hai người đừng tranh cãi nhau thôi. Phật tử nên hiểu biệt nghiệp tánh tình của mỗi người mỗi khác. Mình muốn người ta nghe theo mình hoàn toàn, điều đó không phải là chuyện dễ làm đâu. Người nào mình khuyên can được thì nên khuyên, còn bằng khuyên không được thì thôi. Nếu không khéo, thì mình cũng bị nhập cuộc và mang thêm phiền não họa lây vào mình.

 

Kính chúc Phật tử luôn sáng suốt an bình trong nếp sống.

 

21. Tu mà không hiểu nghĩa lý trong kinh Phật nói là tu giả.

 

Hỏi: Kính bạch thầy, có thầy nói: Nếu Phật tử nào tu mà không hiểu nghĩa lý trong kinh Phật nói, thì Phật tử đó là tu giả (không thật tu). Bạch thầy, chúng con chỉ biết đi chùa, niệm Phật và hiểu rất ít ý nghĩa về kinh Phật. Không lẽ vì vậy mà chúng con tu giả hết hay sao? Và tu như thế theo thầy đó nói, chúng con có lỗi không? Kính mong thầy từ bi giải đáp cho chúng con hiểu. Có nhiều Phật tử rất băn khoăn về vấn đề nầy.

 

Đáp: Lời nói đó thật ra thì không sai nhưng có lẽ vị thầy đó chưa giải thích rõ để cho Phật tử hiểu. Chính vì vậy nên Phật tử mới đâm ra nghi ngờ thắc mắc. Ở đây, tôi chỉ dựa vào câu hỏi của Phật tử đã nêu ra mà góp chút thành ý trong vấn đề nầy. Đã là Phật tử, thì ít nhiều gì chúng ta cũng cần phải tìm hiểu học hỏi qua những lời Phật dạy. Bởi những lời Phật dạy trong Kinh, nghĩa lý của nó thật thâm sâu vi diệu. Đối với trình độ căn cơ hạn hẹp nông cạn của chúng ta hiểu được phần nào thì tốt phần đó. Việc tìm hiểu học hỏi của người Phật tử không bao giờ ngừng. Bởi nguồn giáo lý của đạo Phật nó rộng sâu như bể cả. Thế nên, chúng ta cần phải gia công nghiên tầm học hỏi cho thấu đáo. Tu mà không hiểu lời Phật dạy thì đó là tu mù. Theo tôi, nên nói tu mù có lẽ đúng hơn là tu giả. Tại sao gọi là tu giả? Tu giả là ngụy trang hình thức bề ngoài để lừa bịp thiên hạ. Nhìn bề ngoài thì giống như người tu, nhưng kỳ thật trong tâm thì chẳng có tu hành gì cả. Đây là hạng người ngụy tạo danh nghĩa, thực chất thì không có tu hành đúng theo chân lý mà Phật đã dạy. Tu có ý đồ phô trương hình thức giả trá để tiện bề trục lợi. Vì thế nên mới có câu nói: "Chiếc áo không làm nên thầy tu" là thế.

 

Đối với hạng người nầy thì chúng ta có thể nói họ là người giả tu chớ không phải là chơn tu. Ngược lại, tuy có người chưa hiểu nghĩa lý thâm sâu trong Kinh Phật dạy, nhưng họ có tấm lòng chân thật tu hành muốn được giải thoát sanh tử khổ đau, thì sao gọi họ là người tu giả được? Chỉ có thể trách họ là người không chịu nghiên tầm học hỏi Phật pháp để biết rõ đường lối tu hành để khỏi phải rơi vào tà kiến ngoại đạo. Vì thế nên mới có câu nói: "Tu mà không học là tu mù, học mà không tu là đãy sách". Thế thì, là Phật tử chúng ta nên cố gắng học hỏi tìm hiểu nghĩa lý trong Kinh mà Phật Tổ đã chỉ dạy. Có hiểu đúng thì mới thật hành đúng. Như thế thì mới có lợi lạc cho mình trong hiện tại và tương lai. Đây là câu nói sách tấn, để cho Phật tử cố gắng tìm hiểu học hỏi Kinh điển mà thôi. Vì câu nói không được rõ ràng nên Phật tử mới hoài nghi thắc mắc. Thay vì nói tu mù thì lại nói tu giả.

 

Trong đạo Phật bao giờ cũng nêu cao tôn chỉ là "Tri hành hợp nhứt". Tri thuộc về phần hiểu biết nghiên về lý thuyết, tức phần nghiên cứu tìm hiểu về mặt kiến giải. Còn Hành là phần thực nghiệm hay thật hành qua những lý thuyết chỉ hướng chân lý. Lý thuyết dụ như con mắt sáng nhìn xa thấy rộng. Thật hành dụ như đôi chân vững mạnh bước đi vững chắc. Như vậy, cả hai đều phải được song hành hỗ tương với nhau mới có thể đạt được mục đích nhắm tới. Tuy nhiên, phần lý thuyết bao giờ cũng đi xa hơn phần thật hành. Đôi khi nói thì dễ mà thật hành thì rất khó. Như người đứng dưới chân núi, nhìn thấy trên đỉnh núi cao rõ ràng, nhưng muốn trèo lên tới đỉnh núi không phải là chuyện dễ. Tất nhiên, nó đòi hỏi người đó phải có đầy đủ ý chí nghị lực cương quyết mạnh mẽ vượt qua khó khăn mới có thể đạt được như ý muốn. Sự tu hành cũng thế. Hành giả muốn đạt được giác ngộ giải thoát thì cũng phải trải qua nhiều gian nan thử thách mới tựu thành. Nhưng phải đi đúng hướng thì mới đến đích được. Hướng đi là phần lý thuyết chỉ đạo. Nếu chỉ có lý thuyết không thôi thì đó cũng chỉ là lý thuyết suông. Nếu thật hành mà thiếu phần lý thuyết chỉ đạo thì hành giả sẽ khó đạt thành sở nguyện. Vì thế, người tu Phật cần phải có đầy đủ cả hai hỗ tương song hành với nhau. Đó là điều rất quan yếu trong việc tu hành của người Phật tử mong cầu thoát ly sanh tử khổ đau vậy.

 

Kính chúc Phật tử tinh tấn tu hành chóng đạt thành sở nguyện.

 

22. Người nữ muốn đi xuất gia có cần điều kiện gì không?

 

Hỏi: Kính thưa thầy, một người nữ muốn xuất gia trong luật Phật dạy có cần điều kiện gì không? Trường hợp ở Úc muốn tu thì tu ở đâu? Kính xin thầy giải thích cho con rõ. Việc nầy con ôm ấp trong lòng đã lâu rồi mà chưa có dịp hỏi.

 

Đáp: Trong câu hỏi nầy có hai vấn đề mà chúng tôi xin được góp ý:

 

Thứ nhứt, Phật tử hỏi: Một người nữ xuất gia trong luật Phật dạy có cần điều kiện gì không? Xin thưa, nếu người nữ nào muốn xuất gia thì theo luật Phật dạy, cần phải hội đủ những điều kiện sau đây:

 

1. Nếu là người nữ chưa đến tuổi trưởng thành theo luật pháp đã định và cũng chưa có lập gia đình, khi muốn vào chùa tu thì phải có sự đồng ý của cha mẹ. Trong trường hợp người nữ đó không còn cha mẹ thì việc phát tâm xuất gia không có gì trở ngại.

 

2. Nếu là người nữ đã đến tuổi thành nhân theo pháp định, tự mình có thể quyết định đời mình, không còn lệ thuộc vào cha mẹ, thì việc xuất gia không có gì trở ngại. Tuy nhiên, nếu người nữ đó đã có gia đình hiện đang sinh sống với chồng con mà muốn đi xuất gia thì, phải được sự đồng ý của chồng con. 

 

3. Người nữ đó tương đối phải có sức khỏe tốt và không bị khuyết tật, vì bị khuyết tật thiếu một trong sáu căn thì theo luật Phật chế, sau khi xuất gia không được thọ đại giới Tỳ kheo.

 

4. Người nữ đó không bị vi phạm vào luật pháp thế gian và cũng không vướng phải một số nợ nần lớn, như trường hợp trốn thuế hay giựt nợ v.v...

 

5. Người nữ đó không bị can hệ dính líu đến tình duyên, như trong trường hợp bị thất tình hay trốn tránh người yêu hoặc đã đính hôn sắp cưới hỏi v.v...

 

Nếu người nữ nào vướng phải những điều kiện trên, thì theo luật Phật dạy không thể xuất gia được. Bởi khi vào chùa mà duyên trần chưa dứt thì đối với bản thân của người đó không được lợi lạc và đối với nhà chùa thì chỉ gây thêm sự phiền phức rắc rối xáo trộn trong chùa mà thôi.

 

Thứ hai, Phật tử hỏi: Trường hợp ở Úc muốn tu thì tu ở đâu? Xin thưa, ở Úc có rất nhiều chùa, tùy theo nhân duyên của Phật tử đó muốn xuất gia tu ở chùa nào thì phải được sự đồng ý của vị Tăng hoặc Ni ở chùa đó. Tuy nhiên, theo tôi, thì nên tìm chùa Ni để xin xuất gia thì tốt hơn. Bởi chùa Tăng ít khi nhận người nữ xuất gia. Nếu có thì cũng phải có đông chư Ni mới được. Trường hợp như Tổ Đình Phước Huệ ở Sydney, hiện nay ngoài một số ít chư Tăng ra, còn có một số đông chư Ni tu học tại Tổ Đình, phần lớn là những vị trọng tuổi.

 

Tóm lại, điều nầy không nhất định là phải tu ở chùa nào tùy nhân duyên của đương sự. Nếu có nhân duyên với vị Tăng hay Ni nào hoặc chùa nào, thì cũng đều xin xuất gia tu học được cả. Tuy nhiên, việc chấp nhận hay không là còn tùy thuộc vào nhân duyên cả hai: thầy và trò nữa. Đồng thời còn phải y cứ vào luật Phật dạy để xét qua như những điều kiện đã được nêu ra ở trên.

 

Kính chúc Phật tử chóng đạt thành ý nguyện.

 

23. Phát nguyện tịnh khẩu lỡ nói chuyện có tội không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, trong khóa tu kỳ rồi, con có phát nguyện tịnh khẩu suốt thời gian 7 ngày, nhưng con lỡ nói chuyện với một người bạn hỏi con, như vậy con có tội không? Và con có nên sám hối không?

 

Đáp: Việc tịnh khẩu hay bất cứ một việc làm nào khác, tự mình đã phát nguyện gìn giữ mà không giữ đúng theo lời phát nguyện đó thì đều có tội cả. Tội nầy không do ai bắt tội mình mà chính do mình gây ra và mình phải nhận lấy. Bởi mình giữ không tròn những gì mà mình đã phát nguyện. Luận về tội, thì có tội cố ý và tội vô tình và cường độ của tội lỗi gây ra nặng nhẹ có khác nhau. Nếu như mình đã phát nguyện gìn giữ mà vẫn cố ý vi phạm, thì theo luật Phật dạy, đây là tội nặng. Ngược lại, vì vô tình không có chủ tâm cố ý mà vi phạm thì tội nhẹ. Trong trường hợp của Phật tử, tuy Phật tử đã phát nguyện trước Tam bảo là tịnh khẩu suốt trong thời gian dự tu bảy ngày, nhưng vì có người hỏi nên Phật tử quên lỡ nói, điều nầy cũng có tội nhưng rất nhẹ. Bởi Phật tử vô tình chớ không có cố ý. Vả lại, không phải tự ý Phật tử nói, vì có người hỏi nên Phật tử mới thốt ra lời. Như vậy, đâu phải Phật tử tự nhiên cố tình gây ra. Cho nên Phật tử chỉ cần sám hối là hết tội.

 

Trong 100 câu hỏi Phật Pháp tập 2, ở tiết mục 82, trang 269, tôi đã có nói qua về vấn đề tịnh khẩu. Nếu Phật tử muốn biết rõ thêm về vấn đề tịnh khẩu nầy thì nên đọc lại quyển sách đó, hoặc vào các trang mạng: Quang Minh, Tạng Thư Phật Học hay Hoa Sen v.v... đều có. Ở đây, tôi chỉ xin nhắc lại đại khái về mục đích của việc tịnh khẩu. Tịnh khẩu có nghĩa là thanh tịnh khẩu nghiệp. Bởi cái miệng tuy là công cụ để phát ra lời nói, nhưng nếu chúng ta không khéo gìn giữ cẩn thận phát ngôn bừa bãi thì cũng dễ gây ra tai hại. Vì vậy, để tránh tội lỗi gây ra bởi cái miệng lắm lời nhiều chuyện, nên Phật Tổ thường khuyên chúng ta nên ráng tu cái khẩu nghiệp. Nếu nói cho đúng là phải nói ngữ nghiệp. Nhờ gìn giữ ở nơi lời nói nên ít gây ra tội lỗi. Bao nhiêu phước đức có ra, phần nhiều đều bị cái khẩu nghiệp nó thiêu đốt hết. Nếu chúng ta khéo sử dụng cái miệng nói những lời chánh ngữ hay ái ngữ hòa nhã êm dịu dễ thương thì, không những có lợi lạc cho mình mà còn đem lại sự lợi lạc cho người khác nữa. Nhưng rất tiếc, trong đời sống hằng ngày ít có ai nói như thế. Phần nhiều là thốt ra toàn những lời chua cay độc hại gây khổ đau cho mình và người. Bởi vậy, trong giới thứ tư Phật dạy người Phật tử không được nói dối, chuyện không nói có, chuyện có nói không, nói lời thêu dệt trao chuốt, nói lưỡi hai chiều tới đây nói kia, tới kia nói đây, gây xích mích ly gián hai bên với nhau. Nhất là nói lời hung ác trù rủa chưởi mắng.

 

Để bớt tạo nghiệp tội lỗi ở nơi cái miệng, nên Phật Tổ khuyên chúng ta ít nói nhiều câu chuyện mà nên niệm nhiều câu Phật. Mục đích của việc tịnh khẩu là cốt để tránh gây ra tội lỗi bởi cái khẩu nghiệp. Đúng ra tịnh khẩu không hẳn là câm như hến mà chúng ta chỉ nói những lời hòa nhã êm dịu, đoàn kết, yêu thương, xây dựng, không chia rẽ hận thù, đó cũng là ý nghĩa của việc tịnh khẩu. Nếu chúng ta chưa được như thế, thì cũng nên phát nguyện không nói trong những khóa tu đặc biệt cũng là tốt. Tập cho chúng ta có một thói quen ít nói và cẩn thận hơn ở nơi lời nói. Vì nói nhiều tâm ta càng rối loạn bất an. Vì muốn tâm an nên cần phải tịnh khẩu. Đó là mục đích chính của việc tịnh khẩu vậy.

 

Tóm lại, Phật tử yên tâm đó là vì có người hỏi mà Phật tử quên nên mới thốt ra lời. Thế thì Phật tử chỉ cần sám hối là hết tội.

 

Kính chúc Phật tử thăng tiến mãi trên bước đường tu học Phật pháp để sớm đạt thành sở nguyện.

 

24. Mãi vật phóng sanh như thế nào mới đúng pháp?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, thường khi phóng sanh quý thầy làm lễ quy y cho chúng nó rồi mới thả, còn Phật tử chúng con muốn phóng sanh mua xong là đem thả ngay. Như vậy xin hỏi chúng con làm như thế có đúng không? Xin thầy từ bi chỉ dạy.

 

Đáp:  Ý nghĩa phóng sanh là trả lại sự sống cho muôn loài. Mãi vật phóng sanh là điều rất quý nên làm. Bởi loài nào cũng đều ham sống sợ chết cả. Chẳng qua là vì kẻ yếu thường bị kẻ mạnh ỷ thế hiếp đáp và tàn sát với nhau đó thôi. Có loài nào mà không ham sống sợ chết? Dù nhỏ nhít như con kiến, con trùng, chúng nó cũng có mạng sống và chúng cũng biết quý trọng mạng sống của chúng. Trong tất cả các loài động vật, thì loài người là thông minh hơn hết. Vì vậy, nên mới nói loài người là loài cao cấp thượng đẳng.

 

Đức hiếu sinh là cội gốc đạo đức nhân bản của con người. Bởi hiếu sinh là trân quý sự sống, tôn trọng và bảo vệ sự sống. Nếu con người mà thiếu đi đức tánh hiếu sinh nầy thì đâu có khác gì các loài động vật hạ đẳng thấp hèn khác. Trong tất cả các tội lỗi, không có tội lỗi nào bằng tội sát sanh hại vật. Và cũng không có quả báo nào lớn lao hơn bằng quả báo giết hại các loài sinh vật. Đó là quả báo trọng đại mà người thọ báo phải nhận chịu cực hình đau khổ.

 

Truyền thống phóng sinh ở nước Việt Nam ta đã có từ lâu đời. Nhất là vào những dịp đại lễ Phật Đản, Vu Lan hay lễ Chúc thọ cho ông bà cha mẹ. Thường thì người ta hay mua những con vật để phóng thích. Không gì quý hơn là trả lại sự sống tự do cho muôn loài. Một người bị nhốt trong lao tù cảm nhận mất tự do và đau khổ như thế nào, thì con vật khi bị chúng ta bắt chúng nhốt vào trong một cái lồng (khác nào nhốt chúng trong lao tù), thì chúng cũng cảm thấy mất hết tự do và đau khổ cũng như thế ấy. Thử hỏi, có loài nào mà không thích sống tự do? Môi trường sống của loài vật là cả một bầu trời thênh thang bao la rộng lớn. Nay chúng ta bắt nhốt chúng trong một cái chậu hay một cái lồng, thì chúng đâu có còn tự do bay nhảy trong bầu trời mênh mông lồng lộng kia nữa! Tất nhiên, là chúng cũng muốn thoát khỏi cái ngục tù giam hãm càng sớm càng tốt. Con người cũng thế. Khi bị nhốt trong ngục tù thì ai cũng muốn chóng được thoát ra. Người ta nói: "Nhứt nhựt tại tù thiên thu tại ngoại". Nghĩa là một ngày ở trong ngục tù bằng một trăm năm ở bên ngoài. Câu nói đó cho chúng ta thấy được sự khao khát của một con người hay của một loài vật muốn có được đời sống tự do như thế nào rồi. Nói thế, để thấy rằng, việc Phật tử mua một hay nhiều con vật rồi đem thả ngay, đó là điều mà Phật tử thực hiện đúng với ý nghĩa phóng sanh. Tuyệt nhiên, không có gì là sai trái cả.

 

Ngược lại, khi Phật tử mua một con vật nào đó rồi đem vô chùa và muốn để cho quý thầy làm lễ cầu nguyện quy y cho chúng nó, việc làm nầy tuy không sai, nhưng xét kỹ ra thì thật là tội nghiệp cho những con vật bị nhốt quá! Tất nhiên, là không đúng mấy với ý nghĩa phóng sanh rồi. Bởi khi những con vật bị nhốt chung trong một cái lồng, chúng chuyền nhảy dẫm đạp lên nhau. Nếu con nào yếu đuối thì sẽ bị bầm dập nhừ tử ngất ngư. Phải chờ đợi đến khi thầy rảnh rỗi mới làm lễ. Khi làm lễ còn phải theo nghi thức tụng niệm dài dòng. Đến khi thả ra có con không còn đủ sức bay nhảy nổi nữa. Việc làm nầy, theo tôi nghĩ, thì quý thầy cũng chỉ làm theo ý nguyện của Phật tử đó thôi. Vì Phật tử chưa hiểu rõ ý nghĩa của việc mãi vật phóng sanh nên mới làm như thế. Còn khi đã hiểu rồi thì không cần thiết phải làm theo thủ tục nghi thức rườm rà mà khi mua xong là cứ chú nguyện cho chúng rồi phóng thích chúng ngay. Đó là điều mà chúng đang khao khát mong đợi từng giây phút. Có niềm vui nào lớn hơn khi được phóng thích, vì chúng đã trở lại cuộc sống tự do sinh hoạt bình thường. Chúng nó đang cần sự tự do như con người đang cần không khí để thở. Theo tôi, phóng sanh như thế, thì mới đúng ý nghĩa của việc phóng sanh vậy.

 

Kính chúc Phật tử tu tạo nhiều thiện nghiệp để có được đời sống an vui trong hiện tại và mai sau.

 

25. Trong lúc niệm Phật có hiện tượng lạ trên đầu.

 

Hỏi:  Kính thưa thầy, mỗi lần con niệm Phật như có vật gì bò hoài trên đầu con, con thử  lấy tay xoa và kéo xuống. Có thầy nói không sao đâu nhưng càng ngày con càng thấy như có con vật gì đang bò mạnh trên đầu con. Xin hỏi hiện tượng nầy như thế nào? Và phải làm sao cho nó hết.?

 

Đáp: Hiện tượng đó không có gì là quan trọng mà Phật tử phải quan tâm bận lòng. Theo kinh nghiệm của các bậc Cổ Đức trong làng tu thì, khi hành giả phát nguyện tinh tấn tu hành thì sẽ có một vài chướng duyên thử thách. Tùy theo sự phát nguyện và sức dụng công tinh tấn tu hành của mỗi hành giả mà có những chướng duyên khảo đảo nặng nhẹ khác nhau. Những bậc tu hành cao thì mới có những chướng nạn thử thách lớn. Còn như trường hợp của Phật tử tưởng cũng nên xét lại cho kỹ. Có đôi lúc do mình suy tưởng tạo thành những ấn tượng ảo giác như là có thật, kỳ thật thì không phải như vậy. Đôi khi một dây thần kinh nào đó của Phật tử bị suy yếu nên nó dẫn máu về não bộ không đều, từ đó nó cũng có thể gây ra hiện tượng như thế. Bởi khi mình ngồi niệm Phật do sự tập trung tâm ý vào câu hiệu Phật, nên hệ thần kinh hơi bị căng thẳng và lúc đó nhiệt độ đưa lên nên Phật tử có cảm giác như thế. Kinh nghiệm cho thấy, có người ngồi niệm Phật nghe trên đầu như bị tê rần rần, đó là hiện tượng của hệ thần kinh nào đó đã bị suy nhược.

 

Giả sử như có một vật gì đó bò như thế, thì Phật tử nên biết tất cả mọi hiện tượng đều là huyễn hóa không thật. Đã là huyễn hóa thì đâu có gì là quan trọng. Phật tử cứ bền tâm mà niệm Phật. Trong lúc dụng công tinh tấn niệm Phật thì dù có gặp bất cứ hiện tượng nào xảy ra, Phật tử cũng đừng quan tâm, coi đó như là một chướng duyên thử thách trên bước đường tu tập của mình mà thôi. Phật tử phải có lập trường kiên định và giữ vững ý chí không có gì phải lo lắng sợ hãi. Thật ra, chỗ dụng công tu hành của mình so với các bậc Cổ Đức chuyên tu thì chẳng có thắm vào đâu. Và cũng không có con ma nào léo hánh tới mình để phá phách. Vì mình đâu có phải là đối tượng của nó. Khi nào mình vượt cao hơn nó thì nó mới để ý mà tìm cách phá hại. Trường hợp như Hư Vân thượng nhơn, một bậc cao tăng cận đại, trong khi tinh tấn dụng công tham thiền, nghiệp chướng bỗng phát hiện làm cho Ngài bị đui, điếc và câm trong ba tuần nhựt.

 

Trong quyển Niệm Phật Thập Yếu do cố Hòa thượng Thiền Tâm biên soạn có nêu ra câu chuyện: " Có một vị tăng tu Tịnh độ, niệm Phật mỗi ngày đêm đến mười muôn câu. Do công đức niệm Phật, chỗ đất của sư đi đều hóa ra sắc vàng rồng. Một hôm có người nạn dân đến xin tá túc. Sư nhìn người ấy rồi nói riêng với thị giả: "Gã nầy có tướng đạo tặc, ngươi nên cho y ăn no rồi hãy bảo ra khỏi nơi đây". Ông đạo nhỏ vì lòng thương xót, thấy người kia nài nỉ mãi, lưu luyến chưa nỡ đuổi. Quả nhiên ít hôm sau, người ấy nửa đêm lén vào phòng sư bẻ gảy chân tay giết ông chết, trộm một ít đồ trong am rồi bỏ đi luôn". Đó là hai trường hợp do định nghiệp phải trả không thể tránh khỏi.

 

Người tu có ba chướng: Phiền não chướng, nghiệp chướng và báo chướng. Trong ba chướng đó sức nghiệp chướng là nặng nề và nguy hiểm hơn cả. Vì thế, trong khi dụng công tu hành, nếu có những chướng duyên xảy đến, thì các bậc Cổ Đức khuyên chúng ta nên cố gắng khắc phục vượt qua và phải an nhẫn tùy duyên tu hành. Tùy chỗ dụng công tu hành của mỗi người mà nó có những nghiệp chướng thử thách nặng nhẹ khác nhau. Trường hợp của Phật tử trong khi niệm Phật mà có hiện tượng đó xảy ra, thì Phật tử cũng đừng quan tâm và cứ chú tâm vào câu hiệu Phật mà niệm. Nếu không phải là do thần kinh gây ra, thì tự nhiên nó sẽ hết mà thôi. Phật tử không nên lo lắng, vì đó chỉ là một hiện tượng rất bình thường không có con ma nào phá phách đâu mà Phật tử lo sợ.

 

Kính chúc Phật tử bền tâm an nhẫn mà tu hành cho đến ngày thành công viên mãn Phật quả.

 

26. Thọ giới Sa di tu ở chùa, khi đau yếu hay bất lực có phải trở về nhà không?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, năm nay tuổi con đã cao, nhưng con muốn xuất gia thọ giới Sa di ở chùa. Vậy sau nầy nếu như con bị bệnh đau yếu không còn làm việc chùa được nữa, con có phải trở về nhà không?Vì con nghe một vài người nói là khi bị bệnh đau trong chùa không ai chăm sóc phải trở về nhà cho con cháu chăm sóc. Không biết họ nói như vậy có đúng không? Kính mong thầy giải đáp cho con rõ. Con xin cảm đội ơn thầy.

 

Đáp:  Như đã nói, hạnh nguyện xuất gia là một hạnh nguyện thật vô cùng cao cả, không phải ai cũng có thể thực hiện được. Nguyên hai chữ "xuất gia" cũng đã nói lên cái ý nghĩa xuất ly sanh tử khổ đau trong Tam giới rồi. Nếu chỉ có tu theo hình thức bề ngoài đầu tròn áo vuông, làm công kia việc nọ giúp cho chùa, lếu láo cho qua ngày đoạn tháng, gieo chủng duyên cho đời sau không thôi, thì điều đó không phải là chí nguyện cao cả của người xuất thế. Chí nguyện của người xuất gia là phải xuất trần thượng sĩ. Muốn thế, người xuất gia cần phải hội đủ cả hai điều kiện: "Hạnh""Giải" phải tương ưng. Nếu thiếu một trong hai thì chưa phải là người tu hạnh xuất thế. Ý nguyện xuất gia là một ý nguyện rất cao thượng. Tổ Quy Sơn dạy: "Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long Thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu". Nghĩa là: "Phàm người xuất gia là phải cất bước đến phương trời cao rộng, tâm hình khác tục. Nối thạnh dòng Thánh, hàng phục ma quân, nhằm đền trả bốn ân và cứu giúp ba cõi". Qua đó, Phật tử thấy hạnh tu xuất gia đâu phải là chuyện tầm thường dễ làm. Nói thế, không phải để cho Phật tử thối chí nản lòng. Nêu ra như thế với thâm ý là để cho Phật tử hiểu và thấy được cái tầm quan trọng siêu xuất thế gian của người xuất gia.

 

Trong câu hỏi của Phật tử, tôi thấy Phật tử nêu ra có những vấn đề rất thiết thực mà tôi xin được góp chút thành ý, rồi tùy đó mà Phật tử suy nghĩ chín chắn để quyết định.

 

1. Phật tử nói: "Năm nay tuổi của Phật tử đã cao, nhưng Phật tử muốn xuất gia thọ giới Sa di ở chùa". Đây là một ý nguyện rất tốt, tôi xin hết lòng tùy hỷ tán dương ý nguyện đó. Tuy nhiên, ở đây, tôi muốn Phật tử nên suy xét kỹ lại. Phật tử nói tuổi Phật tử đã cao (xin lỗi, tôi không biết tuổi của Phật tử đã cao đến bao nhiêu, vì Phật tử không có nói rõ), nhưng muốn xuất gia thọ giới và chỉ muốn thọ giới Sa di mười giới thôi. Điều nầy, theo luật, thì không có gì trở ngại cả. Tuy nhiên, Phật tử nên biết, xuất gia ở chùa không phải chỉ có hình thức của cái đầu tròn áo vuông không thôi, mà còn phải thật hành những gì cao cả hơn nữa. Nếu như vào trong chùa mà tối ngày chỉ biết làm một vài công việc lặt vặt nhẹ nhàng nào đó, kinh kệ thì không rành, oai nghi giới luật cũng không thông, hành vi cử chỉ thì thô tháo, tới lui trái phép, ngôn hạnh chống trái nhau, thời khóa cũng không giữ đúng, học hành giáo lý thì chẳng tới đâu v.v... Phật tử thử nghĩ xuất gia như vậy, thì làm sao tiêu hao của Đàn na tín thí dâng cúng? Tự mình đã không được lợi ích nói chi đến chuyện giáo hóa hướng dẫn người khác tu hành. Mà giả như có đi chăng nữa, thì cũng không đúng với lời Phật Tổ đã chỉ dạy. Bởi thế, nên Tổ Quy Sơn mới khuyên nhắc: "Khả tích nhất sanh không quá, hậu hối nan truy. Giáo lý vị thường thố hoài, huyền đạo vô nhân khế ngộ". Nghĩa là: "Đáng tiếc một đời luống qua, sau rồi ăn năn không kịp. Giáo lý chưa từng để lòng, đạo huyền nhân đâu khế ngộ?". Người tuổi đã cao, thì tránh sao cho khỏi: thân thể bạt nhược, tứ chi uể oải, mắt mờ tai lãng, ngồi lâu mệt mỏi, nhớ trước quên sau... thử hỏi như thế thì làm sao học hỏi? Người xuất gia đâu phải vào chùa chỉ để làm công quả không thôi. Nếu thế, thì cần gì phải xuất gia ở chùa. Biết bao người họ đến chùa làm công quả mà họ đâu cần phải xuất gia ở chùa. Nếu họ thật tâm giúp cho chùa bằng cái tâm hỷ xả, vô chấp, vô cầu, thì phước đức của họ cũng rất là lớn lao vậy.

 

2. Phật tử lại hỏi: "Sau nầy nếu như Phật tử bị bệnh đau yếu không còn làm việc chùa được nữa, Phật tử có phải trở về nhà không?" Qua câu hỏi nầy, rõ ràng Phật tử nghĩ là xuất gia vào chùa chỉ để làm công việc giúp cho chùa, đến khi không còn sức khỏe làm việc được nữa, thì có nên trở về nhà không? Như trên, tôi đã nói, nếu xuất gia mà tâm nguyện chỉ nhỏ hẹp như thế, thì tốt hơn hết, theo tôi, Phật tử nên ở nhà gắng công chuyên cần tu hành niệm Phật để cầu vãng sanh Cực lạc. Bởi Phật tử lo sợ khi mạnh thì làm việc giúp cho chùa, đến khi ngã bệnh đau yếu thì chỉ gây thêm gánh nặng phiền toái cho nhà chùa. Với tình trạng của các chùa hiện nay ở Úc, việc lo sợ của Phật tử cũng không phải là vô lý. Bởi chư Tăng, Ni ở trong chùa có rất nhiều công việc Phật sự cần phải làm, đâu có thời giờ rảnh rỗi để lo chăm sóc cho Phật tử. Vả lại, ở xứ nầy, nếu bị bệnh nặng hoặc nan y thì bệnh nhân phải vào bệnh viện điều trị, và sau đó thì phải trở về nhà hoặc vào viện dưỡng lão để cho người nhà hoặc các y tá  tiếp tục chăm sóc.

 

3. Điều mà Phật tử nghe người nào đó nói quả đúng như vậy. Tuy nhiên, không phải ai cũng như vậy hết, ngoại trừ, nếu căn bệnh của người đó kéo dài cần phải có người cận kề chăm sóc. Trường hợp nầy tất nhiên là phải về nhà để dưỡng bệnh thôi. Hiện nay trong các chùa chưa có người nào phát tâm tình nguyện làm việc thiện nguyện nầy. Vì chùa cũng không có đủ phương tiện cho việc trị liệu chăm sóc. Chính vì vậy, nên tôi khuyên Phật tử cần phải suy xét thật cẩn thận, trước khi thực hiện ý nguyện. Vì Phật tử đã hỏi, nên tôi thành tâm góp chút ý mọn với Phật tử, chớ tuyệt nhiên, tôi không dám có cái ý ngăn cản tâm nguyện xuất gia của Phật tử đâu. Xin Phật tử hiểu và thông cảm cho.

 

Kính chúc Phật tử luôn được an khỏe tinh tấn niệm Phật, chóng được kết quả tốt đẹp như ý muốn.

 

 27. Khi gặp khó khăn rắc rối trong đời sống thì đổ trút hết cho nghiệp quả.

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, thông thường khi gặp việc khó khăn rắc rối không may trong đời sống, thì người ta lại đổ thừa trút hết cho nghiệp quả, tại, bị nghiệp thế nầy, thế kia nên mới phải chịu như vậy. Vậy nghiệp là gì mà khiến cho người ta đảo điên như vậy? Và tại sao phải đổ thừa cho nghiệp?

 

Đáp: Sự có mặt của con người ở cõi đời nầy là kết quả của nghiệp nhân đã gây tạo từ trong quá khứ. Cái báo thân mà chúng ta đang mang đây là tiếp nối của nghiệp quả đời trước và đồng thời cũng đang gây tạo nghiệp nhân trong đời nầy và đời sau. Như vậy, cái thân nầy là vừa trả cái nghiệp cũ đời trước mà cũng vừa gây tạo thêm nghiệp mới trong hiện tại và tương lai. Theo luật nhân quả, khi chúng ta đã gây ra nghiệp lành hay dữ thì sớm muộn gì cũng đều phải trả. Kinh nói: "Giả sử bá thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ". Nghĩa là, dù trải qua trăm ngàn kiếp, chỗ tạo nghiệp của mình không có mất, khi nhân duyên đến rồi, quả báo phải chịu trả mà thôi. Sách Nho cũng có câu: "Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, cao phi viễn tẩu dã nan tàng, hành tàng hư thiệt tự gia tri, họa phước nhơn do cánh vấn thùy, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì". Nghĩa là, làm lành hay làm dữ cuối cùng rồi cũng phải trả, đừng có hòng cao bay xa chạy mà tránh khỏi. Hành động của mình giả dối hay chân thật thì tự mình biết, họa hay phước cũng đừng có hỏi ai, nó chỉ đến với mình sớm hay muộn mà thôi. Đã thế, thì sao gọi là đổ thừa hay trút hết cho nghiệp? Đã có vay thì phải có trả. Điều đó là lẽ tất nhiên. Bởi nhân quả báo ứng là một chân lý phổ biến trùm khắp cả vũ trụ không vật nào thoát khỏi.

 

Phật tử hỏi: Nghiệp là gì mà khiến cho người ta đảo điên như vậy? Và tại sao phải đổ thừa cho nghiệp?

 

Vấn đề nhân quả nghiệp báo chúng tôi cũng đã có trả lời qua một vài câu hỏi trong 100 câu hỏi Phật Pháp tập 2. Phật tử muốn biết rõ hơn về vấn đề nầy thì nên xem lại quyển sách đó. Ở đây, tôi không muốn lặp lại nhiều những gì đã giải thích. Tuy nhiên, Phật tử đã hỏi thì tôi cũng xin trả lời một cách đại khái như sau:

 

Nghiệp, không có gì là viễn vông mơ hồ huyền hoặc khó hiểu, mà nó rất thực tế chi phối cả đời sống của chúng ta. Nghiệp nguyên tiếng Phạn là Karma, Trung Hoa dịch là nghiệp, tiếng việt gọi là hành động tạo tác được lặp đi lặp lại nhiều lần thành thói quen. Nghiệp còn có các tên gọi khác như: tập khí, chủng tử v.v... Đã là thói quen, tất nhiên, nó có thói quen tốt và thói quen xấu. Nói cách khác là nghiệp lành hoặc nghiệp dữ. Động cơ tạo thành thói quen lành, dữ, tốt, xấu là do ba nghiệp: "Thân, Ngữ, Ý". Chính do ba chỗ tạo thành thói quen nầy mà đời sống của chúng ta có những biến đổi xấu, tốt, lành, dữ khác nhau. Nếu tạo thành thói quen tốt thì kết thành quả báo tốt. Ngược lại, nếu chúng ta gây nghiệp xấu ác, thì chúng ta phải lãnh lấy quả báo xấu ác. Phải chịu nhiều điêu đứng thất điên bát đảo như Phật tử đã nói.

 

Thói quen là do chính chúng ta gây ra và nó trở lại có một sức mạnh phi thường (nghiệp lực) lôi cuốn chi phối đời sống của chúng ta. Như thói quen cờ bạc, rượu chè, hút xách, chơi bời đàn điếm v.v... khi những thói quen nầy đã trở thành ghiền nặng rồi thì gây cho ta lắm điều đau khổ hệ lụy. Không những đau khổ cho bản thân mình mà còn gây họa hại cho gia đình và xã hội nữa. Trong nhà Phật có nêu ra hai loại thói quen: cũ và mới. Thói quen cũ lâu đời (căn bản chủng tử) nó có gốc rễ sâu xa thật khó trừ khó đoạn. Như những thói quen tham, sân, si, mạn, nghi v.v... Những thói quen nầy chúng có một sức mạnh phi thường làm chủ chi phối đời ta. Nếu nghe theo mệnh lệnh của nó sai khiến thì, chúng ta tạo ra vô số nghiệp ác. Từ đó, chúng ta phải bị trầm luân sa đọa thọ khổ.

 

Thói quen mới (tân huân chủng tử) đây là những thói quen do ta bị ảnh hưởng bởi môi trường xã hội mà chúng ta đang sống. Tục ngữ có câu: "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng". Nếu ảnh hưởng bởi môi trường tốt thì, chúng ta có những thói quen lành mạnh tốt. Như thói quen đọc sách, thể dục, thể thao, từ thiện, đi chùa, bố thí, cúng dường, lạy Phật, tụng Kinh, niệm Phật v.v... Do chúng ta huân tập những thói quen tốt nầy lâu ngày, nó trở thành có một sức mạnh rất lớn. Chính nó là nguyên động lực thúc đẩy dẫn dắt đời ta đi trên con đường giác ngộ hành thiện. Kết quả nó sẽ mang đến cho ta nhiều điều tốt đẹp trong hiện tại và mai sau.

 

Nói tóm lại, nghiệp quả là do chúng ta gây ra và chúng ta phải chịu trách nhiệm nhận lấy, không đổ thừa đổ tháo cho ai cả. "Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa" (Truyện Kiều).

 

Tại sao phải đổ thừa cho nghiệp? Đổ thừa là một căn bệnh phổ thông triền miên của con người. Không ai chịu nhận lấy trách nhiệm về mình. Dù mình gây ra tội lỗi đầy trời nhưng cũng không bao giờ chịu nhận lấy. Thường thì hễ cái gì có lợi, tốt đẹp là cái đó thuộc về mình, còn cái gì xấu xa bất lợi thì đổ thừa cho kẻ khác. Những hành động sai trái khi việc đó xảy ra thì, người ta hay đổ thừa trút hết cho nghiệp. Nếu nhìn hạn cuộc những việc xảy ra trong hiện tại, thì đây quả là một cách chạy tội không dám nhìn nhận cái kết quả do chính hành động bất thiện của mình gây ra. Tuy nhiên, nếu nhìn bằng cặp mắt nhân quả báo ứng xuyên suốt qua ba thời kỳ: quá khứ, hiện tại và vị lai thì, chúng ta sẽ có một cách nhìn khác. Trên đời, không có một việc gì xảy ra mà không có cái nguyên nhân của nó. Nếu không có lửa thì làm sao có khói? Nhìn khói là ta biết có lửa. Nhìn quả là ta biết có nhân. Nếu không có nghiệp nhân thì không bao giờ có nghiệp quả. Không gieo hạt ớt thì làm sao có trái ớt? Đó là nói theo nguyên tắc luật định của nhân quả. Tuy nhiên, nếu nói một cách nghiêm khắc tỉ mỉ hơn thì, chỉ có một hạt ớt đơn thuần không thể nào tạo thành có trái ớt được. Mà nó còn đòi hỏi nhiều yếu tố trợ duyên tốt khác nữa. Bởi nhân quả được đặt định trên chiều thời gian. Cho nên việc đổ thừa cho nghiệp cũng không hẳn là hoàn toàn vô lý. Có những nghiệp nhân gây ra vì trải qua thời gian lâu xa nên chúng ta không biết, nay đến thời điểm chín mùi tất nhiên là ta phải nhận lấy. Duy Biểu học gọi đây là quả Dị thục.

 

Việc đổ thừa cho nghiệp mới nghe qua như là một cách chạy tội, không dám nhận lãnh hành động xấu ác hay nghiệp quả do chính mình gây ra, nhưng xét cho kỹ thì đó là một sự thật. Điều đáng nói và đáng trách ở đây là, những gì mà mình đã gây ra, dám làm thì phải dám chịu, phải can đảm thành thật mà nhận lấy trách nhiệm, quyết không đổ thừa đổ trút cho ai cả. Có thế, thì mình mới ăn năn hối cải và quyết tâm vươn lên làm mới lại cuộc đời. Đó không phải là hành động khiếp nhược mà là hành động dũng mãnh cang cường có ý thức. Không phải đổ thừa cho nghiệp rồi mình buông xuôi tới đâu hay đó. Mà mình có thể chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt và quyết không đầu hàng buông xuôi theo nghiệp. Không khéo là chúng ta rơi vào chủ thuyết Định mệnh phó mặc cho Định mệnh an bày. Nghiệp, trong đạo Phật không chấp nhận và cho phép chúng ta phải phó mặc buông xuôi như thế.

 

Kính chúc Phật tử hành động sáng suốt theo lý nhân quả để có được một cuộc sống tràn đầy an lạc hạnh phúc.

 

28. Đã giết hại sinh vật nay phóng sanh có bù trừ hết tội không?

 

Hỏi:  Kính thưa thầy, nếu như trước kia con đã lỡ giết gà, giết vịt, bây giờ mua chim hay con vật nào đó để phóng sanh. Như vậy có bù đắp hết cái tội mình giết hại sinh vật không? Bởi con nghe có người nói, nếu mình phóng thích một con chim, là trừ một con gà lúc trước mình làm thịt, đỡ tội một con. Người nói như vậy có đúng không? Kính mong thầy hoan hỷ giải đáp cho con hiểu.

 

Đáp: Căn cứ theo luật nhân quả đã có vay tất phải có trả. Tuy nhiên, việc trả quả còn có nặng, nhẹ khác nhau, tùy theo nghiệp nhân mà mình đã gây tạo. Xét về nghiệp sát sanh hại vật, trong Kinh có nêu ra ba cách giết: Tự mình giết hại, hoặc bảo hay xúi giục người khác giết hại, hoặc thấy người khác giết một sinh vật nào đó rồi mình a dua vui theo. Cũng có những trường hợp hoặc là cố sát hay vô tình. Nếu cố tâm sát hại chúng sanh thì phải trả quả báo nặng. Nếu vô tình lỡ gây ra sát hại, vì một hoàn cảnh bất khả kháng nào đó, mà không thể cưỡng lại, thì thọ quả báo nhẹ hơn.

 

Trường hợp của Phật tử như Phật tử đã nói là đã lỡ giết gà, giết vịt, lỡ giết chớ không phải là cố ý giết, theo luật Phật dạy, tội lỗi nầy nhẹ, phải thành tâm sám hối thì sẽ hết tội. Tuy nhiên, việc Phật tử mãi vật phóng sanh là điều rất tốt. Nhưng không phải vì thế mà có thể đền bù lại những tội lỗi giết hại trước kia mà Phật tử đã gây ra. Luật nhân quả không có vấn đề đền bù hay thay thế. Ai ăn nấy no, ai học nấy biết chữ. Ai gây người đó trả. Không ai có thể thay thế hay đền bù cho ai được. Việc phóng sanh là Phật tử có phước. Như trên chúng tôi đã có nói rõ về ý nghĩa của việc phóng sanh nầy. Phóng sanh là một hành động tích cực hành thiện phước báo vô lượng. Cứu một mạng sống thì phước không gì bằng. "Dẫu xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người". Không phải mình phóng thích một con chim mà trừ đi một con gà xưa kia mình đã giết. Con vật nào đều có mạng sống riêng của con vật đó. Không thể thả con nầy mà thay thế tội giết hại con kia. Nếu thế thì luật nhân quả trả vay không công bằng. Còn người nào đó nói như thế là vì họ chưa hiểu rõ luật nhân quả. Nếu vì chưa hiểu thì nên tìm hiểu cho rõ, chớ đừng có nói càng bướng như vậy gây cho người khác hiểu lầm mà phải mang trọng tội! Đây là một trọng tội vì phá hoại luật nhân quả. Xưa kia, có một vị Tăng, vì nói sai một câu nói về luật nhân quả mà phải bị đọa năm trăm kiếp làm chồn. Có người hỏi: "Bậc đại tu hành có rơi vào nhân quả không?" Ông trả lời là không rơi vào nhân quả. Do câu trả lời nầy mà Ông phải chịu quả báo đau khổ trải qua thời gian rất lâu xa. Cho nên, chúng ta phải cẩn thận ở nơi lời nói. Điều gì mình chưa biết, chưa hiểu, thì nên cố gắng tìm hiểu học hỏi. Nói sai một ly sẽ đi ngàn dặm. Hại mình đã đành mà còn gây tổn hại cho người khác nữa. Là Phật tử chúng ta nên ý thức cẩn thận và tránh xa điều đó.

 

Tóm lại, việc giết hại sinh vật dù dưới bất cứ hình thức nào cũng đều có tội cả. Tuy nhiên, tùy theo cường độ giết hại do cố tình hay vô tình mà tội lỗi gây ra có nặng nhẹ khác nhau. Nhưng dù nặng hay nhẹ cũng đều là có tội cả. Đã có tội thì phải nên thành tâm sám hối. Tội nặng sẽ chuyển thành tội nhẹ. Còn tội nhẹ, thì sẽ được tiêu trừ. Còn việc phóng sanh đó là có phước. Phước nầy Phật tử sẽ hưởng trong hiện đời và đời sau. Có phước thì hưởng, có tội thì phải trả, không thể cái nầy đền bù thay thế cho cái kia được. Mình gieo xuống đất hạt giống nào thì nó sẽ mọc lên hạt giống đó. Không thể gieo hạt giống cải mà lên hạt ớt được. Nhân nào quả nấy là thế.

 

Kính mong Phật tử ý thức đến luật nhân quả mà cố gắng gia công hành thiện tích phước làm lợi ích cho mình và người vậy.

 

29. Niệm Phật lớn tiếng và niệm Phật nhỏ tiếng hoặc niệm thầm, công đức có bằng nhau không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, con có nghe nói mình niệm Phật lớn tiếng thì công đức sẽ nhiều hơn là niệm nhỏ tiếng và niệm Phật nhỏ tiếng thì công đức lại lớn hơn niệm thầm. Con không biết điều nói đó có đúng như vậy không? Kính mong thầy giải đáp cho chúng con hiểu. Thành kính cảm ơn thầy.

 

Đáp: Nếu nói một cách tổng quát thì, niệm Phật bằng cách nào cũng đều có công đức cả. Tuy nhiên, với điều kiện là hành giả phải nhiếp tâm thiết thiệt niệm Phật. Trong Kinh có nêu ra bốn cách niệm Phật: Cao thinh niệm (niệm Phật lớn tiếng), đê thinh niệm (niệm Phật nhỏ tiếng), kim cang niệm (niệm Phật se sẽ ở môi) mặc niệm (niệm Phật thầm ở trong tâm). Bốn cách nầy tùy hành giả linh động uyển chuyển mà có thể thay đổi. Theo kinh nghiệm của chư Tổ thì:

 

- Cách niệm Phật thứ nhứt, là hành giả niệm lớn tiếng lâu thì dễ bị tổn hơi và mau mệt, nhất là người trọng tuổi. Tuy nhiên, nó được cái lợi là dễ trừ được vọng niệm và bệnh hôn trầm ngủ gục. Vì khi niệm lớn tiếng, miệng niệm, tai nghe, chú tâm theo dõi nên nó lấn át được vọng niệm. Vọng niệm khó phát sanh. Đây cũng chỉ là một phương tiện khác nào như lấy đá đè cỏ thôi.

 

- Cách niệm thứ hai, là hành giả niệm Phật nhỏ tiếng. Cách niệm Phật nầy được cái lợi là ít bị tổn hơi và có thể niệm được lâu hơn. Nhưng vọng niệm cũng dễ xen vào.

 

- Cách niệm thứ ba, là hành giả áp dụng kim cang niệm. Nghĩa là chỉ niệm se sẽ ở môi. Cách niệm Phật nầy tuy không bị tổn hơi có thể niệm được lâu mà không cảm thấy mệt mỏi. Thế nhưng, nó có cái bất lợi là dễ bị hôn trầm, tức dễ ngủ gục.

 

- Cách niệm thứ tư, là hành giả chỉ niệm thầm trong tâm. Cách niệm Phật nầy chỉ có tự mình biết và được cái lợi là niệm được trong tất cả thời gian và nơi chốn. Không có hạn cuộc vào bất cứ nơi đâu. Trong tứ oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm đều niệm Phật được cả. Tuy nhiên, cách niệm Phật nầy hành giả phải dụng công tế nhị miên mật lâu ngày mới thành thói quen thuần thục được. Cách niệm Phật nầy, hành giả dễ mau được nhứt tâm hơn. Nhưng nó cũng dễ bị tán loạn lắm. Chỉ cần lơ là xao lãng một chút là vọng tưởng xen vào hoặc phóng tâm. Vì thế hành giả phải chú tâm lắm mới được.

 

Nói tóm lại, bốn cách niệm Phật trên, trong khi ứng dụng thì hành giả có thể tùy nghi linh động mà thay đổi cho thích hợp miễn sao tâm hành giả được an định là tốt.

 

Còn nói niệm Phật lớn tiếng thì có công đức nhiều hơn nhỏ tiếng và nhỏ tiếng thì công đức nhiều hơn niệm thầm v.v... Trước hết, thiết nghĩ, chúng ta cũng nên hiểu công đức là gì? Công đức theo đức Lục Tổ Huệ Năng nói trong Kinh Pháp Bảo Đàn thì, công đức là cái đức bên trong do diệt trừ phiền não mà có. Còn phước đức là cái đức bên ngoài do bố thí cúng dường mà được. Như vậy công đức và phước đức tuy có khác trên hành tướng, nhưng cả hai đều phải tu. Tuy nhiên, công đức bao giờ cũng quan trọng hơn. Mục đích của việc niệm Phật là cốt để tiêu trừ phiền não. Nếu niệm Phật mà phiền não không giảm bớt thì đó là niệm sai, không đúng với chủ đích của việc niệm Phật. Như vậy trong lúc hành giả niệm Phật đều có lợi cả hai: "Công đức và phước đức". Công đức là nhờ chú tâm vào câu hiệu Phật mà vọng niệm phiền não không phát sanh. Phước đức là do ba nghiệp thân, miệng, ý, trong lúc niệm Phật được thanh tịnh mà có. Như vậy, niệm Phật bằng cách nào mà phiền não vơi đi, tâm hành giả được an định sáng suốt thì, đó là hành giả niệm Phật đúng cách. Còn nếu bảo niệm Phật lớn tiếng thì có công đức nhiều hơn các cách kia, theo tôi, người nói như thế thì không được đúng lắm. không biết họ căn cứ vào đâu mà nói như thế? Tuy  trong Kinh có nói, niệm Phật lớn tiếng có mười công đức, nhưng không có nói là công đức nhiều hơn các cách niệm Phật khác. Không lẽ do niệm lớn tiếng bị hao hơi phí sức là có công đức nhiều hơn sao? Nếu niệm Phật lớn tiếng mà trong tâm thì nhớ nghĩ lung tung, không dính dáng gì đến câu hiệu Phật đang niệm cả, thử hỏi niệm như thế, có được công đức gì không? Vì niệm bằng cái tâm tán loạn thì công đức ở chỗ nào? Còn nếu niệm nhỏ tiếng hay niệm thầm mà hành giả được nhiếp tâm an định, vọng niệm không phát sanh, như vậy là công đức ít hơn niệm lớn tiếng chăng?

 

Tóm lại, niệm Phật có công đức nhiều hay ít, là do ở nơi tâm của hành giả có được an định hay không an định. Nếu hành giả chí thành tha thiết niệm Phật thì dù niệm bằng cách nào cũng đều có công đức và phước đức cả. Tuy nhiên, như trên đã nói, niệm Phật lớn tiếng thì được cái lợi là dễ trừ được vọng niệm và ít bị hôn trầm. Công đức là ở chỗ đó. Nhưng không phải ai niệm Phật lớn tiếng cũng được như vậy hết đâu. Điều nầy, còn tùy mỗi hành giả do chỗ dụng công tu hành tinh tấn hoặc giải đãi, chánh niệm hoặc thất niệm ... mà có ra sự khác biệt.

 

Kính chúc Phật tử luôn được dồi dào sức khỏe, tinh cần niệm Phật mau được thành tựu nhứt tâm bất loạn.

 

30. Vì bảo vệ sức khỏe nên phải dùng thuốc giết chuột như thế có tội không?

 

Hỏi:  Bạch thầy, nhà con có một con chuột, hằng đêm nó chạy sục sạo con không ngủ được. Và vì muốn bảo vệ sức khỏe chung cho gia đình, con sợ nó bò vô đồ ăn, nên con mua thuốc để cho nó ăn. Nếu nó chết, con có bị phạm tội sát sanh không? Mong thầy giải đáp cho con được rõ, con rất lo sợ. Con xin cảm niệm ơn thầy.

 

Đáp: Sống ở đời thật khó bảo vệ được lưỡng toàn lợi lạc cho cả hai. Mọi sinh hoạt cho nhu cầu sự sống, tất cả cũng chỉ vì mình. Cái gì có lợi cho mình thì được. Hễ mình được thì kẻ khác phải mất. Mình thắng thì người khác phải thua. Khôn sống dại chết, mạnh được yếu thua. Đó là luật tắc của sự sống xưa nay. Nói thế, để thấy rằng, vì muốn bảo vệ sức khỏe cho Phật tử và gia đình, nên Phật tử phải mua thuốc chuột để thuốc cho nó chết. Phật tử hỏi như thế có phạm tội sát sanh không? Đã giết một sinh vật bằng cái tâm cố sát thì thử hỏi làm sao tránh khỏi tội báo? Nếu Phật tử hành động như thế, thì phải chấp nhận tội lỗi quả báo. Theo luật nhân quả đã có vay thì phải có trả. Đã giết một mạng sống, dù mạng sống đó nhỏ như con chuột cũng phải trả quả mà thôi. Bởi muôn loài dù lớn hay nhỏ tất cả cũng đều có mạng sống và quý trọng mạng sống như nhau. Chính vì thế, nên trong năm giới cấm Phật chế cho người Phật tử tại gia giữ gìn thì, giới không sát sanh hại vật là đứng đầu. Năm giới cấm còn được gọi là năm nguyên lý đạo đức nhân bản của con người. Tôn trọng và bảo vệ sự sống đó là theo lẽ công bằng. Mỗi loài tuy có mỗi nghiệp thức khác nhau, nhưng không có loài nào mà không ham sống sợ chết. Suy bụng ta ra bụng người, mình biết ham sống thì người khác hay loài vật khác cũng đều như thế. Vì bảo vệ cung phụng sự sống của mình nên người ta không chút từ tâm nỡ ra tay giết hại các loài động vật khác để ăn. Nhưng người ta quên rằng: "Ngỡ rằng ngon miệng béo thân, nào ngờ oan nghiệt xoay vần trả vay".

 

Trở lại vấn đề trên, Phật tử rất lo sợ hành động giết con chuột sẽ bị trả quả báo. Khi đã giết, Phật tử dù có lo sợ thì quả báo cũng không thể tránh khỏi. Nếu Phật tử đã hối hận việc sát hại của mình, thì không có cách nào hơn là Phật tử phải thành tâm sám hối. Đồng thời Phật tử có làm được công đức hay phước đức gì thì nên hồi hướng cầu nguyện cho nó chóng được siêu thoát. Việc làm nầy Phật tử vừa có thêm lợi lạc cho mình và cũng vừa lợi lạc cho những sinh linh mà mình đã giết hại. Hơn là Phật tử cứ mãi băn khoăn lo sợ thì thử hỏi có được lợi ích gì? Thay vì lo sợ Phật tử nên cố gắng tích cực hành thiện như bố thí hay mãi vật phóng sanh thì Phật tử sẽ được lợi lạc có thêm nhiều phước đức hơn. Mình giết một con vật mà cứu sống được nhiều con vật, thì những con vật đó đội ơn lòng tốt của Phật tử biết bao.

 

Lần sau, tôi xin đề nghị với Phật tử thay vì thuốc nó chết, thì mình có thể mua một loại thuốc nào đó mà khi chúng nó nghe mùi thuốc chịu không nổi chúng nó phải bỏ đi chỗ khác thôi. Như vậy là Phật tử tránh được cái tội sát hại sinh vật vậy.

 

Kính chúc Phật tử và gia đình luôn có được niềm an vui hạnh phúc trong cuộc sống.

 

31. Sự tôn thờ khác tôn giáo trong nhà có nên không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, con có một thắc mắc ưu tư mà lâu nay con cảm thấy hơi khó chịu. Vì trong gia đình con có sự khác biệt tôn giáo, có người theo đạo Công giáo, có người theo Phật giáo và có người chỉ biết thờ cúng ông bà, họ nói là theo đạo ông bà. Vì lý do đó, nên trong nhà có nhiều bàn thờ khác nhau. Con thì thờ Phật, người nhà của con thì thờ đức Mẹ. Nghĩa là hai bàn thờ khác nhau. Nhưng không hiểu sao có người đến nhà con, thì họ nói không nên thờ như thế. Vì không thể thờ hai vị giáo chủ như vậy được, tức là có hai giáo hội tương phản nhau. Vì thế, nên con rất băn khoăn thắc mắc không biết thờ như vậy có đúng không? Và có lỗi gì sai trái không? Kính xin thầy cho con ý kiến làm thế nào mới đúng.

 

Đáp:  Trước hết xin được minh định chánh danh. Tôi xin đề nghị với Phật tử không nên dùng hai chữ "Công giáo" mà nên dùng từ ngữ Thiên Chúa giáo hay Gia Tô giáo hoặc Ky Tô giáo thì có lẽ đúng hơn. Bởi hai chữ Công giáo chỉ thấy phát nguyên từ thời chế độ Đệ nhất cộng hòa do Ông Ngô Đình Diệm cai trị mới sử dụng. Vì Ông cho rằng, chỉ có đạo Thiên Chúa mới là tôn giáo chung cho mọi người. Điều nầy là trái với truyền thống của các tôn giáo hoặc đạo giáo có mặt lâu đời khác trên đất nước Việt Nam, nhất là truyền thống lâu đời của đạo Phật. Lịch sử đã chứng minh cho chúng ta thấy rất rõ điều đó. Gọi như thế là không tôn trọng truyền thống của các tôn giáo khác.

 

Sự khác biệt tôn giáo trong gia đình, đó là chuyện bình thường không có gì đáng nói. Đó là quyền tự do chọn lựa theo niềm tin của mỗi người. Điều quan trọng đáng nói ở đây là, những người khác tín ngưỡng tôn giáo ở trong một gia đình như Phật tử đã nói, có được hòa thuận, yêu thương, cảm thông và tôn trọng niềm tin tôn giáo cùng việc thờ cúng với nhau hay không? Và việc thờ cúng trong nhà có gì lấn cấn xảy ra không tốt đẹp hay không? Nếu như những việc nầy không có xảy ra thì Phật tử đâu cần phải quan tâm đến những gì mà người khác đã nói. Có thể những người thân trong gia đình của Phật tử vì một hoàn cảnh hay lý do đặc biệt nào đó nên mới có việc tin theo và thờ phụng như thế. Chỉ vì Phật tử không muốn nói rõ ra đó thôi. Còn việc người nào đó nói như thế, đó là theo quan niệm khách quan của họ. Vì họ thấy Phật tử thờ cúng như vậy có hơi lạ mắt. Thật ra, vì chúng ta còn sống trong vòng nghiệp thức tương đối, nên cái nhìn của chúng ta còn bị hạn cuộc cục bộ trong sự phân biệt hình tướng khác nhau. Mỗi tôn giáo tuy có khác biệt về một số lễ nghi hình thức cũng như phẩm chất và phương tiện hành trì, nhưng luận đến chỗ cứu cánh thì không có gì sai khác. Phật hay Chúa gì cũng cùng có chung một bản thể mà thôi. Điều quan trọng, là sự khác biệt đó trong gia đình của Phật tử có gì tranh cãi hơn thua chấp nhứt với nhau không? Nếu có, thì điều đó không nên. Đừng vì niềm tin của mình mà công kích chê bai niềm tin của kẻ khác. Đã thế, thì Phật và Chúa nhìn thấy cảnh tượng đó chắc chắn là các Ngài cảm thấy xót xa đau lòng lắm! Ngược lại, nếu mọi việc đều êm xuôi diễn tiến tốt đẹp, theo tôi, thì Phật tử không có gì phải bận tâm băn khoăn thắc mắc cả. Điều quan trọng là ở nơi mình và gia đình mình chớ không phải ở nơi người khác. Tại sao mình phải quan tâm đến người khác nói mà không chịu nhìn lại mình? Nếu mình xét thấy không có gì sai trái lỗi lầm thì thôi.

 

Tóm lại, việc thờ phụng của Phật tử cũng không có gì lỗi lầm sai trái. Chỉ sai trái là đừng vì chỗ khác niềm tin hay thờ cúng mà gây ra sự bất hòa cãi vã tranh chấp với nhau làm mất đi tình thân thương hòa khí thuận thảo trong gia đình. Đó là điều nên tránh đừng để cho sự việc đó xảy ra không tốt đẹp. Mọi người cần phải tôn trọng niềm tin và việc thờ cúng với nhau, vì đó là tín ngưỡng thiêng liêng của mỗi người vậy.

 

Kính chúc Phật tử luôn sống trong tinh thần Phật dạy giữ sự hòa khí yêu thương, thông cảm và hỷ xả, vạn sự đều an lành tốt đẹp.

 

32. Niệm Phật và trì thêm chú cũng như quỳ lạy Phật có lỗi không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, trong nhà con có thờ Đức Phật Thích Ca, Đức Phật Di Đà và Bồ Tát Quan Thế Âm. Mỗi sáng con tụng kinh niệm Phật, sau nầy con có niệm thêm chú của Phật Dược Sư để cầu cho tiêu trừ bệnh tật. Bạch thầy như thế có được không? Chân và tim con đau, nên con chỉ quỳ lạy Phật có được không? Đồng thời, lúc nào chân đau nhiều thì con đứng lên đi kinh hành ở ngoài vườn và chỉ niệm Phật nhỏ tiếng, như thế có được không? Kính mong thầy từ bi chỉ dạy cho con làm sao mới đúng?

 

Đáp: Việc tụng kinh, niệm Phật của Phật tử như thế là điều rất tốt, tôi xin hết lòng tùy hỷ tán dương công đức. Phật tử nói, sau nầy Phật tử có trì thêm Chú Dược Sư để nguyện cầu tiêu trừ tật bệnh, điều đó cũng không có gì là sai trái. Tụng kinh, niệm Phật, trì Chú, đó là điều căn bản mà bất cứ người Phật tử nào thiết tha trong việc tu hành cũng đều phải hành trì. Tuy nhiên, theo lời Phật Tổ dạy, trong khi tu tập, chúng ta nên chọn cho mình một pháp môn chánh để hành trì. Vì có chuyên nhất thì tâm ta mới dễ được an định hơn. Như Phật tử chọn niệm danh hiệu Phật A Di Đà là phần chánh yếu, còn tụng kinh hay trì chú chỉ là phần phụ thuộc. Thường thì Phật tử chúng ta phần nhiều là  tạp tu hơn là chuyên tu. Tạp tu là pháp môn nào cũng tu hết. Thiền, Tịnh, luật, mật, giáo v.v... đều tu cả. Như niệm Phật cũng muốn niệm nhiều danh hiệu Phật. Vì Phật tử nghĩ rằng niệm nhiều vị Phật thì được phước nhiều. Do đó, mà sự tu tập của chúng ta khó đạt được kết quả mau chóng.

 

 Theo lời Phật Tổ dạy, chỉ cần niệm một câu danh hiệu Phật A Di Đà là tóm thâu đầy đủ tất cả. Bởi danh hiệu Phật A Di Đà còn có nghĩa là Vô lượng công đức. Người đời thường nói: "Nhất nghệ tinh nhất thân vinh". Chỉ cần chuyên làm một nghề thì nó mới tinh thuần xuất sắc và đạt hiệu quả cao. Còn làm nhiều nghề quá thì vừa cực thân xác mà kết quả cũng chẳng đạt là bao. Vì vậy, muốn đạt được kết quả cao, thì Phật Tổ khuyên chúng ta nên chọn cho mình một pháp môn tu tập thuần nhất không tạp, tùy theo căn cơ trình độ sở thích của mình mà chuyên hành trì. Bởi chúng sanh có nhiều căn cơ chủng tánh khác nhau, nên Phật mới nói ra có nhiều pháp môn sai biệt. Nhưng pháp môn nào cũng nhắm thẳng đến tiêu đích giác ngộ và giải thoát cả. Đó là một lộ trình duy nhất mà tất cả hành giả tu Phật đều phải trải qua.  

 

Trở lại câu hỏi của Phật tử, Phật tử hỏi: Mỗi sáng Phật tử tụng Kinh niệm Phật, sau nầy Phật tử có niệm thêm Chú Dược Sư để cầu cho tiêu trừ bệnh tật, như thế có được không?

 

Xin thưa ngay là được, không có gì sai trái. Phật tử cứ yên tâm mà nỗ lực hành trì. Tuy nhiên, tôi thành thật khuyên Phật tử nên ý thức và nhận định cho thật rõ: việc cầu nguyện Phật lực gia hộ, cho được tiêu trừ tật bệnh, đó là điều rất tốt nên làm. Thế nhưng, không phải vì sự cầu nguyện đó mà Phật tử sanh tâm ỷ lại hoàn toàn ở nơi Phật và Bồ tát gia hộ. Bởi Phật, Bồ tát chỉ gia trì khi nào mình phải hết lòng thành tâm tha thiết tu niệm. Bệnh tật là kết quả do nghiệp nhân sát sanh hại vật của mình trong nhiều đời hoặc hiện đời mà ra. Do đó nên hôm nay mình mới nhận lấy quả báo bệnh tật khổ đau. Tùy theo nghiệp nhân sát hại nặng nhẹ mà trả cái quả báo nặng nhẹ khác nhau. Nhẹ thì sám hối mau hết tội, còn nặng thì phải trả quả báo nặng hơn. Nếu mình biết sám hối, tu hành tạo thêm nhiều phước đức thì sẽ chuyển nghiệp báo nặng thành nghiệp báo nhẹ. Nhưng dù nặng hay nhẹ gì cũng đều phải trả. Đó là luật nhân quả báo ứng rất công bằng một mảy may không hề sai chạy.

 

 Có người tụng Kinh, niệm Phật không phải để dứt trừ phiền não, mau được giải thoát, mà họ chỉ muốn van xin cầu khẩn Phật, Bồ tát ban cho họ cái nầy cái kia. Nếu họ được toại nguyện, thì họ cho Phật, Bồ tát rất linh thiêng, bằng trái lại, thì họ cho các Ngài là không linh. Đó là một quan niệm rất sai lầm mà người Phật tử nên tránh. Thay vì tụng Kinh, niệm Phật, trì Chú để cho tâm ta được an định thì chúng ta lại mong cầu đòi hỏi Phật Bồ tát ban cho đủ thứ.  Phật và Bồ tát các Ngài cũng phải nỗ lực chuyên cần tu tập trải qua nhiều gian khổ mới được thành tựu như thế. Chớ các Ngài đâu phải nhờ ai ban cho mà được đâu. Người Phật tử chơn chánh phải có quan niệm và đặt định niềm tin đúng đắn. Tu hành không nên hoàn toàn ỷ lại vào tha nhân, dù đó là Phật hay Bồ tát cũng thế. Tự lực là chánh mà tha lực là phụ. Phải có tự lực mới nhờ tha lực. Tha lực chỉ là phần trợ duyên giúp sức cho mình phần nào thôi. Cũng như mình phải hết lòng tha thiết niệm Phật, khi lâm chung thì Phật và Bồ tát mới tiếp rước mình. Tâm mình có an định thì mới cảm ứng đến tâm Phật.

 

Sự tu hành, niệm Phật cần nhứt là chúng ta phải lập chí bền tâm. Phải có lập trường kiên định dũng mãnh. Nếu Phật tử vì sức khỏe đau yếu, thì khi hành lễ nên tuỳ nghi linh động. Trường hợp Phật tử bị suy tim và chân yếu, đứng lên lạy xuống cảm thấy mệt mỏi đau nhức khó khăn, thì Phật tử quỳ lạy cũng không sao. Lễ nghi hình thức tuy là sự tướng bên ngoài nhưng nó cũng rất quan trọng. Nếu chúng ta chưa được thấy tánh, thì chớ nên khinh thường sự tướng. Người tu hành Sự và Lý phải dung thông, không nên ngăn trệ một bên. Đối với căn cơ trình độ và nghiệp chướng sâu dày của chúng ta, thì chúng ta nên giữ phần sự tướng để tu trì. Như tụng Kinh, trì Chú, lễ bái, niệm Phật v.v... chúng ta phải gia công nỗ lực hành trì. Tuy nhiên, như trên đã nói, chúng ta cần chọn cho mình một pháp môn tu thích hợp để ngày đêm gia công chuyên tâm tu tập. Nhờ đó mà nghiệp chướng chóng tiêu trừ và chóng mau được giác ngộ và giải thoát.

 

Điều quan trọng là trong khi hành trì, chúng ta không nên quá câu nệ vào hình thức mà phải khéo léo uyển chuyển linh động sao cho phù hợp với sức khỏe và hoàn cảnh của mình. Trong khi hành lễ Phật tử cũng cần nên thay đổi những động tác: đi, đứng, quỳ và ngồi cho thích hợp. Việc đi kinh hành và niệm Phật nhỏ tiếng của Phật tử đó là điều rất tốt. Như đã nói, tùy theo sức khỏe của Phật tử mà linh động thay đổi không có gì lỗi lầm sai trái cả. Trong bốn động tác kể trên, Phật tử tùy nghi mà thay đổi. Điều quan trọng trong khi hành lễ là tâm hành giả phải có an lạc, thoải mái, nếu không thì sự thật hành của chúng ta sẽ không đạt được kết quả như ý muốn.

 

Kính chúc Phật tử thân tâm thường an lạc, đạo niệm tinh chuyên, chóng viên thành Phật quả.

 

33. Thờ Phật và treo tượng Phật trong phòng ngủ có được không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, con có một vài điều thắc mắc, kính xin thầy hoan hỷ giải đáp dùm con.

1. Có người nói, mình thờ Phật trong phòng ngủ thì dù cho niệm Phật có đúng cách đi nữa cũng không được vãng sanh. Không biết có đúng như vậy không?

2. Trong phòng khách nhà con có thờ Phật A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Vương, Di Lặc và Phật Dược Sư, HT Tuyên Hóa, từ trái sang phải thứ tự như vậy. Không biết thờ như thế có sai trái gì không?

3. Vì ở phòng khách người nhà và khách tới lui sinh hoạt ồn ào, con không thể tụng niệm an tịnh được, nên con có thiết lập một bàn thờ khác nữa trong phòng ngủ, con hành trì tụng niệm lễ bái rất yên tịnh. Trong phòng ngủ của con có phòng tắm và chỗ thay đồ riêng biệt. Như vậy con có cái lỗi bất kính với Phật không?

4. Con rất thích chiêm ngưỡng hình tượng Phật, Bồ tát, nên trên đầu giường con ngủ có treo các hình tượng Phật và Bồ Tát để con chiêm ngưỡng, không biết như vậy có lỗi lầm gì không?

Con kính xin thầy giải đáp cho con được rõ những điều mà con đã nêu trên. Thành kính cảm ơn thầy nhiều.

 

Đáp: Phật tử đã nêu ra bốn câu hỏi, chúng tôi xin được lần lượt giải đáp qua từng câu hỏi một như sau:

 

1. Trong phòng ngủ mà mình thờ Phật, điều nầy theo các bậc Cổ Đức dạy thì không nên. Lý do, đã nói là phòng ngủ tất nhiên là không được thanh tịnh rồi. Cho nên, khi thờ Phật là chúng ta phải thiết trí một nơi thích hợp thật trang nghiêm thanh tịnh. Tổ Ấn Quang thường răn nhắc, người tu hành phải hết lòng cung kính đối với các bậc Hiền Thánh. Đối với chư Phật và Bồ tát, chúng ta phải hết sức cung kính. Càng cung kính thì ta càng tăng thêm phước đức. Còn tỏ ra khinh thường các Ngài thì chúng ta mang tội rất nặng. Chớ cho là những cốt tượng Phật, giấy mà ta không kính trọng. Bởi đó là những hình tượng tiêu biểu qua những công hạnh đức độ cao tột mà người ta tạc tượng tôn thờ. Vì thế, là Phật tử chúng ta phải hết lòng quy hướng tôn kính các Ngài.

 

Người nào đó cho rằng, nếu mình thờ Phật trong phòng ngủ dù mình niệm Phật có đúng cách đi chăng nữa, thì cũng không được vãng sanh. Lời nói nầy hoàn toàn là không hợp lý. Bởi việc thờ Phật và việc niệm Phật là hai việc khác nhau. Việc thờ Phật là hình thức bên ngoài để chúng ta nương đó mà chiêm ngưỡng hành trì lễ bái. Bởi khi nhìn thấy tượng Phật tướng hảo quang minh, nụ cười hoan hỷ của các Ngài lòng ta cảm thấy an vui thanh thoát nhẹ nhàng, bao nhiêu phiền não đều tiêu tan như mây khói. Tuy nhiên, chỉ trong giây phút đó thôi, chớ không phải suốt cả đời. Đó là nhờ tác động ảnh hưởng bởi tấm lòng quý kính thiết tha của ta đối với chư Phật và Bồ tát. Phật bên ngoài chỉ có tác dụng trợ duyên nhằm để thức nhắc cho Phật tâm của chúng ta sống dậy. Bởi trong tâm ta cũng sẵn có ông Phật và chính ông Phật nầy mới là ông Phật thiệt. Còn ông Phật bên ngoài chỉ là giả tướng, tuy là giả tướng nhưng nếu không có các Ngài đánh thức thì làm sao chúng ta biết được mình sẵn có ông Phật thiệt. 

 

Còn niệm Phật là cốt để diệt trừ phiền não và để thành Phật như các Ngài. Niệm Phật là niệm ở nơi tâm. Chớ không phải niệm ở nơi cốt tượng. Vì tâm và Phật đâu có sai khác. Phật thành Phật là thành ở nơi tâm, ngoài tâm không có Phật. Vì vậy nên khi ta nhiếp tâm thành ý niệm Phật, lâu ngày thuần thục, cho đến khi tâm ta được thuần nhứt, không niệm mà vẫn tự niệm, được vậy, thì lo gì mà không được vãng sanh về Cực lạc. Hai chữ vãng sanh, chúng ta chớ có hiểu lầm. Thường khi nói đến vãng sanh thì người ta nghĩ ngay đến vãng sanh về Cực lạc. Hiểu thế, thì chưa được đúng lắm. Bởi sau khi lâm chung, ai cũng phải vãng sanh cả. Nhưng còn phải tùy nghiệp mà vãng sanh. Vãng là qua, sanh là sanh ra. Có thể ta sanh ra nhiều cảnh giới khác. Tùy nghiệp nhân mà có ra nghiệp quả. Nhân không niệm Phật thì làm sao vãng sanh về Cực lạc? Nếu muốn vãng sanh về Cực lạc, thì hành giả phải thiết thiệt niệm Phật như đã nói. Thành ra nói cho đủ là phải nói vãng sanh về Cực lạc. Nếu Phật tử niệm Phật đúng cách như lời Phật Tổ dạy thì chắc chắn Phật tử sẽ được vãng sanh về Cực lạc. Không phải vì thờ Phật trong phòng ngủ mà không được vãng sanh về Cực lạc như người đó nói.

 

2. Phật tử thờ như thế, đối với chư Phật và Bồ tát ngang nhau thì không sao, nhưng thờ Hòa thượng Tuyên Hóa ngang hàng với Phật và Bồ tát, tôi nghĩ là không được đúng lắm. Đối với HT Tuyên Hóa tuy ngài là một bậc chơn tu, nhưng ngài không thể so với Phật và Bồ tát được. Nếu thờ đúng cách, thì Phật tử nên thờ HT Tuyên Hóa ở tầng thấp hơn Phật và Bồ tát. Bởi chư Tổ người ta không thể thờ ngang hàng với chư Phật và Bồ tát được.

 

Nhân đây, tôi xin nói rõ hơn về vấn đề nầy để Phật tử hiểu thêm. Theo như Phật tử nói, thì cách thờ Phật và Bồ tát của Phật tử tuy không có sai trái, nhưng phải nói là hơi nhiều. Thật ra mình chỉ thờ một hay hai tượng Phật và Bồ tát là đủ rồi. Tùy theo người tu theo pháp môn nào thì người ta thờ vị Phật hay Bồ tát đó cho thích hợp. Như người tu Thiền, thì người ta chỉ thờ duy nhất một hình tượng Phật Thích Ca Mâu Ni mà thôi. Còn người tu theo pháp môn Tịnh độ, thì chỉ thờ tượng Phật A Di Đà, hoặc không thì thờ tượng Tam Thánh (Di Đà, Quan Âm, Thế Chí)  hay thờ thêm thánh tượng Quan Âm. Vì Phật tử ở tại gia thờ như thế là đủ rồi.

 

 Phần nhiều Phật tử chúng ta tuy tu nhưng vẫn còn có lòng tham rất lớn. Ngay như thờ Phật, Bồ tát cũng muốn thờ cho nhiều. Vì thờ một vị không đủ sức gia trì cho mình được toại nguyện những gì mà mình mong muốn. Như thờ Phật Thích Ca là vì nghĩ đến công ơn giáo hóa của Ngài. Thờ Phật Di Đà là muốn sau khi lâm chung được Ngài tiếp dẫn về thế giới Cực lạc của Ngài. Thờ Bồ Tát Quan Thế Âm là để Ngài cứu khổ cứu nạn. Thờ Phật Dược Sư là để Ngài gia hộ cho mình khỏi bị bệnh tật đau yếu. Thờ Ngài Địa Tạng nếu lỡ có bị sa đọa vào địa ngục, thì có Ngài đến dẫn dắt ra khỏi chốn u minh ngục hình. Có người còn muốn thỉnh nhiều vị thờ thêm nữa, nhưng vì bàn thờ có hạn và khung cảnh chật chội. Chớ nếu không, thì có bao nhiêu vị đều thỉnh về nhà thờ hết. Đó là tâm lý thường tình của chúng ta. Thật ra, tâm lý đó cũng tốt, nhưng không cần thiết phải thờ nhiều vị như thế. Thờ một vị Phật là thờ tất cả chư Phật. Nhưng người ta lại không thích như vậy. Có người không những thờ nhiều vị Phật, Bồ tát không thôi, mà còn thờ luôn cả các vị thần linh khác. Nào là Thần tài, Thổ địa, Chúa tiên, Chúa sứ v.v... Vì chưa hiểu ý nghĩa của việc thờ Phật nên mới xảy ra tình trạng thờ nhiều như thế.

 

3. Như trên đã nói việc thờ Phật trong phòng ngủ là điều không nên, vì đó không phải là chỗ để mình tôn thờ. Dù cho có phòng tắm hay phòng vệ sinh riêng biệt gì đi nữa, mà thờ Phật hay Bồ tát trong phòng ngủ của mình là điều bất kính. Đã gọi là thờ thì phải thờ nơi chỗ trang nghiêm và thanh tịnh. Trong phòng ngủ có thể mình treo một ảnh tượng Phật giấy lồng trong khuôn kiếng rồi treo lên nơi chỗ thích hợp thì có thể được, nhưng với điều kiện là phải độc thân. Nếu như vợ chồng ngủ chung một phòng thì cũng không nên, dù treo hình tượng bất cứ nơi đâu trong phòng ngủ. Nếu trong nhà chưa có chỗ nơi thuận tiện để thiết lập bàn thờ, thì tôi đề nghị với Phật tử tạm thời vẫn thờ Phật ở phòng khách. Những lúc Phật tử niệm Phật thì ngồi niệm Phật trong phòng ngủ cũng được, nhưng khi tụng niệm cho có trang nghiêm thì Phật tử tụng kinh lễ bái nơi thờ Phật ở phòng khách. Phật tử có thể linh động sắp xếp giờ giấc sao cho thích hợp, mà không gây ra làm phiền người khác trong gia đình. Điều nầy nên tìm cách thương lượng và khéo sắp xếp với người nhà để Phật tử có thể hành trì theo tâm nguyện của mình.

 

4. Điều nầy, tôi đã nói ở phần trên. Nếu Phật tử chỉ ở một mình trong căn phòng thì không có gì trở ngại cả. Phật tử cứ treo hình tượng Phật hoặc Bồ tát trong phòng nơi nào mà Phật tử cảm thấy thích hợp nhứt. Mục đích là để Phật tử tiện bề chiêm ngưỡng, quán tưởng điều đó không có gì là sai trái lỗi lầm cả.

 

Kính chúc Phật tử luôn được an khỏe để tinh tấn niệm Phật tu hành cầu sanh Tịnh độ.

 

34. Không hiểu sao có chùa lại thờ thần tài?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, thường thì trong các chùa chỉ thờ Phật và Bồ Tát hoặc chư long thiên hộ pháp, chớ đâu có thờ thần tài thổ địa. Tuy nhiên, con thấy có chùa lại thờ ông thần tài, không hiểu tại sao lại thờ như thế? Kính xin thầy làm ơn giải thích cho con rõ. Cảm ơn thầy.

 

Đáp: Vần đề thờ thần tài và thổ địa, thì tôi đã có trả lời trong những câu hỏi ở trong 100 Câu Hỏi Phật Pháp tập một. Ở đây tôi không muốn lặp lại nhiều. Nếu Phật tử muốn biết rõ hơn về vấn đề thờ cúng nầy thì nên đọc lại quyển sách đó. Phật tử hỏi: "Tại sao có chùa lại thờ ông thần tài như thế?" Vấn đề nầy, thưa thật, từ trước tới nay tôi chưa thấy chùa nào mà thờ như thế cả. Lần đầu tiên, tôi mới nghe Phật tử hỏi về vấn đề nầy.

 

Nhân đây, tôi cũng xin thưa rõ để Phật tử khỏi phải lầm nhận. Vấn đề niềm tin, tôi luôn tôn trọng niềm tin của mỗi người. Vì mỗi người có mỗi quan niệm xây dựng niềm tin khác nhau. Tuy nhiên, dù bất cứ niềm tin nào mà không phù hợp với chân lý thì niềm tin đó không được gọi là Chánh tín. Việc thờ thần tài hay các vị thần nào khác đó là theo tập tục tín ngưỡng của dân gian. Rải rác trong các kinh điển của Phật giáo, đôi khi cũng có đề cập đến các vị thần. Như Kinh Địa Tạng cũng có nêu ra rất nhiều vị thần. Tuy nhiên, theo Phật giáo, quỷ thần cũng là một trong nhiều loài chúng sanh. Cho nên Phật dạy người Phật tử không được quy y với các vị quỷ thần. Người Phật tử sau khi quy y Tam bảo, trong nhà chỉ nên thiết lập một bàn thờ Phật và nếu có thờ thêm thì cũng chỉ thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ mà thôi. Ngoài ra không nên thờ bất cứ vị thần nào khác. Vì thờ như thế là trái với lời Phật, Tổ đã dạy. Đã chống trái, tất nhiên là mình đã có lỗi rồi. Nêu ra như thế để chúng ta thấy rằng, đối với người Phật tử tại gia mà Phật Tổ còn không cho thờ thần như thế, nói chi đến trong chùa.

 

Nếu quả thật có chùa nào đó thờ thần tài hay thổ địa như Phật tử đã nói thì, tôi xin thưa một cách khẳng quyết rằng, việc thờ đó là hoàn toàn sai lầm trái với kinh điển Phật dạy.

 

Thần tài là gì mà phải thờ? Có ai thấy thần tài chưa? Gốc gác của thần tài ra sao? Là người Phật tử chơn chánh khi tôn thờ một vị nào, ít nhất chúng ta cũng phải tìm hiểu về căn nguyên lai lịch xuất xứ của vị đó. Sở dĩ chúng ta thờ Phật, Bồ tát, hay các vị long thiên hộ pháp, không phải chỉ vì nghe đến oai danh uy nghiêm thần lực của các Ngài mà ta tôn thờ. Trước khi thờ vị nào chúng ta cũng cần phải biết rõ lịch sử lai lịch nguồn gốc của vị đó. Vị đó có liên quan và giúp ích lợi lạc thực tế gì cho đời sống con người. Nói rộng ra là cho tất cả chúng sinh. Đối với những vị có công ân sâu rộng lớn lao hy hiến cả cuộc đời để phụng sự làm lợi ích cho nhân quần xã hội, thì những vị đó quả đáng cho chúng ta kính cẩn quy hướng tôn thờ. Như chư Phật, chư Tổ và các bậc tiền bối tổ tiên ông bà cha mẹ v.v... Còn thần tài ta chỉ nghe tên thôi chớ chưa bao giờ biết rõ nguồn gốc lai lịch chi cả, thế mà ta vẫn thờ là sao? Nếu bảo rằng chùa nào đó mà thờ vị thần tài là chùa đó còn muốn ham phô trương làm giàu. Có nghĩa là muốn cho thần tài ủng hộ để cho mọi người đến cúng dường tiền bạc thật nhiều. Nếu chùa nào mà còn có quan niệm thờ như thế, thì tôi thành thật khuyên Phật tử nên lánh xa chùa đó. Vì chùa đó không phải tu hành theo Phật giáo vậy. Theo tôi, thì Phật tử nên kiểm chứng lại cho thật kỹ. Có đôi khi Phật tử lại lầm nhận hình tượng của Bồ Tát Di Lặc mà tưởng là Thần tài. Bởi hai hình tượng có đôi nét hơi giống nhau, nhất là phần bụng phệ. Tôi nghĩ, không có chùa nào mà lại thờ vị Thần tài cả.

 

Kính chúc Phật tử có đầy đủ trí huệ sáng suốt để phân biệt rõ chánh tà chân ngụy và luôn sống đúng theo Chánh pháp Phật dạy. 

 

35. Thọ giới Bồ tát có cần ăn trường chay không?

 

Hỏi:  Kính thưa thầy, con có ý muốn thọ giới Bồ tát, nhưng con nghe có người nói, thọ giới Bồ tát phải ăn chay trường, riêng con thú thật, vì lý do sức khỏe và công việc, nên chưa thể ăn chay trường được. Vậy xin hỏi con có thể thọ giới Bồ tát được không? Kính xin thầy cho con lời giải đáp.

 

Đáp: Vấn đề ăn chay, ăn mặn và sự lợi ích cũng như tai hại của nó, tôi cũng đã có trả lời qua một vài câu hỏi có liên quan đến vấn đề nầy. Tuy nhiên, riêng về câu hỏi của Phật tử, Phật tử chỉ nghe người ta nói, chớ không có cơ sở luận cứ chắc chắn. Đã nghe người khác nói thì làm sao quyết chắc được? Trong giới Bồ Tát tại gia được rút ra từ trong Kinh Ưu Bà Tắc giới gồm có sáu giới trọng và hai mươi tám giới khinh, trong đó không có giới nào nói, người thọ giới Bồ tát là bắt buộc phải ăn chay trường cả. Trong sáu giới trọng thì giới không được sát sanh hại vật là đứng đầu, cũng giống như năm giới cấm của người Phật tử tại gia vậy thôi. Như vậy không có ai sau khi thọ ngũ giới hay Bồ tát giới rồi lại bắt buộc phải trường chay cả. Tuy nhiên, nếu Phật tử giữ được trường chay thì rất tốt. Vì tránh được nhiều tội lỗi do việc sát hại sanh linh gây ra. Tự tay mình giết hại chúng nó thì tội lỗi đã đành, nhưng nếu mình ăn thịt chúng, theo như trong Kinh nói, thì mình cũng có tội báo. Chính vì vậy, nên Phật mới khuyên người Phật tử nên tránh sát hại sanh linh và không nên ăn thịt chúng nó. Đó là vì Phật sợ chúng ta phải thọ quả báo đau khổ mà thôi. Bởi có nhân thì phải có quả. Còn việc trả quả nặng hay nhẹ, đó là tùy theo nghiệp nhân sát hại nặng nhẹ của chúng ta. Nặng thì cố sát, nhẹ thì vô tình. Phật Tổ chỉ vì thương xót chúng ta không muốn cho chúng ta gây tạo nghiệp ác mà phải chịu quả báo trầm luân đau khổ. Chớ các Ngài đâu có bắt buộc chúng ta phải ăn trường chay hết đâu. Bởi căn tánh nghiệp duyên của mỗi chúng sanh đâu có giống nhau. 

 

Trở lại câu hỏi của Phật tử, trường hợp của Phật tử vì lý do sức khỏe cũng như công việc, nên Phật tử chưa có thể giữ trường chay được. Tuy không giữa được nhưng Phật tử vẫn có thể thọ Bồ tát giới không có gì trở ngại cả. Tuy nhiên, sau khi thọ giới Bồ tát rồi, tôi thành thật khuyên Phật tử nên cố gắng không ăn trường chay được thì cũng nên ăn chay kỳ. Vì Bồ tát là một con người giác ngộ. Bồ tát có hai nghĩa: Hữu tình giác và giác hữu tình. Lòng từ bi của các Ngài lúc nào các Ngài cũng thương xót chúng sanh. Không có vị Bồ tát nào làm cho chúng sanh phải đau khổ cả. Nếu thế,  thì còn gì gọi là Bồ tát?

 

 Chúng ta thọ giới Bồ tát có nghĩa là chúng ta có ý muốn tập tu theo công hạnh của các Ngài. Mục đích là để cho chúng ta sẽ trở thành một con người cao thượng giải thoát như các Ngài. Đã thế, thì chúng ta phải cố gắng tập tu làm theo những gì mà Bồ tát đã làm. Công hạnh cứu độ chúng sanh của Bồ tát thật không sao kể xiết, nhưng tóm lại có hai công hạnh mà nó bao gồm tất cả. Đó là: "Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh". Nghĩa là trên thì cầu thành Phật, dưới thì hóa độ tất cả chúng sanh. Chúng ta tu theo công hạnh của các Ngài thì chúng ta cũng phải noi theo tấm gương cao cả đó. Nghĩa là chúng ta cũng phải lập nguyện: Trên cầu thành Phật và dưới cứu độ muôn loài. Có như thế thì chúng ta mới trở thành một vị Bồ tát trong hiện tại và tương lai.

 

Tóm lại, nếu đủ cơ duyên thì Phật tử vẫn cứ thọ giới Bồ tát và sau đó thì Phật tử tập ăn chay kỳ được bao nhiêu ngày thì tốt bấy nhiêu. Thật ra ăn chay nếu ăn đúng cách và có dinh dưỡng thì sức khỏe của chúng ta tăng lên chớ không có sút giảm đâu mà sợ. Tuy nhiên, điều nầy còn tùy theo nghiệp duyên của mỗi người. Nhưng nếu Phật tử ăn thường thì sẽ quen dần. Một khi đã quen ăn chay rồi, bấy giờ nghe mùi thịt cá tanh hôi Phật tử sẽ chịu không nổi. Hiện nay ở các nước Tây phương mà cụ thể như ở Úc chẳng hạn, số người Tây phương ăn chay tăng lên rất nhiều, nhất là thành phần giới trẻ. Tại các thành phố lớn như Nữu Ước, Luân Đôn, Ba Lê, Zurich, Amsterdam v.v... thành phố nào cũng có những tiệm cơm chay. Theo thống kê mới đây cho biết, số người ăn chay trường ở Bắc Mỹ Châu nay vào khoảng hơn mười lăm triệu người. Nêu ra như thế, để Phật tử thấy rằng việc ăn chay ngày nay đã trở thành một thói quen rất tốt cho sức khỏe. Vì đó cũng còn thể hiện được đức hiếu sinh và văn hóa cao đẹp  của con người.

 

Kính chúc Phật tử sớm đạt thành sở nguyện.

 

36. Thọ giới Sa di vì lý do sức khỏe tự tu ở nhà có được không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, con năm nay đã hơn sáu mươi tuổi, sức khỏe kém, nhưng con muốn gieo trồng hạt giống xuất gia, vì vậy con muốn thọ giới Sa di và tu ở nhà không biết có được không? Nói ở nhà, nhưng con tạo cho mình có chỗ riêng biệt để tu, chớ không ở chung đụng trong gia đình. Như thế không biết có lỗi gì không? Kính mong thầy cho con lời khuyên. Con kính đội ơn thầy.

 

Đáp: Vấn đề xuất gia như tôi cũng đã có giái thích sơ qua ở mục 26 nói trên. Tuy nhiên, ở đây có điều khác biệt là, Phật tử có ý muốn xuất gia thọ giới Sa di và tu ở nhà. Phật tử tạo cho mình có chỗ riêng biệt để tu chớ không phải ở chùa. Phật tử hỏi như thế có được không? và có lỗi gì không?

 

Xin thưa, dĩ nhiên là được và cũng không có lỗi gì. Lý do là vì tuổi tác của Phật tử đã trên sáu mươi và sức khỏe kém. Chính vì thế nên Phật tử không muốn xuất gia tu ở chùa. Nếu ở chùa với tuổi cao và sức khỏe kém như thế, thì chỉ gây thêm gánh nặng lo lắng cho chùa. Do nghĩ thế nên Phật tử mới có ý định là tạo cho mình có một chỗ riêng biệt để tu. Điều nầy, tôi rất cảm thông qua ý nguyện thiết tha của Phật tử. Tuy nhiên, ở đây tôi cũng xin nói thêm về ý nghĩa của hai chữ xuất gia, rồi tùy đó mà Phật tử quyết định.

 

Như đã nói, hạnh nguyện của người xuất gia là một hạnh nguyện cao cả tuyệt vời, với ý chí là quyết thoát ly sanh tử khổ đau. Vì thế ý nghĩa của hai chữ xuất gia rất là cao thượng: xuất là ra, gia là nhà. Người xuất gia là phải ra khỏi ba ngôi nhà. Thứ nhứt, là ngôi nhà thế tục, tức là ngôi nhà lắm chuyện thị phi phiền toái rắc rối. Chớ không phải là ngôi nhà xây dựng bằng xi măng cốt sắt... Thứ hai, là ngôi nhà phiền não. Ngôi nhà nầy thật là khó khăn trăm bề không phải dễ dàng để thoát ra. Đòi hỏi người xuất gia phải lập chí kiên trì vững mạnh, phải dày công tu tập hướng nội, và nhất là phải thường xuyên quán chiếu lại chính mình, dùng thanh gươm trí tuệ sắc bén để tảo thanh lũ giặc phiền não. Có thế thì phiền não mới có thể vơi bớt đi phần nào. Bằng không, thì khó mà thoát ra. Thứ ba là ngôi nhà Tam giới, tức ba cõi: cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc. Có ra khỏi ba cõi mới không còn trôi nổi lặn hụp đắm chìm trong biển đời sanh tử đầy hệ lụy khổ đau  nữa.

 

Ở đây, vì phạm vi trả lời câu hỏi, nên tôi không thể giải thích rộng ra qua ba vấn đề nầy. Nêu ra ba ngôi nhà như thế, chắc Phật tử cũng biết là ngôi nhà nào quan trọng nhứt đối với người xuất gia rồi. Khi đã xuất gia thọ giới (dù là giới Sa di) Phật tử cũng đã trở thành một vị tu sĩ trong Phật giáo. Với hình thức là người đầu tròn áo vuông mà nếu không giữ tròn phẩm hạnh cao đẹp của người xuất gia thì đó mới là điều đắc tội. Tuy Phật tử có ý muốn gieo hạt giống xuất gia, nhưng nếu chỉ có hình thức không thôi, thì làm sao Phật tử tu hạnh xuất thế cho được? Đâu phải xuất gia chỉ đơn giản như thế. Như vậy thì còn gì là ý nghĩa cao cả và phẩm hạnh quý đẹp của người xuất gia? Vai trò và trách nhiệm của người xuất gia rất là lớn lao. Người xuất gia là người đứng đầu tàu của lịch sử truyền thừa là chúng trung tôn của đấng Điều Ngự. Là người phải thay Phật tuyên dương chánh pháp. Muốn thế, thì người xuất gia cần phải nghiên tầm học hỏi giáo pháp của Phật. Xuất gia mà không hiểu rõ giáo lý Phật dạy, phép tắc luật nghi, pháp hạnh xuất thế v.v... như thế thì làm sao đúng với ý nghĩa và phẩm hạnh cao đẹp của người xuất gia?

 

 Người ta nghĩ xuất gia sao quá dễ dàng, chỉ cần cạo đầu, thọ giới ở chùa, hoặc ở nhà thế là đã xuất gia rồi. Đó chỉ là xuất gia trên bề mặt hình thức, chớ chưa phải đúng với ý nghĩa nội dung của hai chữ xuất gia. Người xuất gia phải có đủ cả hai lĩnh vực: hình thức và nội dung. Hình thức là gìn giữ oai nghi tế hạnh, đi đứng nghiêm trang. Đó là phần thân giáo. Ngôn từ hòa ái, từ tốn khiêm cung, chân thật bất hư. Đó là phần khẩu giáo. Nội dung là cần phải thiền quán tu tập, gạn lọc chuyển hóa vô minh phiền não. Cả hai đều phải bổ túc song hành với nhau. Đó cũng là phương cách "hàng thân phục tâm" vậy. Tuy nhiên, điều quan trọng của người xuất gia vẫn là ở phần phẩm chất nội dung hơn là hình thức.  Tổ Quy Sơn dạy: Người xuất gia phải hằng tâm niệm: "Nội cần khắc niệm chi công, ngoại hoằng bất tranh chi đức" Nghĩa là trong thường nhớ nghĩ công phu, tức là phải tu tập đoạn trừ phiền não. Ngoài rộng mở hạnh hòa kính. Nghĩa là không hơn thua tranh cãi với ai. Đối với mọi người phải luôn luôn giữ sự yêu thương và xử sự hòa kính. Đó là hạnh nguyện cao cả của người xuất gia. Thế nên, tôi thành thật khuyên Phật tử cần phải suy xét kỹ trước khi thực hiện ý nguyện.

 

Kính chúc Phật tử được dồi dào sức khỏe, tinh tấn tu hành và chóng đạt thành sở nguyện.

 

37. Cầu nguyện, phục nguyện, phổ nguyện, phát nguyện, ý nghĩa khác nhau như thế nào?

 

Hỏi : Kính bạch thầy, con thường nghe cầu nguyện, phục nguyện, phổ nguyện và phát nguyện, nhưng con chưa hiểu rõ sự khác biệt của những từ ngữ nầy. Kính mong thầy giải thích cho con được rõ. Con kính cám ơn thầy.

 

Đáp:  Việc cầu nguyện là biểu lộ tình cảm với lòng ước muốn của chúng ta nhằm hướng đến một vấn đề nào đó, mong vấn đề đó chóng được kết quả thành tựu như ý muốn. Vì thế, nên việc cầu nguyện nó không nằm trong phạm trù của logic hay trí óc. Nó vượt lên trên những thứ đó. Hầu hết các tôn giáo không có tôn giáo nào lại không có những hình thức cúng tế cầu nguyện. Tuy nhiên, việc cầu nguyện đó có đạt được như ý muốn của mình hay không lại là một vấn đề khác. Không phải ai cầu nguyện rồi cũng được toại nguyện như ý hết. Điều nầy còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là người cầu nguyện và đối tượng cầu nguyện. Phật tử hỏi: Cầu nguyện, phục nguyện, phổ nguyện và phát nguyện giữa những từ ngữ nầy có khác nhau không? Xin thưa, xét về mặt từ ngữ thì có khác đôi chút, nhưng mục đích nhắm tới thì không có khác mấy.

 

Cầu nguyện thì bất cứ ở đâu và lúc nào cũng có thể cầu nguyện được cả. Tuy nhiên, sự cầu nguyện tùy theo mỗi hoàn cảnh, tâm trạng mà tính chất của nó có rộng hẹp khác nhau. Như cầu nguyện cho mình được làm ăn suôn sẻ phát đạt, gia đạo được bình an, hay mua may bán đắt v.v... Nói chung, việc cầu nguyện nào có tánh cách nhằm lợi ích cho riêng mình, thì việc cầu nguyện đó rất là ích kỷ nhỏ hẹp. Ngược lại, nếu cầu nguyện vì tha nhân, mong cho mọi người được an lạc hạnh phúc, thế giới sống chung hòa bình hay mưa thuận gió hòa, mùa màng thịnh vượng v.v...  thì việc cầu nguyện đó mang tính phổ cập rộng rãi, phát xuất từ tấm lòng từ bi lợi người lợi vật mà ra.

 

 Còn nói phục nguyện, là vì khi bắt đầu thật hành khóa lễ tụng niệm là đã có phần cầu (kỳ) nguyện. Vì vậy, nên cuối thời kinh lại nguyện thêm một lần nữa nên nói là phục nguyện. Phục có nghĩa là lại; nguyện có nghĩa là mong muốn. Có nghĩa là mình mong muốn thêm một lần nữa, cầu cho cõi âm thì chóng được siêu thoát, cõi dương thì được thái hòa an lạc...

 

Còn nói phổ nguyện là nguyện khắp hết muôn loài chúng sinh không phân biệt thân sơ, nguyện cho tất cả đều được ân triêm lợi lạc. Như nói: "phổ nguyện âm siêu dương thới, pháp giới chúng sinh, đều trọn thành Phật đạo". Nguyện như thế là gồm thâu không bỏ sót một loài nào cả.

 

Riêng về hai chữ phát nguyện nghĩa của nó không giống như những việc cầu nguyện nói trên. Bởi phát nguyện là tự mình phát ra mong muốn làm một điều gì đó nhằm đem lại lợi lạc cho mình và người. Như nói: phát nguyện thọ Bát quan trai giới, phát nguyện làm lành lánh dữ hay phát nguyện ăn chay trường v.v... Đó là tự mình phát nguyện tha thiết muốn làm việc đó không có ai bắt buộc mình cả. Khi đã phát nguyện rồi, thì mình phải cố gắng gìn giữ không cho sai phạm. Sự phát nguyện nầy rất là thiết yếu cho việc tu hành hướng thượng của chúng ta vậy. 

 

38. Tam đức lục vị là gì?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, trong quyển sách nhỏ nghi thức thọ trai cúng quá đường, sau câu Ma ha bát nhã ba la mật, có bốn chữ Tam đức lục vị, con chưa hiểu bốn chữ nầy ý nghĩa như thế nào. Kính xin thầy khai thị. Con cám ơn thầy.

 

Đáp: Tam đức có ba nghĩa: mềm mại, tinh khiết, và đúng pháp. Còn lục vị là: đắng, chua, ngọt, cay, mặn và lạt.

 

Trong Phẩm Tự của Kinh Đại Bát Niết Bàn có nói: "Khi Phật sắp nhập Niết bàn, các Ưu bà tắc sắm sửa các thức uống ăn dâng lên cúng dường Phật và chúng tăng, các thức uống ăn nầy ngon ngọt có đủ tam đức, lục vị". Về sau tam đức lục vị trở thành bài kệ được chư Tổ liệt vào trong nghi thức cúng dường thọ trai hằng ngày ở trong các tự viện thuộc hệ Phật giáo Bắc tông. Phật giáo Nam tông (Nguyên Thủy) thì không có hình thức cúng dường ở quá đường như Phật giáo Bắc tông (Phát Triển).

 

Cần nói thêm, trong ba đức trên có hai đức quan trọng mà chúng ta cần để ý đó là: "Tinh khiết và Đúng pháp". Tinh khiết là những thức ăn, thức uống cần phải được bảo trì giữ gìn sạch sẽ. Đúng pháp là phải giữ đúng theo phép tắc vệ sinh. Vì những điều nầy có liên quan đến sức khỏe của chúng tăng và những người khác. Nếu những vị nấu nướng ở khu nhà bếp mà không cẩn thận giữ gìn sạch sẽ mất phẩm chất vệ sinh, nhất là những thức ăn uống không được bảo quản kỹ lưỡng thì, sẽ gây ra ảnh hưởng rất tai hại đến sức khỏe của mọi người. Người có trách nhiệm quản lý trông coi nhà bếp phải thường xuyên kiểm soát những thực phẩm tồn kho cho thật kỹ lưỡng. Những thức ăn nào quá hạn lâu ngày thì nên vứt bỏ đi đừng có tiếc nuối lưu trữ để dùng. Có người vì không hiểu cứ tiếc nuối sợ bỏ mang tội của Đàn na tín thí nên cứ mang ra nấu ăn hoài. Có những thức ăn để tồn trữ quá lâu mà vẫn cứ xài. Nhất là dầu ăn cứ xài đi xài lại ắp lẵm đến độ dầu trở nên đen xì mà vẫn cứ dùng. Thế là người nấu thì không sao mà người ăn mới thật là nguy hiểm! Điều nầy rất có hại cho gan và có thể gây ra tình trạng bị bệnh ung thư gan. Thiết nghĩ, đây là một vấn đề tối ư quan trọng mà các vị có trách nhiệm làm việc ở khu nhà trù cần phải cẩn trọng quan tâm lưu ý.

 

Rồi đến việc nêm nếm cũng vậy. Có người vì vô ý nên khi nêm nếm thức ăn lại nếm trực tiếp, đó là mất tinh khiết không phù hợp với nguyên tắc vệ sinh. Nếu người đó sẵn mang trong người một chứng bệnh nan y nguy hiểm nào đó, mà lại nêm nếm như thế, thì sẽ dễ gây ra cho người khác bị truyền nhiễm. Tốt hơn hết, khi nêm nếm ta cần phải múc ra một cái chén riêng không được nếm trực tiếp vào trong cái vá hoặc cái muỗng. Nếu bất cẩn ta phạm vào hai cái lỗi: Một là, ta đã dùng trước chúng Tăng, điều nầy mang tội rất lớn. Trong Luật Sa Di có nêu ra câu chuyện về một thầy Sa di khi chặt gọt đường phèn dâng cúng chúng Tăng, đường dính trong lưỡi dao, trộm lấy ăn, vì duyên tội ấy nên phải bị đọa vào địa ngục chịu biết bao nỗi cực hình thống khổ. Đến khi hết tội địa ngục còn bị cái dư báo phải trả là bị con dao bén cháy đỏ chặt đứt cuống lưỡi. Thật là đáng kinh sợ lắm thay! Thế nên những ai nấu bếp thiết đãi cúng dường chúng tăng cần phải lưu tâm cẩn thận vậy. Hai là, vì sự bất cẩn của ta mà gây ra làm người khác phải mang chứng bệnh như ta. Vì ta mà họ phải chịu họa lây. Thế nên, cả hai điều đó ta đều phải tránh. Mong rằng, những ai có trách nhiệm nấu nướng ở nhà bếp xin lưu ý quan tâm đến vấn đề hệ trọng nầy.

 

39. Nhà từ đường bỏ trống không người ở, nay muốn thỉnh hương linh về thờ có được không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, con có nỗi khổ tâm mà tất cả chị em con không giải quyết được. Nay kính mong thầy cho con lời giải. Số là, cha mẹ con là người có đạo nên tạo ngôi nhà ba gian: gian chính giữa thờ Phật, bên thờ cửu huyền, bên cha mẹ đó là tâm nguyện của cha con. Nay cha mẹ con mất năm năm để nhà cho em trai thờ phượng, nhưng vì hoàn cảnh cậu ấy không ở nhà thờ nên để nhà và bàn thờ hương tàn khói lạnh đã 2 năm rồi, giờ em út muốn thỉnh hương linh cha mẹ về thờ bỏ nhà trống không ai ở. Vậy con có ba câu hỏi:

1. Con nghe người ta nói nhà từ đường mà bỏ hoang thì con cháu làm ăn không khá, vì mang tội, có đúng không?

2. Chúng con định để y bàn thờ đến ngày giỗ về mở cửa rồi đóng lại?

3. Chúng con có nên để cho đứa em út thỉnh về thờ hay để hương linh như cũ? Kính xin thầy từ bi cho con lời dạy.

 

Đáp: Qua ba câu hỏi thắc mắc của Phật tử, tôi xin được lần lượt góp chút thành ý như sau:

 

1. Phật tử nghe người ta nói: "Nhà từ đường mà bỏ hoang thì con cháu làm ăn không khá, vì mang tội". Phật tử hỏi có đúng không? Xin thưa, điều đó không hẳn đúng như vậy. Việc làm ăn khá hay không là do chính mình chớ không phải do cái nhà từ đường bỏ hoang. Nếu nói như thế, thì có lắm người vẫn thờ phụng ông bà hoặc cha mẹ trong nhà mà công việc làm ăn của họ vẫn bị thất bại nghèo túng thì sao? Việc làm ăn khá hay không nó còn đòi hỏi phải có nhiều yếu tố thiết thực. Cái yếu tố quan trọng nhứt là người đó có phước báo hay không? Không thể nhìn cục diện mà có thể đánh giá được. Tuy nhiên, đã là nhà thờ tổ tiên ông bà mà để nhang tàn khói lạnh như Phật tử đã nói thì thật là có lỗi.  Có lỗi là vì mình quên đi cái công ơn sanh thành giáo dưỡng lớn lao của ông bà cha mẹ. Sách có câu: "Sự tử như sự sanh". Nghĩa là mình hãy xem người chết như lúc còn sống. Khi ông bà cha mẹ còn sanh tiền thì mình phải hết lòng phụng dưỡng tri ân và báo ân. Đến khi các vị đó khuất bóng, thì đạo làm con mình cũng phải nhớ đến cái công ơn đó mà hết lòng thờ kính. Thế mới phải đạo làm con. Đó là truyền thống văn hóa cổ truyền cao đẹp của người Việt Nam chúng ta vậy. Tuy nhiên, lỗi nầy là do vì hoàn cảnh bất khả kháng ngoài ý muốn của mọi người trong gia đình. Tôi nghĩ, Phật và ông bà cha mẹ không có ai bắt tội Phật tử đâu mà Phật tử phải lo sợ.

 

2. Phật tử hỏi: "Có nên để y bàn thờ đến ngày giỗ mở cửa rồi đóng lại?" Nếu trường hợp vì hoàn cảnh mà gia đình không thể sắp xếp có người ở để sớm hôm nhang khói được, thì Phật tử cũng có thể đóng cửa lại sau khi mọi người tựu về cúng giỗ. Điều nầy cũng không có gì là lỗi lầm cả. Bởi việc nầy ngoài ý muốn của mọi người. Phật và tổ tiên ông bà cũng thấu hiểu và cảm thông cho hoàn cảnh của Phật tử và những thành viên trong gia đình.

 

3. Vấn đề nầy tốt nhứt là nên có một buổi họp mặt của những thành viên thân thuộc trong gia đình. Nếu như mọi người đều đồng ý để cho người em út thỉnh tất cả về thờ thì cũng không có gì trở ngại. Điều nầy tùy thuộc vào sự quyết định chung của mọi người trong gia đình. Điều quan trọng không phải thỉnh về thờ hay giữ nguyên như cũ, mà quan trọng là ở chỗ tất cả con cháu có thành ý nhứt trí hòa hợp thuận thảo với nhau hay không. Việc nầy nên lấy ý kiến chung để quyết định. Nếu đa số đều đồng ý thì Phật tử cũng nên làm theo cho vui lòng mọi người.

 

Kính chúc Phật tử và những người thân trong gia đình có một đời sống an hòa và hạnh phúc.

 

40. Khuyên bảo con cháu phải trung thành với đạo của mình, lời khuyên bảo đó của cha mẹ có sai trái không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, con có một vài thắc mắc nay xin được nêu ra để hỏi. Kính mong thầy cho con lời khuyên giải.

1. Nếu lo ngại con cái mình sẽ kết hôn với người khác tôn giáo, nên khuyên bảo con cái đừng quen biết với ai khác tôn giáo mình. Như vậy làm cha mẹ có sai không?

2. Làm cha mẹ thường xuyên khuyến nhắc con cái mình, nên phải thường tới chùa, cúng dường, bố thí, phóng sanh, lạy Phật v.v... Như vậy cha mẹ có khắc khe bắt buộc con cái mình phải theo đạo của mình không?

3. Trước đây, con có cho con của con học trường đạo của Thiên Chúa Giáo, nó rất quý kính đức Chúa Giê Su. Sau đó, con lo sợ nó bỏ đạo Phật nên con dẫn nó đi chùa quy y Tam bảo. Nó cũng vâng lời và làm theo con. Như vậy, làm cha mẹ như chúng con có quá khắc khe sai trái không? Kính xin thầy chỉ dạy và cho ý kiến.

 

Đáp: Qua ba câu hỏi của Phật tử, tôi xin được lần lượt chia sẻ và góp chút thành ý với Phật tử như sau:

 

1. Vấn đề khuyên bảo con mình không nên kết hôn với người khác tôn giáo, việc quan tâm lo ngại của Phật tử như thế, theo tôi, thì cũng không có gì là sai trái hay quá đáng. Bởi làm cha mẹ thử hỏi có cha mẹ nào mà không quan tâm lo lắng muốn cho con mình có được hạnh phúc? Tuy đây là vấn đề tín ngưỡng thuộc về lĩnh vực tinh thần trong niềm tin tôn giáo, nhưng nó cũng rất hệ trọng trong đời sống hôn nhân. Việc kết hôn với người khác tôn giáo, đối với xã hội hiện nay thì không ai có quyền ngăn cấm. Tuy nhiên, làm cha mẹ thì ai cũng nơm nớp lo sợ cho con mình sẽ mất đi hạnh phúc trong tương lai, vì sự khác biệt niềm tin tôn giáo. Bởi phẩm chất, mục đích và hình thức lễ nghi của mỗi tôn giáo có những đặc điểm xây dựng niềm tin khác nhau. Mà hạnh phúc của con người là điều tối ư quan trọng trong đời sống, nhất là đời sống lứa đôi. Giả như hai người khéo biết tôn trọng, thỏa thuận trong niềm tin với nhau, nhưng khi sanh con ra thì chúng nó không biết phải theo tôn giáo nào? Theo tôn giáo của cha hay là của mẹ? Hay là theo cả hai? Hoặc là không theo tôn giáo nào cả. Điều nầy, chúng tôi thiết nghĩ, chúng ta cũng nên lưu tâm suy gẫm. Nếu không, thì cũng chỉ làm khổ cho con cái của chúng ta sau nầy mà thôi. Bởi chúng ta vô tình đặt chúng nó vào một tình trạng thật khó xử. Chừng đó liệu vợ chồng có còn hạnh phúc nữa hay không? Thực tế, cho chúng ta thấy tình trạng xung đột bất hòa nầy thường hay xảy ra.

 

Chính vì lo sợ hậu quả xảy ra không tốt cho con mình, nên cha mẹ mới có ý nhắc nhở khuyên bảo con cái. Nếu đứng trên lập trường và qua kinh nghiệm sống thực tế của cha mẹ thì, lời khuyên bảo thức nhắc hay phân tích giải thích cho con cái của mình hiểu biết, điều đó thật không có gì là sai trái, mà ngược lại thì nó rất là hợp tình hợp lý. Vì mục đích là nhằm thức nhắc con cái của mình nên cẩn trọng phòng ngừa để tránh cái hậu quả không tốt đẹp có thể xảy ra sau nầy. Người xưa có câu nói: "Ngừa bệnh hơn là chữa bệnh". Thật vậy, nếu điều nào ngừa được thì chúng ta nên ngăn ngừa trước là tốt hơn. Đừng để sự việc xảy ra rồi mới lo chạy chữa. Đợi nước đến trôn rồi mới lo nhảy, như thế, thì e rằng không còn kịp nữa đâu, vì đã quá muộn màng rồi! Chi bằng phòng bị trước thì hay hơn. Thiết nghĩ việc khuyên bảo răn nhắc của cha mẹ đối với con cái, đó là điều cha mẹ nên làm. Tuy nhiên, việc khuyên bảo thức nhắc đó là việc làm của cha mẹ, còn con cái có nghe và làm theo hay không, đó lại là một chuyện khác. Trong vai trò làm cha mẹ, thì Phật tử cứ làm hết cái trách nhiệm bổn phận yêu thương của mình, còn việc nghe hay không là quyền của chúng nó. Giả sử sau nầy việc đó có xảy ra, thì chúng nó cũng không có lý do nào để có thể hờn trách Phật tử được. Và Phật tử cũng không có gì phải áy náy ăn năn hối hận. Tất cả đều do chúng nó ý thức và tự quyết định lấy. Hạnh phúc hay khổ đau là chính do mỗi người tự tạo định đoạt cho mình. Phật tử nên biết rằng, đối với thời đại mới hiện nay, quyền quyết định hôn nhân không còn ở nơi cha mẹ định đoạt nữa, mà chính do con cái chúng nó tự quyết định lấy. Thời xưa, thì cha mẹ còn có quyền đặt định, theo kiểu cha mẹ đặt đâu thì con cái phải ngồi đó. Bây giờ thì việc đó đã quá lỗi thời rồi. Ngày nay phải nói ngược lại mới đúng: "Con cái đặt đâu thì cha mẹ phải ngồi yên ở đó".

 

2. Việc khuyên bảo con cái làm điều tốt, điều lành, điều phải, thì đó là trách nhiệm và bổn phận của cha mẹ. Việc nầy xưa nay đều như thế, không ai có thể phủ nhận được. Tuy nhiên, việc khuyên bảo con cái đi chùa, cúng dường, bố thí, phóng sanh, lạy Phật như Phật tử đã nói, theo tôi, điều khuyên nầy Phật tử cần phải cân nhắc cẩn thận và phải hết sức tế nhị. Nếu không khéo, đôi khi Phật tử sẽ bị phản tác dụng. Nghĩa là chẳng những chúng nó không tin tưởng nghe theo, mà trái lại chúng nó còn làm cho Phật tử phải thêm giận hờn bực tức nữa. Giả như Phật tử khuyên chúng nó mà chúng nó không làm theo, thì Phật tử có tức giận không? Cho nên tốt hơn hết là Phật tử cứ hãy để cho chúng nó có một sự quyết định theo ý muốn và phát tâm tự nhiên. Bởi vì niềm tin không thể ép buộc được. Mình cũng nên tôn trọng niềm tin của chúng nó. Phật tử nên nhớ, việc tu hành làm lành lánh dữ, nó còn tùy thuộc ở nơi căn duyên nghiệp quả sai khác của mỗi người. Đâu phải mình muốn là được. Nếu nhân duyên của chúng nó chưa đến mà Phật tử cố tình khuyên bảo hoặc ép buộc, thì chỉ mang lại cái hậu quả phiền phức không tốt đẹp cho cả hai bên mà thôi. 

 

Hơn nữa, Phật tử cũng biết, hiện chúng ta đang sống trong thời đại văn minh tân tiến dân chủ và tự do. Không ai có quyền bắt buộc kẻ khác phải làm theo ý của mình. Nếu như thế, thì đi ngược lại với trào lưu tư tưởng tiến hóa của nhơn loại. Điều nầy không khéo chúng nó sẽ lên án cho mình là kẻ độc tài, độc đoán, chuyên chế v.v... và như thế  thì sẽ không đem lại lợi lạc gì cả.

 

Nếu Phật tử lấy quyền làm cha mẹ mà bắt nạt con cái phải nghe theo mình, thì điều đó mới là khắc khe quá đáng. Phật tử nên biết, tuy là con cái nhưng mỗi đứa có mỗi cá tánh sở thích thói quen khác nhau. Sự khác nhau đó trong nhà Phật gọi là biệt nghiệp. Thế thì, cha mẹ có thể khuyên con chớ không thể bắt buộc con. Đừng bắt ép chúng nó phải làm những gì mà chúng nó không thích. Bởi căn nghiệp và sự huân tập môi trường sống của mỗi người mỗi khác. Việc đi chùa hay làm bất cứ những điều lành nào khác, hãy để cho mỗi người tự ý thức và tự quyết định lấy. Sự giáo dục con cái đối với xã hội ngày nay nó đã khác hơn thời xưa rất nhiều. Lối giáo dục sai khiến kẻ khác phải làm theo ý mình, điều nầy không còn hợp thời nữa. Mà dẫu cho mình có ra lệnh sai khiến chúng nó, chắc gì chúng nó nghe theo mình. Không khéo sẽ tạo thành cảnh mâu thuẫn xung đột bất hòa giữa con cái và cha mẹ. Thế thì cả hai đều phải chịu nhiều đau khổ.

 

Theo tôi, điều tốt nhứt là chúng ta nên làm gương cho chúng nó. Áp dụng lối thân giáo có lẽ là tốt hơn khẩu giáo. Thay vì Phật tử khuyên chúng nó tu hành làm lành lánh dữ, thì bản thân của Phật tử nên cố gắng thật hành điều nầy. Nghĩa là Phật tử khuyên bảo thì ít, mà Phật tử nên làm cho chúng nó thấy thì nhiều. Cứ để cho chúng nó ý thức được việc làm có lợi ích thì tự chúng nó phát tâm thôi. Phật tử không nên bắt buộc chúng nó phải đi chùa hay làm những việc lành khác. Thay vì chúng có thiện cảm với chùa, nhưng vì sự khuyên bảo hay bắt buộc của Phật tử, chúng nó lại tự ái đâm ra mất thiện cảm với chùa và cũng không muốn làm điều lành nào cả. Chừng đó Phật tử lại càng ân hận tức giận khổ tâm hơn. Chi bằng Phật tử cứ thuận theo nhân duyên là tốt hơn. Tôi thành thật khuyên Phật tử nên cẩn thận và hết sức tế nhị về vấn đề khuyên bảo nầy.

 

3. Sự tôn kính đối với đức Chúa như thế là rất tốt. Người Phật tử không nên có thành kiến đối với bất cứ tôn giáo nào. Vì còn có thành kiến là còn có sự kỳ thị tranh chấp và hận thù. Đừng vì tôn trọng và chỉ biết có đạo giáo của mình mà khinh thường chê bai đối với các đạo giáo khác. Thái độ và hành động đó người Phật tử chân chánh quyết không nên có. Mọi sự kỳ thị vị kỷ đều bắt nguồn từ bản ngã mà ra. Đạo Phật vượt ra ngoài mọi sự kỳ thị vị kỷ tranh chấp đó. Đạo Phật luôn tôn trọng Phật tánh của mỗi người. Đối với đạo Phật, tất cả đều là bạn. Đạo Phật không thấy ai là kẻ thù cần phải tiêu diệt. Mà đạo Phật luôn đề cao và tôn trọng. Đó là bản chất từ bi bình đẳng vị tha của đạo Phật. Người Phật tử phải có cái nhìn vượt ngoài đối đãi nhị nguyên. Có thế, thì mới có thể hòa đồng mang lại sự yêu thương cho khắp cả chúng sinh. Sự hướng dẫn con cái đi vào con đường chánh đạo đó là trách nhiệm và bổn phận của các bậc phụ huynh. Phật tử hướng dẫn con mình về chùa quy y Tam bảo đó là điều rất tốt và không có gì là khắc khe cả.

 

Kính chúc Phật tử luôn có nhiều an lạc và đầy đủ nghị lực sáng suốt để vượt qua mọi thử thách chướng duyên.

 

41. Ý nghĩa của hai chữ đạo tràng là gì? Giữa đạo tràng và niệm Phật đường có khác nhau không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, mình thường gọi đạo tràng, nhưng con không hiểu hai chữ đạo tràng là gì? Giữa đạo tràng và niệm Phật đường có khác nhau không? Kính mong thầy giải thích cho chúng con rõ. Thành kính trọng ơn thầy.

 

Đáp: Hai chữ đạo tràng, chúng ta có thể hiểu qua hai ý nghĩa khác nhau.

 

a, Đạo tràng theo ý nghĩa sự tướng.

 

 Đạo tràng theo ý nghĩa hình thức sự tướng, thì đạo tràng là nơi hành đạo như: thuyết pháp, truyền giới, tụng niệm, thọ bát tu học v.v... Nói chung là những pháp sự mang tính cách lễ nghi hình thức tu tập ở trong chùa hay ở bất cứ nơi nào cũng đều gọi chung là đạo tràng cả. Đạo tràng cũng chỉ là tên gọi khác của tự viện mà thôi.

 

b. Đạo tràng theo ý nghĩa lý tánh.

 

Trong Kinh Duy Ma Cật có câu nói: "Trực tâm tức thị đạo tràng". Trực tâm là tâm ngay thẳng. Thế nào là tâm ngay thẳng? Tâm ngay thẳng là tâm không vướng mắc phân biệt hai bên: có không, phải trái, lành dữ v.v... Đó là nghĩa Trung đạo. Cùng ý nghĩa nầy, Ngài Nam Tuyền cũng có câu nói: "Bình thường tâm thị đạo". Bình thường là tâm không bị kẹt vào đối đãi nhị nguyên. Cả hai câu nói đều có ý nghĩa giống nhau và đều chỉ thẳng cái bản tâm thanh tịnh sáng suốt sẵn có của chính mình.

 

Còn Phật tử hỏi giữa Đạo tràng và Niệm Phật đường có khác nhau không? Xin thưa, cũng không có khác mấy. Vì như trên đã nói đạo tràng là nơi để hành đạo tu tập, tức chỉ chung cho những tự viện chùa chiền v.v... Thế thì Niệm Phật đường cũng là một trong những nơi để hành lễ tu tập. Như vậy cũng là một đạo tràng. Tuy nhiên, nếu luận về pháp môn hay tông phái thì như tên gọi của nó cũng đã nói lên cái ý nghĩa chuyên tu hành trì theo một pháp môn niệm Phật. Do đó dù tên gọi tuy có khác nhưng ý nghĩa thì cũng giống nhau vậy.

 

 

42. Phải tôn trọng quyển kinh khi cầm kinh trong tay như thế nào?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, con có ba câu hỏi kính mong thầy giải đáp:

1. Trong lúc cầm quyển kinh khi gặp chư Tăng, Ni con có phải xá chào không?

2. Trời đang nóng, mà chúng con lấy kinh quạt có nên không?

3. Khi chúng con đang tụng kinh, dùng nước miếng lật qua trang khác có nên không? Xin thầy hoan hỷ giải thích cho con rõ.

 

Đáp: Qua ba câu hỏi của Phật tử, tôi xin được lần lượt nêu ra từng câu hỏi một để trả lời cho Phật tử hiểu rõ thêm:

 

1. Phật tử hỏi trong lúc cầm Kinh khi gặp chư Tăng, Ni Phật tử có phải xá chào không?

 

Xin thưa, khi đang cầm quyển kinh trên tay, tuyệt đối Phật tử không được xá chào. Vì trong khế kinh có câu: "Thị Kinh như thị Phật". Nghĩa là thấy Kinh như thấy Phật. Tại sao thế? Bởi vì Kinh là những lời vàng ngọc quý báu do Phật nói ra và đã được chư Tổ kết tập lại. Do đó, chúng ta phải hết lòng tôn kính thọ trì. Đã tôn kính Phật tất nhiên là chúng ta cũng phải tôn kính những gì Phật dạy. Vì thế, khi cầm Kinh dù đối tượng trước mặt mình là chư Tăng, Ni hay bất cứ ai Phật tử cũng không được cầm kinh xá chào. Khi xá chào như thế, thì sẽ bị mắc vào hai cái lỗi: Một là, coi thường Kinh điển Phật dạy. Hai là, người mà mình xá chào, tại mình mà người ta phải bị tổn phước. Thế nên chúng ta phải lưu tâm cẩn thận về vấn đề nầy. Trong trường hợp như Phật tử đã nói, thì Phật tử chỉ có thể cúi đầu chào, chớ không nên cầm Kinh trên tay xá chào.

 

2. Trời đang nóng mà chúng con lấy Kinh quạt có nên không?

 

Xin thưa ngay là không nên. Như trên đã nói, thấy Kinh như thấy Phật. Đã thế, thì dù cho trời có nóng bức cháy da phỏng trán đến đâu đi nữa thì, chúng ta cũng không nên cầm Kinh để quạt cho mát đưọc. Như thế thì chúng ta sẽ phạm vào cái lỗi khinh thường bất kính kinh điển vậy.

 

3. Khi chúng con đang tụng Kinh, dùng nước miếng lật qua trang khác có nên không?

 

 Điều nầy lại càng không nên. Bởi nước miếng của chúng ta là thứ dơ bẩn hôi thúi mà thắm vào tay để lật từng trang Kinh, như thế thì mất đi sự tôn kính. Chúng ta không nên có ý nghĩ cho đó là những trang giấy thông thường mà không kính trọng. Tuy đó là giấy trắng mực đen nhưng trong đó chứa đựng toàn những ngôn từ vàng ngọc quý báu của Phật dạy. Chính nhờ những lời dạy nầy mà chúng ta mới thấu rõ được đường lối tu hành. Và nhờ tinh tấn tu hành nên chúng ta mới được giải thoát.

 

Chẳng những không được thắm nước miếng lật kinh thôi, mà chúng ta cũng không nên dùng miệng thổi bụi trên kinh hay kẹp kinh vào nách hoặc để kinh bừa bãi ở những chỗ dơ dáy bất tịnh. Và trước khi cầm Kinh chúng ta cũng phải rửa tay cho sạch sẽ rồi mới cầm.

 

Nói tóm lại, kinh điển là những lời Phật dạy, chúng ta phải hết lòng trân kính không được tỏ ra khinh thường mà mang trọng tội vậy.

 

 

43. Cúng dường Tam bảo như thế nào mới đúng pháp?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, khi cúng dường Tam bảo, con thấy có người ghi tên còn có người thì bỏ vào thùng phước sương. Như vậy cách nào đúng? Có người nói mình không ghi tên thì không ai biết. Và qua hai cách cúng dường đó thì phước báo hơn kém thế nào? Con mong thầy giải thích cho con rõ.

 

Đáp: Xét trên hình thức cúng dường thì cả hai cách đều đúng. Tuy nhiên, xét về nội dung tức trong tâm thức dụng ý của mỗi người có thể có chút ít sai khác. Trường hợp người cúng dường bằng cách ghi tên có thể có hai cách dụng tâm khác nhau: Một là, người cúng có ý mong cầu cho mọi người biết đến tên tuổi của mình, thì sự cúng dường nầy quả thật không đúng theo lời Phật dạy, vì họ có ý cầu danh. Cúng dường với cái tâm ích kỷ nhỏ hẹp như thế, thì phước báo làm sao có nhiều được? Hai là, người cúng tuy cũng ghi tên mà họ không có cái ý vọng cầu như thế, thì phước báo của người nầy sẽ được hưởng nhiều hơn. Vì họ cúng dường với sự phát tâm chơn chánh, không có ý mong cầu điều gì có lợi cho riêng mình.

 

Cần nói rõ thêm, đối với hạng người thứ nhứt, cúng dường mà còn cầu danh, thì quả thật họ không có thành tâm. Tại sao cúng dường mà còn phải ghi tên cho mọi người biết? Như vậy, họ cúng dường cho Tam bảo hay cúng dường cho mọi người? Đã nói là cúng dường Tam bảo thì Tam bảo chứng minh cho lòng thành dâng cúng của mình là được rồi. Cần gì để cho mọi người biết đến? Cúng dường mà còn muốn phô trương cái bản ngã vị kỷ của mình, tất nhiên là không đúng với ý nghĩa cúng dường rồi. Đã thế, thì thử hỏi phước báo làm sao mà có nhiều cho được?  Bởi nhân như thế nào thì quả như thế ấy.

 

Đối với hạng người thứ hai, tuy họ cũng ghi tên mà họ không có cái ý cầu danh, họ chỉ làm theo thủ tục ghi tên của nhà chùa thôi, đối với hạng người nầy tất nhiên là họ sẽ hưởng được phước báo nhiều hơn. Vì họ cúng dường bằng cái tâm chơn thành chớ họ không có ý mong cầu vọng tưởng điều gì cả.

 

Còn đối với việc cúng dường Tam bảo bằng cách bỏ tiền vào thùng phước sương, điều nầy tùy theo tâm lượng và sự phát tâm của mỗi người  mà phước báo cũng có sự hơn kém khác nhau.

 

Nếu cúng bằng cái tâm chân thành, không nghĩ đến số tiền dâng cúng nhiều ít, hoặc sợ người ta chê cười và cũng không có ý mong cầu điều gì có lợi ích cho riêng mình, chỉ thành tâm cầu nguyện cho Tam bảo được trường cửu ở thế gian để làm lợi ích cho chúng sinh. Cúng dường với cái tâm lượng rộng lớn như thế thì phước báo thật vô lượng vô biên. Vì sự cúng dường đó là đúng theo pháp Phật dạy. Ngược lại, nếu cúng dường mà còn có cái tâm so đo tính toán hơn thua, vì cúng ít tiền sợ người khác biết được họ chê cười, cho nên không dám ghi tên, chỉ bỏ vào thùng phước sương không muốn cho ai thấy biết. Nếu cúng dường với cái tâm như thế, thì thật không đúng pháp cúng dường. Đồng thời, khi cúng lại còn cầu nguyện Phật Bồ tát gia hộ cho mình và gia đình cũng như trong dòng họ thân tộc của mình tất cả đều được bình an. Cúng dường với cái tâm lượng nhỏ hẹp ích kỷ như thế, thì thử hỏi làm sao hưởng được nhiều phước báo?

 

Cho nên, cũng đồng thời hai người cúng dường tài vật giống nhau nhưng kết quả thì lại khác nhau. Lý do tại sao? Tại vì ở nơi cái chánh nhân dụng tâm của hai người đó. Một người cúng dường có ý mong cầu cho mọi người biết và cũng mong muốn được lợi lạc cho riêng mình. Đó là phát cái tâm nhỏ hẹp thì làm sao xứng với tánh thể Bồ đề? Vì tánh thể Bồ đề là rộng lớn vô biên không có giới hạn. Còn một người cúng dường không cần ai biết tới cứ âm thầm bỏ tiền vào trong thùng phước sương và rồi thắp nhang lễ Phật nguyện cầu cho Tam bảo được trường tồn trên thế gian lâu dài làm lợi lạc cho chúng sinh. Và nguyện cầu cho pháp giới chúng sanh đều hồi tâm tỉnh thức tu hành thành Phật. Chỉ nguyện cầu như thế thôi. Tuyệt nhiên không có ý mong cầu điều gì riêng tư cho cá nhân mình hay cho gia đình và dòng họ thân tộc của mình. Đó là cái tâm cúng dường rộng lớn xứng hợp với tánh thể Bồ đề tất nhiên là sẽ được phước báo rất lớn. Tuy không cầu nguyện cho riêng mình hoặc tất cả những người thân tộc của mình, nhưng đã cầu nguyện cho hết thảy chúng sinh đều được lợi lạc thì trong chúng sinh đó đã có mình và có tất cả người thân của mình rồi.

 

Tuy nhiên, thông thường người Phật tử khi cúng dường Tam bảo thì họ thích ghi tên hơn là không ghi. Ghi hay không ghi cũng không sao, cái quan trọng là ở chỗ dụng tâm của mỗi người. Nếu ghi tên mà mình không có cái ý cho mọi người biết mà chỉ làm theo cái thủ tục của nhà chùa bày ra thì điều đó cũng không có gì là sai trái. Thường thì trong chùa hay tuyên dương tán thưởng cho những Phật tử nào phát tâm cúng dường tài vật vượt trội hơn các vị khác. Điều nầy, là vì muốn tùy hỷ công đức của người đã phát tâm rộng lớn. Đồng thời cũng có ý là để cho những người khác biết để tùy hỷ tán dương và noi theo mà thôi. 

 

Kính mong Phật tử chúng ta nên ý thức mà cúng dường cho đúng pháp theo lời Phật Tổ chỉ dạy. Có như thế thì mới được lợi lạc lớn lao vậy.

 

44. Trì chú và niệm Phật cái nào linh nghiệm hơn.

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con thường trì tụng các thần chú mỗi đêm sau đó con mới niệm hồng danh Phật. Có người nói, niệm Phật không linh nghiệm bằng trì chú, vì trì chú có thần gia hộ nên cầu gì được nấy. Mong thầy cho biết lời nói nầy có đúng không? Và con trì chú trước niệm Phật sau có được không? Kính  mong thầy giải đáp cho con hiểu rõ. Thành kính biết ơn thầy.

 

Đáp: Trong câu hỏi của Phật tử chúng tôi thấy có ba vấn đề mà Phật tử muốn biết:

 

Thứ nhứt, Phật tử thường trì tụng các thần chú trước rồi sau đó mới niệm hồng danh Phật. Điều nầy không có gì là sai trái. Thường trong thời khóa Tịnh độ tối ở trong các chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, đều gồm có đủ ba tông: Thiền, Tịnh và Mật. Và nếu nói rộng ra thì gồm đủ cả. Thiền là khi tụng niệm tâm hành giả không duyên theo ngoại cảnh, chỉ một bề chú tâm vào lời kinh hay câu chú mà mình đang trì tụng. Tịnh là niệm danh hiệu Phật A Di Đà và niệm Tứ Thánh. Mật là tụng chú Đại Bi hoặc các thần chú khác. Như vậy, Phật tử trì chú trước rồi sau đó mới niệm Phật cũng được không có lỗi gì. Tuy nhiên, trong kinh thường nêu ra có hai hạnh mà người tu cần phải phân định cho rõ ràng. Hai hạnh đó là: "Chánh hạnh và Trợ hạnh". Phần chánh hạnh bao giờ cũng phải đặt nặng và vượt trội hơn. Như Phật tử lấy việc niệm Phật làm chánh hạnh, còn phần trì chú hay tụng kinh hoặc bố thí cúng dường làm mọi việc lành khác... đều là trợ hạnh. Trợ là giúp thêm cho cái chánh hạnh chóng được thành tựu. Tùy theo mỗi tông hay mỗi pháp môn mà hành giả chọn cho mình có chánh và trợ hạnh khác nhau. Nếu Phật tử đang hành trì theo pháp môn Tịnh độ, thì tôi thành thật khuyên Phật tử nên lấy việc niệm Phật làm chánh hạnh và trì chú làm trợ hạnh. Chánh hạnh bao giờ cũng quan trọng mà chúng ta nên tinh cần tu tập hành trì nhiều hơn. Nếu không, thì chúng ta dễ bị rơi vào tạp hạnh. Đã thế, thì Phật tử khó đạt được mục đích cao đẹp mà mình nhắm tới.

 

Thứ hai, lời nói của người nào đó thật tình là họ chưa hiểu rõ về các pháp môn Phật dạy. Phật tử nên biết, tất cả các pháp môn Phật dạy không có pháp nào linh nghiệm hơn pháp nào. Vì pháp nào cũng nhằm mục đích đưa hành giả đến chỗ cứu cánh thành Phật cả. Giáo pháp Phật dạy thì không có vấn đề cao thấp hay sâu cạn. Vạn pháp đều bình đẳng như nhau. Sở dĩ có cao thấp, sâu cạn, là do ở nơi căn cơ trình độ nhận thức sai khác của mỗi người. Mưa thì chỉ có một, nhưng tùy theo các loại cỏ cây, lùm rừng, lớn nhỏ mà hấp thụ sai biệt không đồng. Thuốc thì không có thuốc nào hay hay dở. Bất luận thuốc nào mà trị lành bệnh thì thuốc đó hay thôi. Đức Phật như vị lương y đại tài tùy bệnh mà cho thuốc. Bởi thế, nên mới có câu nói: "Chúng sanh đa bệnh thì Phật đa pháp" là vậy. Niệm Phật hay trì chú hoặc tu bất cứ pháp môn nào, mục đích cũng là để được định tâm. Nếu tâm không định thì phiền não phát sanh. Có dứt hết vô minh phiền não lậu hoặc thì hành giả mới có thể thành tựu được đạo quả. Nếu trì chú với quan niệm cho là có chư thần thường gia hộ để cầu gì được nấy đó là một quan niệm hết sức sai lầm. Trì chú mà còn có cái tâm vọng tưởng mong cầu được lợi lộc cho mình, thì quả là trái với tôn chỉ của việc trì chú. Lời nói đó không hợp với lẽ đạo. Tôi khuyên Phật tử nên tránh chớ có nghe theo mà có hại cho mình. Nếu bảo trì chú mới có chư thần gia hộ, vậy thử hỏi niệm Phật không có chư thần gia hộ hay sao? Nếu chúng ta dụng tâm tu hành chân chánh phù hợp với chân lý, tất nhiên là chư thần lúc nào cũng thường gia hộ cho chúng ta. Bằng trái lại, thì long thần hộ pháp sẽ lánh xa chúng ta. Người nói như thế là vì họ chưa tìm hiểu rõ những gì trong kinh điển đã chỉ dạy. Nếu vì chưa hiểu thì nên tìm hiểu chớ đừng có nói càng bướng mà mang thêm tội lỗi.

 

Thứ ba, như đã nói, Phật tử trì chú trước rồi niệm Phật sau đều được không có gì trở ngại. Tuy nhiên, nếu Phật tử đang hành trì theo pháp môn niệm Phật, thì tôi thành thật khuyên Phật tử nên chuyên tâm niệm Phật là tốt hơn. Còn việc trì chú coi như là phần phụ thuộc mà thôi. Vì niệm Phật hay trì chú mục đích cũng để cho được nhứt tâm. Có như thế, thì việc hành trì của Phật tử mới chóng được thuần nhứt. Bằng không, tu hành mà cái gì cũng muốn hết, e rằng kết quả sẽ không được tốt đẹp như ý. Bởi bắt cá hai tay rốt lại thì không được gì cả. Điều đó chỉ là uổng công vô ích mà thôi. Kính mong Phật tử hãy suy nghiệm thật kỹ điều nầy để chọn cho mình một hướng đi vững chắc và có lợi ích thiết thực vậy.

 

45. Tụng Kinh và trì Chú trước sau lớp lang như thế nào mới đúng?

 

Hỏi: Kính thưa thầy, khi con bệnh thì con đọc kinh Dược Sư, giờ con nghỉ, con chỉ trì chú Dược Sư và trì chú Đại bi vào mỗi buổi sáng, tối đọc kinh Cứu khổ, nay con muốn đọc kinh Vô Lượng Thọ. Như vậy có được không? Nếu được thì con phải tụng đọc vào buổi nào? Và khi tụng con phải bắt đầu như thế nào? Kính mong thầy giải đáp cho con rõ. Con xin cám ơn thầy.

 

Đáp:  Việc thay đổi cách tụng đọc Kinh, Chú, theo như lời Phật tử đã nói thì không có gì là sai trái cả. Xưa kia, khi bệnh Phật tử tụng đọc Kinh Dược Sư, nay thì Phật tử chỉ trì Chú Dược Sư và Chú Đại Bi vào mỗi buổi sáng. Còn buổi tối thì Phật tử tụng đọc Kinh Cứu Khổ. Nay thì Phật tử chỉ muốn tụng đọc Kinh Vô Lượng Thọ. Phật tử hỏi như vậy có được không?

 

Tôi xin thưa ngay với Phật tử là được không có gì trở ngại. Vấn đề tụng Kinh như thế nào cho đúng nghi cách trong khi hành lễ, trong 100 câu hỏi Phật Pháp tập 2, ở trang 56, tôi cũng đã có trình bày rõ về vấn đề nầy. Muốn biết rõ hơn, Phật tử nên tìm đọc lại quyển sách đó. Nếu không có sách, thì Phật tử có thể vào các trang mạng: Quang Minh, Quảng Đức, Tạng Thư Phật Học v.v... đều có. Ở đây, tôi xin được trả lời một cách ngắn gọn vắn tắt mà thôi. Về nghi thức tụng niệm, ở trong các ngôi chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông, thì có hai thời khóa lễ cố định: Thời khuya thường là tụng Chú Lăng Nghiêm và Đại Bi Thập Chú. Còn buổi tối thì thường là tụng Kinh Di Đà. Hai thời khóa lễ sáng, tối nầy đã được chư Tổ ấn định rất rõ, gọi là Nhị thời khóa tụng. Đối với các Kinh, Chú Phật dạy, tùy theo căn duyên ý thích của mỗi người mà chọn lựa trì tụng cho phù hợp. Kinh, Chú nào cũng có thể trì tụng được cả. Tuy nhiên, điều quan trọng là khi tụng đọc ta cần phải hết sức chú tâm và thành ý. Hơn nữa, Khi chúng ta tụng đọc, cần phải hiểu rõ nghĩa lý trong Kinh. Không phải chỉ tụng đọc suông cho có lệ là đủ. Vì có hiểu nghĩa lý trong Kinh Phật dạy, chúng ta mới có thể áp dụng hành trì đúng cách. Và như thế thì mới có lợi ích thiết thực trong đời sống thực tế. Trường hợp của Phật tử thay vì Phật tử trì Chú Lăng Nghiêm và Đại Bi Thập Chú mà Phật tử chỉ trì Chú Dược Sư và Chú Đại Bi thôi, như thế thì cũng được không có sao.

 

Còn Kinh tụng hằng ngày, tùy theo ý thích của Phật tử mà chọn bộ Kinh nào tụng cũng đều được cả. Bởi Kinh nào cũng có công năng thù thắng là phá trừ mê mờ, khai mở tâm trí sáng suốt cho chúng sinh. Trước kia Phật tử tụng Kinh Cứu Khổ nay Phật tử chuyển sang tụng Kinh Vô Lượng Thọ đâu có gì sai trái. Phật tử hỏi phải tụng đọc vào buổi nào? Thường là tụng đọc vào buổi tối thì tốt nhất. Tuy nhiên, điều nầy còn tùy vào hoàn cảnh sinh sống và thời gian thuận tiện của Phật tử nữa. Nếu buổi tối rảnh rỗi thì tôi khuyên Phật tử nên tụng đọc vào buổi tối. Phật tử hỏi khi tụng đọc phải bắt đầu như thế nào? Phật tử cứ y theo nghi thức đã có sẵn ở phần đầu của Kinh Vô Lượng Thọ. Trước khi, ngồi tụng đọc, Phật tử nên thành kính nguyện hương, tán Phật và đảnh lễ Tam bảo. Xong rồi Phật tử ngồi nghiêm trang theo tư thế ngồi bán già hay kiết già tùy ý. Ngồi cách nào miễn thân thể thoải mái thì được. Trong Kinh có nhiều Phẩm tùy ý Phật tử tụng đọc bao nhiêu Phẩm cũng được. Khi ngưng lại, Phật tử nhớ làm dấu để hôm sau tụng tiếp.

 

Kính chúc Phật tử an vui mạnh khỏe tinh tấn tu hành chóng đạt thành sở nguyện.

 

46. Vấn đề thọ hưởng của một người sau khi chết như thế nào?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, trường hợp thân nhân của con chết bên Việt Nam mà con thờ cúng ở Úc, như vậy họ có qua Úc hưởng được không? Mong thầy cho con biết, vì con chưa hiểu vấn đề nầy.

 

Đáp: Theo lời Phật dạy, khi thân xác ta rã ra không có nghĩa là mất hẳn đi. Ngay cả cái xác thân tứ đại do duyên hợp nầy cũng không có mất đi đâu. Thân nầy là do kết hợp bởi bốn yếu tố: đất (chất cứng) nước (thể lỏng) gió (thể hơi) lửa (nhiệt độ).  Bốn thứ nầy thuộc về vật chất. Còn một thứ không phải vật chất mà nó thuộc về tinh thần. Trong Kinh thường gọi là thần thức hay tâm thức. Thuật ngữ chuyên môn của Phật giáo gọi chung cái thân nầy là do "Ngũ Uẩn" kết hợp. Khi hội đủ điều kiện thì tạm có ra; khi thiếu nhân duyên thì thân nầy tan rã. Nhưng tan rã cái hình hài thể chất của thân chớ cái yếu tố để tạo thành thì không có mất. Cái nào nó cũng có cái sở nhân của nó. Như da thịt xương gân v.v... sở nhân của nó là đất. Còn chất dung dịch trơn ướt trong người cái sở nhân của nó là nước. Do mượn nước bên ngoài vào mà tạo thành những dung dịch của chất nước thể lỏng bên trong. Nói tóm lại, khi chết (hoại) cái nào trả về sở nhân cho cái nấy. Còn cái thần thức hay nghiệp thức là vô hình nên không có trả nó đi đâu. Tuy vô hình nhưng chính nó là cái chủ động để tạo nên hình hài. Vậy nghiệp thức là gì? Cái gì để biết mà thụ hưởng? Và sự tồn tại hiện hữu của cái nghiệp thức nầy như thế nào?

 

Nghiệp là tên khác của chủng tử (hạt giống) nghĩa là những thói quen do lặp đi lặp lại mà thành. Thói quen thì có thói quen tốt (thiện) và thói quen xấu (ác). Như thói quen cờ bạc, rượu chè, hút sách xì ke ma túy nghiện ngập v.v... Đó là thói quen xấu. Còn thói quen niệm Phật, tụng kinh, đọc sách, đi chùa v.v... đó là những thói quen tốt.  Còn Thức có nghĩa là hiểu biết. Những thói quen xấu tốt nầy được huân tập vào tàng thức trở thành những hạt giống thiện ác. Như vậy, sau khi chết tùy theo cái thói quen tốt xấu mà chúng ta huân tập trong hiện đời nó dẫn chúng ta đến môi trường tốt xấu để tái sanh. Trong Kinh thường gọi là tùy nghiệp mà chiêu cảm thọ sanh. Trong khi chưa tái sanh để nhận một cái thân ngũ uẩn khác, trong giai đoạn nầy thì gọi là thân trung ấm hay trung hữu. Chính cái thân nầy mà người đời thường gọi là cô hồn. Cô là riêng rẽ một mình; hồn là biết. Tuy gọi là thân nhưng nó không có hình thể vật chất như cái thân tiền ấm nầy. Do đó, nên cái thân trung ấm nầy nó cũng biết đói, biết lạnh, biết nóng, biết no v.v... Cũng như hiện tại cái biết lạnh, đói, no, sợ, lo ... đâu phải là do thân biết mà chính do cái tâm biết. Khi ăn uống, rõ ràng là cái thân không biết ngon dở. Vì cái thân là tổng hợp các bộ phận thuộc về vật chất. Đã là vật chất thì thử hỏi làm sao biết được? Vậy cái biết đó phải là tinh thần. Mà cái biết của tinh thần thì nó không bị hạn cuộc vào vật chất. Như khi chúng ta ngồi một chỗ mà lúc đó chúng ta có thể phóng tâm biết khắp hết. Tuy thân thì đang ở Úc mà chúng ta có thể biết rất rõ những phong cảnh ở Việt Nam. Hoặc bất cứ nơi nào khác mà chúng ta đã đi qua, bây giờ chúng ta nhớ lại không sót một chỗ. Thế thì cái biết đó đâu phải ở nơi thân, vì cái thân thì đang ngồi trong nhà ở Úc mà. Nói thế để Phật tử thấy rằng, dù thân nhân của Phật tử chết ở đâu cũng có thể hưởng dụng những phẩm vật mà Phật tử dâng cúng. Vì sau khi chết, cái thân trung ấm có được ngũ thông (thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, túc mạng thông, chỉ không có được lậu tận thông mà thôi). Đã có ngũ thông như vậy, thì cái gì mà họ không biết. 

 

Phật tử cứ yên tâm đừng lo hương linh của người mất không được hưởng dụng vật thực dâng cúng. Tuy nhiên, sự hưởng dụng đó không ai thấy được. Mỗi loài tùy theo nghiệp báo mà có sự hưởng dụng thực phẩm khác nhau. Trong Kinh có nêu ra nhiều cách hưởng dụng thức ăn khác nhau: Đoàn thực, xúc thực, hương thực, tư niệm thực v.v... Đoàn thực là những thức ăn mà hiện chúng ta đang dùng nó hằng ngày để sống. Như cơm, bánh mì v.v... Xúc thực là chúng ta ăn qua sự tiếp xúc của 5 giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Như con mắt thì xem phim ảnh. Còn tai thì nghe các thứ âm thanh hay dở. Hương thực là ăn qua mùi vị của các thứ vật phẩm. Như vậy, các vị vong linh họ hưởng dụng thức ăn bằng hương thực. Khi cúng, Phật tử nên thành tâm và phải hết lòng cầu nguyện. Có như thế, thì người còn và kẻ mất cả hai đều được hưởng dụng ân triêm lợi lạc vậy.   

 

47. Bổn phận của một người tu đối với đất nước quê hương dân tộc như thế nào?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, là một người tu hành khi đất nước lâm nguy, thì trách nhiệm và bổn phận đối với đất nước như thế nào? Nếu con chỉ dốc lòng tu không còn quan tâm đến chuyện thế sự ở quê nhà, thì con có lỗi với tổ tiên tiền nhân đã dầy công dựng nước và giữ nước không? Kính mong thầy khai thị cho chúng con được rõ.

 

Đáp:  Câu hỏi của Phật tử chúng tôi thấy có hai vấn đề rất quan thiết mà Phật tử muốn biết.

 

Thứ nhứt, Phật tử hỏi: Là một người tu hành khi đất nước lâm nguy, thì trách nhiệm và bổn phận đối với đất nước như thế nào?

 

Xin thưa, chuyện tu hành là việc riêng cá nhân của mỗi người. Còn việc tồn vong hưng suy của một đất nước là việc chung mà mỗi cá nhân đều phải có trách nhiệm và bổn phận chung sức gánh vác phát triển và bảo vệ. Không phải tu hành rồi khi đất nước lâm nguy, chúng ta lại dửng dưng khoanh tay ngồi nhìn. Chúng ta đừng quên câu nói: "Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách". Hay câu: "Giặc tới nhà đàn bà cũng phải đánh". Nếu nước nhà bị giặc ngoại bang xâm chiếm, thử hỏi bọn chúng có để yên cho chúng ta gõ mõ tụng kinh tu hành hay không? Hay tất cả đều phải làm nô lệ tay sai cho bọn chúng sai khiến. Lịch sử đã chứng minh cho chúng ta thấy rất rõ điều đó. Bài học sống động nổi bật nhất là bài học lịch sử ở thời đại nhà Trần. Thời nhà Trần là thời hoàng kim của dân tộc và Phật giáo. Các ông vua cai trị đất nước đều là những vị Minh Quân Thiền Sư. Điển hình như bốn vị vua của đầu nhà Trần. Từ vua Trần Thái Tông đến vua Trần Minh Tông, tất cả đều là những vị vua tu hành chứng ngộ lý đạo.

 

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, Mông, vua Trần Thái Tông đã hai lần anh dũng hiên ngang chiến thắng vẻ vang mang lại sự an bình cho đất nước. Trong thời vua Trần Nhân Tông, quân Nguyên đã hai lần kéo quân ồ ạt sang lấn xâm chiếm nước ta. Nhưng lần nào bọn chúng cũng đều bị thất bại ê chề não nề thê thảm. Đó là gì? Đó có phải là do sự đoàn kết trên đưới một lòng của toàn quân dân ta hay không? Chính vì sự đoàn kết quyết chiến đó, chúng ta mới có thể chống lại một đội quân hùng hậu hung hãn ở phương Bắc. Bọn chúng đã bị quân dân ta đánh cho họ đại bại tả tơi tan tành không còn một manh giáp che thân và cũng không còn con đường rút lui. Đó là hai cuộc chiến thắng vẻ vang oanh liệt hùng dũng hiên ngang, dưới sự lãnh đạo anh minh sáng suốt của vua Trần Nhân Tông, đã mang lại cho nước Đại Việt một thắng lợi lịch sử hiển hách huy hoàng. 

 

Đến các bậc Thiền Sư tu hành đạt đạo, các Ngài đều là những vị đóng vai trò cố vấn chỉ đạo cho nhà vua. Thế thì, thử hỏi người tu hành đạt đạo có trốn tránh trách nhiệm đối với quê hương tổ quốc hay không? Hay là các Ngài cũng đã dấn thân vào làn tên mũi đạn để cứu nguy dân tộc. Bởi chính những người tu hành đạt đạo họ thấy thân nầy chỉ là bèo bọt hư ảo giả tạm, do đó, nên họ coi sự sống chết nhẹ như bông gòn in như trò huyễn mộng. Vì họ không còn coi nặng xác thân hư ảo như chúng ta. Hơn nữa, với tinh thần "Bi, Trí, Dũng" của đạo Phật, đã rèn luyện hun đúc cho họ có một ý chí mãnh liệt và dám hy sinh xả thân quên mình vì đại cuộc. Thế thì, không phải tu hành là bỏ phế hết mọi việc không quan tâm gì đến sự hưng vong thành bại của đất nước. Đối với người xuất gia tu hành mà còn có trách nhiệm bổn phận đối với đất nước non sông như thế, hà tất gì là người Phật tử tại gia. Tất nhiên, họ còn phải có bổn phận lớn lao hơn nữa. Nói chung, dù xuất gia hay tại gia chúng ta cũng đừng quên rằng, tất cả đều là công dân của một quốc gia Việt Nam vậy.

 

Thứ hai, Phật tử hỏi: Nếu con chỉ dốc lòng tu không còn quan tâm đến chuyện thế sự ở quê nhà, thì con có lỗi với tổ tiên tiền nhân đã dầy công dựng nước và giữ nước không?

 

Xin thưa ngay là có lỗi rất lớn. Trong đạo Phật có nêu ra hai đế: Chơn đế và Tục đế. Chơn đế là đứng về mặt chân lý siêu xuất thế gian. Nghĩa là một thực thể vượt ngoài đối đãi nhị nguyên. Đã thế, thì không còn gì phải suy nghĩ luận bàn. Tuy nhiên, đứng về mặt Tục đế hay Thế giới tất đàn, tất nhiên là đời sống của mỗi cá thể đều có liên quan mật thiết với xã hội. Tuy Phật tử có dốc lòng tu, đó là chuyện giải thoát riêng cá nhân mình. Còn đối với tổ quốc như đã nói, đó là việc chung của mỗi người dân. Phật tử đừng quên, ân đất nước là một trong bốn ân sâu nặng mà người Phật tử phải hằng tâm ghi nhớ. Người không có tổ quốc tức là không có cội nguồn. Đất tổ quê cha là cội nguồn của chúng ta. Tất nhiên là chúng ta cần phải quan tâm đóng góp xây dựng. Dù Phật tử sinh sống ở đâu, nhưng đối với các bậc tổ tiên tiền nhân đã dầy công dựng nước và giữ nước, là hậu sanh chúng ta cũng phải hết lòng khắc sâu ghi nhớ. Đó là một công ơn rất lớn lao mà các ngài đã dầy công tạo dựng. Chúng ta phải có bổn phận duy trì phát triển và bảo vệ.  Nếu không có các vị đó, thì thử hỏi chúng ta có còn là người Việt Nam nữa hay không? Nếu Phật tử không quan tâm gì đến việc nước nhà tất nhiên là Phật tử sẽ có lỗi rất lớn đối với các bậc tổ tiên tiền nhân. Đâu phải ai dốc lòng tu rồi cũng đều quên hết việc đất nước? Nếu ai tu hành cũng quên hết như thế, thì không biết tổ quốc sẽ đi về đâu?

 

Tóm lại, ngoài bổn phận là người Phật tử tại gia ra, Phật tử còn là một người công dân của đất nước. Đã thế, tất nhiên Phật tử phải có bổn phận quan tâm đến việc tồn vong, hưng suy của đất nước, vì nơi đó đã từng ấp yêu cưu mang Phật tử. Nhờ đó mà Phật tử mới có được một cuộc sống an ổn như ngày hôm nay. Thế thì, tất cả chúng ta đều phải có bổn phận và trách nhiệm tùy theo hoàn cảnh và khả năng mà nhiệt tâm tích cực đóng góp xây dựng bằng mọi cách thế cho quê hương đất nước của chúng ta vậy.

 

48. In kinh ấn tống có nên trình qua quý thầy kiểm duyệt trước không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, khi chúng con muốn ấn tống một quyển kinh dù lớn hay nhỏ, chúng con có nên trình qua quý thầy biết không? Có người nói, nếu không, thì việc in ấn sẽ không có phước. Con không hiểu có phải như vậy không? Kính mong thầy hoan hỷ giải đáp cho chúng con rõ.

 

Đáp: Sự phát tâm in ấn kinh sách là điều rất tốt. Đó là điều mà Phật tử chúng ta nên làm. Tuy nhiên, Phật tử muốn in ấn bộ kinh nào, tốt hơn hết là Phật tử nên trình qua cho chư Tăng, Ni, những vị thông hiểu Phật pháp có trình độ Phật học khá vững chắc để kiểm duyệt trước. Bởi kinh sách lưu hành hiện nay, có lắm người ngụy tạo lộng giả thành chơn. Có những kinh sách nội dung chứa toàn là luận thuyết ngoại đạo mà Phật tử không biết, cứ tưởng là kinh sách của Phật giáo rồi truyền nhau in ấn. Vì thấy trong đó có chữ "Phật" hoặc "Bồ tát", rồi đinh ninh cho là kinh Phật, nên kêu gọi mọi người hùn tiền in ấn phổ biến rộng rãi. Như thế, vô tình người Phật tử tiếp tay truyền bá kinh điển của ngoại đạo mà không hề hay biết. Thật đó là một điều nguy hiểm tai hại vô cùng. Vì Phật tử tại gia đa phần lo bận rộn với công việc mưu sinh nên đâu có thời giờ rảnh rỗi nhiều mà để tâm nghiên tầm học hỏi kinh điển theo hệ giáo lý từ thấp lên cao.  Do vì thiếu hiểu biết nên không thể phân biệt rõ đâu là kinh Phật và đâu không phải là kinh Phật. Nghĩa là chánh tà, chân ngụy không phân biệt rõ ràng. Thế nên, là Phật tử chúng ta nên cố gắng nghiên tầm học hỏi Phật pháp để tránh tình trạng ngộ nhận nầy. Khi in ấn một quyển kinh nào đó, nếu Phật tử chưa hiểu rõ thì nên thưa hỏi với những vị thông hiểu Phật pháp. Nếu in càng, thì sẽ mang trọng tội với Phật pháp vậy.

 

Thỉnh thoảng, tôi thấy có những Phật tử ít tới chùa tu học nên thường hay vấp phải vấn đề nầy. Thế thì dựa vào tiêu chuẩn nào để biết đó không phải là kinh Phật? Xin thưa, chúng ta nên y cứ vào "Tam pháp ấn" hoặc "Tứ pháp ấn" hay "Nhất thật tướng ấn", mà Phật đã dạy. Tam pháp ấn là: "Chư hành vô thường, chư pháp vô ngã và Niết bàn tịch tịnh". Còn Tứ pháp ấn là: "Khổ, không, vô thường và vô ngã". "Nhất thật tướng ấn là chân lý tuyệt đối vượt ngoài đối đãi nhị nguyên". Tại sao gọi là pháp ấn? Bởi đây là những thứ chân lý muôn đời bất di bất dịch. Ấn là in như cái mọc in xuống tờ giấy trắng. Cái mọc như thế nào thì nó in xuống như thế nấy, một mảy may không hề sai lệch. Bất luận kinh điển nào ngoài những pháp ấn nầy thì đó không phải là kinh điển của Phật giáo. 

 

Còn Phật tử nói, có người nào đó nói nếu không trình cho quý Thầy biết, thì việc in ấn sẽ không được phước báo. Người nói như thế có thể có hai lý do: Một là, nếu in ấn kinh sách mà không trình cho chư Tăng, Ni kiểm duyệt trước, lỡ in nhằm kinh sách của ngoại đạo thì quả thật là không có phước báo chi cả. Chẳng những không có phước báo mà còn mang thêm tội lỗi nữa. Hai là, không có sự chứng minh của Tăng, Ni thì cũng không có được phước. Qua hai lý do nêu ra, lý do thứ nhứt là đúng. Còn lý do thứ hai, nếu in kinh sách mà đúng với chánh pháp thì dù cho không có chư Tăng, Ni chứng minh, thì thí chủ cũng vẫn được phước báo. Vì đó là bố thí pháp tất nhiên công đức rất lớn lao. Sao lại nói là không có phước?

 

Tóm lại, khi Phật tử phát tâm in ấn kinh sách thì tôi thành thật khuyên Phật tử nên hết sức cẩn thận. Nếu quyển kinh nào Phật tử còn nghi ngờ chưa hiểu rõ, thì Phật tử nên trình qua cho chư Tăng, Ni, những vị thông hiểu Phật pháp để xem qua. Sau khi duyệt kỹ, không có gì trở ngại, thì Phật tử sẽ in ấn theo sở nguyện của mình.

 

Kính chúc Phật tử thăng tiến mãi trên con đường tu tập và sẽ đạt được nhiều kết quả lợi lạc theo sở nguyện.

 

49. Đi chùa bị cản trở phải ứng xử như thế nào cho đúng?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, khi con xin người chồng đi chùa, thì anh ấy vui vẻ cho đi, nhưng không hiểu sao lúc con trở về nhà, thì mặt anh ta quạu quọ và rồi kiếm chuyện la rầy con. Con không dám đi nữa vì con sợ anh ấy tạo thêm nghiệp. Như vậy, xin thầy cho con biết ý kiến con phải ứng xử như thế nào mà gia đình không bị xáo trộn bất hòa?

 

Đáp: Qua sự trình bày về hoàn cảnh khó khăn đi chùa của Phật tử, thật chúng tôi rất thông cảm và cũng muốn chia sẻ góp chút thành ý cùng với Phật tử đôi điều. Hay nói đúng hơn, Phật tử hãy xem đây là những lời khuyên giải chân thành của chúng tôi. Hy vọng có thể giúp cho Phật tử phần nào để giải quyết trong vấn đề khó khăn nầy.

 

Như Phật tử đã biết, việc cãi vã bất hòa trong gia đình, đó là chuyện thường xảy ra mà hầu như ít nhiều gì gia đình nào cũng có. Tuy nhiên, cường độ xảy ra nặng hay nhẹ, nhiều hay ít là còn tùy thuộc vào việc khéo biết tế nhị cư xử của hai người. Điều quan trọng để giữ được mái ấm hạnh phúc trong gia đình là mỗi người cần phải thành thật "yêu thương, hiểu biết và cảm thông" với nhau. Ngoài ba yếu tố hệ trọng nầy ra, thật khó đảm bảo cho gia đình được êm ấm hạnh phúc. Hầu hết sự xung đột mâu thuẫn cãi vã xảy ra trong gia đình đều do chúng ta thiếu "Tình thương, Hiểu biết và Thông cảm". Có thật sự thương yêu thì không ai nỡ nặng lời hay hành hạ làm khổ đau cho nhau.

 

Theo lời Phật dạy, gia đình là kết quả của một cọng nghiệp. Mỗi thành viên trong gia đình là có mỗi biệt nghiệp khác nhau. Biệt nghiệp là thói quen xấu hoặc tốt riêng của mỗi cá nhân. Vì thế, mỗi người đều có mỗi cá tính và sở thích khác nhau. Như Phật tử thích đi chùa đó là một thói quen tốt. Còn ông không thích đi chùa đó cũng là một thói quen của ông. Tuy ông không thích đi chùa nhưng ông vẫn vui vẻ cho Phật tử đi đó cũng là điều tốt của ông. Mình không nên bắt người khác phải làm theo ý mình. Mình có sở thích nầy thì người khác có sở thích nọ. Bởi căn duyên và sự huân tập chủng tử thành tánh của mỗi người khác nhau. Hiểu thế thì mới thông cảm cho nhau.

 

Phật tử nói, khi Phật tử xin người chồng đi chùa thì anh ấy vui vẻ cho đi, nhưng không hiểu sao lúc Phật tử trở về nhà, thì mặt anh ta quạu quọ và rồi kiếm chuyện la rầy Phật tử. Điều nầy, theo tôi, thì Phật tử cũng nên suy xét kiểm nghiệm lại thật kỹ lý do tại sao như thế?  Phật tử nên biết rằng, bất cứ việc gì xảy ra cũng đều có cái nguyên nhân nội tại của nó. Dù đó là nguyên nhân gần hay xa. Có những nguyên nhân gây ra hơi xa mà Phật tử quên không để ý. Những nguyên nhân đó có thể là do nơi thái độ, hành động hoặc lời nói bất cẩn khiếm nhã của mình, làm cho người khác cứ mãi ôm ấp trong lòng sự hờn giận bực tức mà mình không hề quan tâm hay biết. Phật tử thử nghĩ, nếu không có lửa thì làm sao có khói? Tôi khuyên Phật tử nên chịu khó suy xét tìm hiểu kỹ rõ vấn đề. Nếu ông ta thật sự khó khăn hay có ác cảm, thì tại sao khi Phật tử xin đi chùa thì ông ta lại vui vẻ cho đi? Đã vui vẻ cho đi thì tại sao khi Phật tử trở về thì ông lại có thái độ hằn hộc quạu quọ như thế? Người xưa nói: "Tiên trách kỹ hậu trách bỉ". Nghĩa là trước phải trách mình rồi sau mới trách người. Phật tử nên kiểm điểm lại lỗi mình trước. Xem mình có thái độ, lời nói, hoặc làm điều gì đó mà gây ra cho ông ta bực mình tức giận khó chịu hay không? Nhiều khi, mình nghĩ mình đi chùa là mình biết tu hành, còn người khác không đi chùa thì mình lại tỏ thái độ coi thường và cho họ là không biết tu hành như mình. Điều tế nhị nầy có đôi khi mình không để ý. Nếu thế, chứng tỏ là mình chỉ biết đi chùa chớ chưa biết tu. Tu là phải thường xuyên quán chiếu lại mình để sửa đổi chuyển hóa những lỗi lầm ở nơi ba nghiệp: "Thân, Ngữ, Ý". Nghĩa là phải dẹp bớt tham, sân, si v.v... Thế mới gọi là tu.

 

Trong trường hợp của Phật tử, Phật tử thử xét lại việc đi chùa của Phật tử từ trước tới nay như thế nào. Phật tử đã đi chùa nhiều lần hay chỉ mới đi lần đầu. Nếu đã đi nhiều lần thì những lần trước ông có tỏ thái độ quạu quọ la rầy như thế không? Và nếu chỉ mới đi lần đầu thì Phật tử xét lý do tại sao mà ông nổi cáo la rầy như thế? Khi Phật tử xin đi ông có thật sự vui vẻ không? Hay là lúc Phật tử xin đi thì ông đồng ý trong sự hờn lẫy. Trước đó Phật tử có làm gì phật lòng gây cho ông buồn phiền không? Nghĩa là Phật tử nên xét lại mình trước. Biết đâu Phật tử đã làm điều gì đó gây cho ông bất mãn buồn phiền nên hôm nay ông mới có thái độ giận trách như thế. Phật tử nên nhớ, việc tu hành hay đi chùa đó là việc riêng của mình. Không phải vì việc riêng mà mình lại bỏ phế việc chung. Việc chung đó là bổn phận và trách nhiệm bảo vệ mái ấm hạnh phúc gia đình. Có đôi khi vì nghĩ đến việc riêng cá nhân của mình nhiều quá mà làm cho người khác phải bực tức khó chịu. Lẽ ra, người biết tu hành thì sẽ đem lại cho gia đình có nhiều hạnh phúc an vui, nhưng ngược lại chẳng những không có hạnh phúc an vui mà còn gây thêm sự bất hoà đổ vỡ tan nát. Có biết bao gia đình đã vấp phải lỗi lầm nầy. Nếu như trong gia đình cả hai người chồng và vợ đều biết tu hoặc cùng nhau đi chùa tu học, thì điều nầy tương đối còn có dễ thông cảm hiểu biết nhau hơn. Ngược lại, trường hợp của Phật tử thì lại khác.

 

Khi quán chiếu biết rõ nguyên nhân, nếu như Phật tử xét thấy mình có lỗi lầm gây ra làm cho ông ta bực bội khó chịu, thì Phật tử nên dùng lời nhỏ nhẹ hòa nhã để thành thật xin lỗi ông. Người biết tu là người khéo biết dùng lời ái ngữ và lắng nghe. Đó là noi theo hạnh nguyện  cao cả tuyệt vời của Bồ tát Quan Thế Âm. Khi một người nói thì người khác phải chịu khó lắng nghe. Lắng nghe trong sự yêu thương và trầm tỉnh. Có thế thì mới thực sự hòa giải và xây dựng hạnh phúc gia đình. Tục ngữ có câu: "Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Hay "Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe". Cũng một lời nói và một thái độ nếu chúng ta khéo biết cư xử êm dịu hòa nhã thật lòng với nhau thì sẽ đem lại niềm an vui hạnh phúc cho nhau. Bằng ngược lại, thì chỉ gây thêm cho nhau sự đau khổ mà thôi.

 

Cách hay nhứt trong trường hợp của Phật tử là Phật tử nên khéo léo ứng dụng theo lời Phật dạy để xử sự bằng tất cả tấm lòng thành thật, hòa ái, yêu thương đối với người chồng của mình. Đồng thời, cũng nên nói rõ về nguyện vọng của mình để cho ông hiểu và thông cảm. Ngược lại, ông cũng phải tôn trọng cái sở thích hay thói quen tốt của người vợ mình. Nghĩa là cả hai cần phải thiết lập truyền thông bày tỏ với nhau trong tình yêu thương thực sự. Có thế, thì mới có thể cảm thông và tháo gỡ những gút mắc nội kết mà lâu nay hai người chưa có dịp nói ra để tìm cách tháo gỡ. Đừng vì tự ái thỏa mãn cho cái lợi ích cá nhân mình mà làm cho người khác phải khó chịu tức giận. Dù đó là một sự lợi ích của vấn đề tâm linh. Bởi cuộc sống cần có sự hỗ tương đồng cảm với nhau giữa hai người. Sự đồng cảm hỗ tương đó tất nhiên là phải được xây dựng trên nền tảng yêu thương. Đó là phương cách để giữ vững mái ấm hạnh phúc gia đình. Nếu vì việc đi chùa mà gây thêm sự rắc rối phiền phức không vui trong gia đình thì thử hỏi đi chùa đâu có lợi ích gì?! Một khi ông đã hiểu rõ nguyện vọng thiết tha của Phật tử rồi, thì chắc chắn là ông sẽ thông cảm hoan hỷ để cho Phật tử được tròn ý nguyện. (Theo các chuyên gia về khoa tâm lý cho biết, bản chất chung của phái nam bao giờ họ cũng có tấm lòng hỷ xả độ lượng bao dung và dễ tha thứ hơn phái nữ. Họ không có cái tâm ích kỷ hẹp hòi cố chấp bảo thủ thù ghét dai như phái nữ. Và bất cứ người đàn ông nào cũng thích cách đối xử mềm mỏng tế nhị và lời nói ngọt ngào êm dịu của người đàn bà"). Tuy nhiên, muốn được thế, thì Phật tử cũng nên làm tròn trách nhiệm bổn phận của một người vợ hiền và một người mẹ tốt trong gia đình.

 

Kính chúc Phật tử luôn được an vui hạnh phúc và chóng đạt thành sở nguyện.

 

 50. Tượng Phật để trong tủ kiếng có lỗi không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, con được con cháu tặng cho nhiều tượng Phật. Con đã thờ các vị đó trên bàn thờ, còn số tượng còn lại, con chưng bày trong tủ kiếng. Như vậy xin hỏi con có tội hay không?

 

Đáp: Xin thưa, Phật tử chưng bày như thế thì đâu có tội lỗi gì. Tuy nhiên, Phật tử không nên chưng bày các tôn tượng Phật hay Bồ tát xen tạp với những đồ vật linh tinh khác. Vì như thế, thật khó coi và mất đi sự tôn kính. Nếu như Phật tử chưng bày các tôn tượng trong một hay hai ngăn tủ (tùy theo các tôn tượng nhiều ít) thì tốt nhứt. Chưng bày như thế thì vừa trang nhã đẹp mắt mà cũng vừa có sự tôn kính các Ngài. Tuy vẫn biết Phật tử chỉ chưng bày thôi chớ không phải là để thờ. Nhưng chúng ta cũng nên đặt các Ngài vào một vị trí riêng biệt. Tượng Phật hay Bồ tát chưng bày trong tủ kiếng thì tránh được bụi bặm bám vào. Như thế thì tốt chớ có sao đâu. Đâu có tội lỗi gì mà Phật tử phải ngại ngùng lo sợ. Chỉ sợ khi nào Phật tử đặt các Ngài vào một vị trí bất tịnh hay để bừa bãi, như thế mới là có tội. Đó là mang cái trọng tội thất kính. Thật ra, người ta điêu khắc đúc tạo tượng Phật hoặc Bồ tát với mục đích là để cho chúng ta tôn thờ chớ không phải là để chưng bày. Bởi chưng bày mang tính cách triển lãm để cho mọi người thẩm quan chiêm ngưỡng thưởng thức đó thôi. Nhưng sự chưng bày nầy người ta thiết kế trang hoàng ở một khung cảnh đặc biệt. Bởi đó là kết quả của một công trình điêu khắc tác tạo đầy tính chất thẩm mỹ nghệ thuật. Trường hợp của Phật tử chỉ vì không còn chỗ để tôn thờ, nên mới chưng bày như thế. Vì Phật tử  muốn giữ lại để làm kỷ niệm của con cháu hiến tặng. Điều đó rất tốt không có gì là tội lỗi cả.

 

51. Bị tam tai niệm danh hiệu Phật có giải được nạn không?

 

Hỏi:  Kính thưa thầy, con năm nay 39 tuổi, người ta nói là con bị tam tai, nghe thế, trong lòng con luôn bất an, con thường niệm danh hiệu Phật A Di Đà, không biết con có được giải nạn không? Con đã quy y Tam bảo rồi, con có được cúng giải hạn tam tai không? Kính xin thầy giải đáp cho con rõ.

 

Đáp: Trong câu hỏi của Phật tử chúng tôi thấy có ba vấn đề hệ trọng liên quan đến niềm tin mà Phật tử thắc mắc nghi ngờ. Thứ nhứt, Phật tử nghe người ta nói tuổi của Phật tử năm nay 39 là cái tuổi bị nạn tam tai, nghe vậy Phật tử đâm ra hoang mang lo sợ bất an.

 

Qua điều thắc mắc nghi ngờ nầy, chứng tỏ Phật tử chưa có đủ niềm tin về lý nhân quả. Bởi chưa hiểu rõ về nhân quả nên Phật tử mới đâm ra hoang mang lo sợ bất an như thế. Mặc dù Phật tử đã tu theo Phật, nhưng Phật tử không tin lời Phật dạy mà lại tin vào người khác nói. Thử hỏi người nói đó có hơn Phật, Bồ tát hay các bậc Tổ sư  không? Đã không hơn thì tại sao Phật tử lại tin vào lời nói vô căn cứ của họ? Tam tai là gì? Phật tử có hiểu tam tai chưa? Người nói đó họ dựa vào đâu mà dám nói cái tuổi 39 là bị tam tai? Như vậy hễ ai đến tuổi 39 là đều bị tam tai hết sao? Mà đã bị tam tai thì đâu có ai vượt qua khỏi cái tuổi ba mươi chín. Thế là cả nhơn loại tới tuổi đó đều phải bị tam tai chết hết. Nhưng thực tế hiện nay người ta đang lo sợ về tình trạng nhân mãn. Vì nhơn loại đông quá thì làm sao trái đất có thể dung chứa hết và tất nhiên là sẽ không thể cung cấp đầy đủ thực phẩm cho chúng ta dùng? Do đó, nên người ta phải hạn chế bớt việc sanh sản để tránh tình trạng nhân mãn.

 

Người Phật tử vì thiếu học hỏi về Phật pháp, nhất là về lý nhân quả, nên dễ bị người ta gạt gẫm hù dọa. Tam tai nói đủ là Tam tai kiếp. Trong Kinh có nêu ra hai loại Tam tai: Tiểu tam tai và Đại tam tai. Tiểu tam tai gồm có ba tai ách: 1. Đao binh tai (dùng hung khí sát hại lẫn nhau). 2. Tật dịch tai (bệnh truyền nhiễm lây lan). 3. Cơ cẩn tai (do hạn hán sinh ra đói kém). Ba tai nạn nầy nếu có xảy ra thì đâu phải chỉ có một mình Phật tử gánh chịu, mà tất cả nhơn loại đều phải chịu chung số phận, bởi đó là cọng nghiệp không ai tránh khỏi. Trong quyển Từ Điển Phật Học Huệ Quang, Tập 5, trang 4165 có nêu ra Tiểu tam tai và Đại tam tai như sau: Về Tiểu tam tai thì gồm có:

 

a. Cơ cẩn tai: Tuổi thọ con người từ 84000 tuổi cứ một 100 năm giảm một tuổi, giảm đến khi 30 tuổi thì trời hạn hán không mưa, cây cỏ không mọc, vô lượng nhân dân ở thế gian bị đói kém mà chết.

 

b. Tật dịch tai: Khi tuổi thọ con người giảm xuống còn 20 tuổi thì các thứ bệnh xuất hiện, vô lượng nhân dân ở thế gian bị mắc bệnh mà chết.

 

c. Đao binh tai: Khi tuổi thọ con người giảm xuống còn 10 tuổi thì mọi người sinh ra sự tranh đấu, tay cầm cỏ cây cũng biến thành dao gậy, tàn hại lẫn nhau, vô lượng nhân dân ở thế gian bị chết bởi đao binh.

 

Còn Đại tam tai gồm có ba tai ách lớn: Hỏa tai, thủy tai,  phong tai.

 

a. Hỏa tai: vào kiếp Hoại thì có 7 mặt trời xuất hiện, mặt đất và núi Tu di dần dần bị sụp đổ, nước trong 4 biển lớn lần lượt cạn hết, cõi Dục và các tầng trời Sơ thiền đều bị thiêu hủy, không còn sót lại gì.

 

b. Thủy tai: Từ cõi Sơ thiền trở xuống trải qua 7 lần hỏa tai thì thế giới lại thành. Vào thời Hoại kiếp dần dần có mưa lớn, hạt nước lớn như bánh xe, lại có thủy luân dưới đất bắn vọt lên, từ cõi Dục đến tầng trời Nhị thiền đều bị ngập lụt, tất cả đều hoại diệt, như hạt muối bị tan trong biển nước.

 

c. Phong tai: Từ cõi Nhị thiền trở xuống trải qua 7 lần thủy tai, lại trải qua 7 lần hỏa tai phá hoại cõi thế gian, đến khi thế giới hình thành trở lại, rồi đến kiếp Hoại, từ lớp phong luân phía dưới có gió mạnh nổi lên, cộng với sức nghiệp của chúng sinh đã hết cho nên nơi nào cũng nổi gió, từ cõi Dục cho đến các tầng trời Tam thiền thảy đều bị gió đánh bạt, sạch hết không còn gì.

 

Đó là Tam tai mà chúng tôi lược dẫn trong Kinh điển đã nói, để cho Phật tử thấy rằng, khi mà Tiểu Tam tai và Đại tam tai xuất hiện, không phải chỉ có ở thế gian nầy thôi mà cả đến các tầng trời cũng đều bị hủy diệt. Như thế thì đâu phải chỉ có một mình Phật tử ở cái tuổi 39 mới bị tam tai như thế. Thế thì, Phật tử cứ yên tâm đừng lo sợ về vấn đề tam tai nầy nữa.

 

Thứ hai, Phật tử nghi ngờ rằng, hiện Phật tử thường niệm danh hiệu Phật A Di Đà, không biết Phật tử có giải hạn được không? Xin thưa ngay là chẳng những Phật tử được giải nạn mà còn tiêu trừ vô lượng tội chướng nữa. Tuy nhiên, với điều kiện là Phật tử phải hết sức chí thành tha thiết niệm hồng danh sáu chữ Di Đà, và phải tịnh niệm nối luôn không xen hở gián đoạn, thì nạn chướng nào cũng đều tiêu tan hết. Bởi danh hiệu Phật A Di Đà có vô lượng công đức bất khả tư nghì. Phật tử chuyên tâm trì niệm không luận thời gian và nơi chốn lúc nào Phật tử cũng hằng nhớ đến Phật. Được thế, thì đâu còn gì phải lo sợ nạn chướng, vì hiện tiền Phật tử đã được an định và sau khi mạng chung Phật tử sẽ được Đức Phật A Di Đà và các hàng Thánh chúng tiếp dẫn Phật tử vãng sanh về cõi Cực lạc. Một khi đã được vãng sanh về Cực lạc rồi, thì đâu còn nạn chướng gì nữa mà Phật tử phải lo giải nạn? Phật tử nên nhớ pháp môn niệm Phật không ngoài ba chữ: "Tín, Nguyện, Hạnh". Nói gọn là Phật tử phải "Tin sâu, Nguyện thiết và Hành chuyên". Vì phạm vi trả lời câu hỏi có giới hạn, nên chúng tôi không thể giải thích rộng rãi được. Tôi khuyên Phật tử nên tìm đọc thêm những Kinh sách nói về pháp môn Tịnh độ để Phật tử có thể tìm hiểu cặn kẽ hơn và có đủ tín tâm niệm Phật cầu vãng sanh.

 

Thứ ba, Phật tử hỏi là Phật tử đã Quy y Tam bảo rồi, Phật tử có được cúng giải hạn Tam tai không? Điều nầy, như trên đã nói, Tam tai đâu phải chỉ riêng có mình Phật tử nhận lãnh, mà cả thiên hạ đều phải chịu chung kia mà. Thay vì cúng giải hạn, thì tại sao Phật tử không chịu lo tu hành làm lành lánh dữ? Nếu tất cả thiên hạ ai cũng đều lo làm lành lánh dữ, trì trai giữ giới, niệm Phật tu hành chơn chánh, thì lo gì thiên hạ chẳng được an ổn thái bình và cũng đâu có tai nạn gì nữa để mà cúng bái giải trừ. Thử hỏi ai gây ra tai nạn cho mình? Và ai có quyền giải nạn cho mình? Tai nạn có ra cũng chính do mình gây ra thì tại sao mình không lo tự cởi trói giải nạn cho mình? Chư Phật, Bồ tát hay các vị thần linh không một ai có quyền giáng họa hay ban phước cho mình cả. Phật tử nên biết, họa hay phước đều do mình tạo ra, không ai tạo ra cho mình. Cũng như mình tạo tội gian ác cướp của giết người bị nhà cầm quyền bắt tống giam vào trong lao ngục, thử hỏi mình có đổ thừa cho người khác được không? Trên đời nầy ai ăn nấy no, ai học nấy biết chữ, không ai ăn thế hay học thế cho ai được cả. Tội lỗi ai gây ra thì kẻ đó phải chịu nhận lấy. Đó là luật nhân quả rất công bằng. 

Phật tử đã Quy Tam bảo rồi mà còn nghĩ đến việc cúng kiếng cầu khẩn van xin giải hạn như thế thì quả thật đã trái với lời Phật dạy. Tốt nhứt là Phật tử nên hằng quán chiếu lại tự tâm mình để lo tự giải trừ những thứ phiền não ở nơi tâm mình. Đó mới thực sự là người Phật tử   chơn chánh tu học đúng theo lời Phật Tổ chỉ dạy vậy.

 

Kính chúc Phật tử luôn sáng suốt và có đủ nghị lực vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

 

53. Cúng giỗ ông bà như thế nào, thì ông bà mới được lợi ích và khỏi tội.

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, gia đình và dòng họ con mỗi lần vào dịp cúng giỗ ông bà thường hay giết gà hoặc mua thịt để cúng, hầu hết người Hoa là như vậy (con dân tộc Hoa). Sau khi đọc nghiên cứu kinh sách của Phật giáo thì con đã nhận ra là hồi đó tới bây giờ ông bà ta đã làm sai, con đã góp ý cho ba nhưng ba con cố chấp nói đó là phong tục của ông bà để lại không thể thay đổi và ông cũng không tin vào nhân quả nghiệp báo. Con thấy như vậy rất buồn, vì không biết thì thôi chứ biết rồi mà vẫn còn làm sai con chịu không được. Bây giờ con không biết phải làm sao để cho ba con thay đổi xin thầy hãy giúp con. Cám ơn thầy.

 

Đáp: Qua câu hỏi nầy tôi rất cảm thông cho tấm lòng tốt của Phật tử. Tuy nhiên, Phật tử nên biết, niềm tin không thể ép buộc mà có được. Niềm tin đối với con người rất là hệ trọng. Mỗi người đều có những niềm tin khác nhau. Mỗi người đều có căn duyên và nghiệp quả sai biệt. Thường trong nhà Phật có nêu ra hai loại nghiệp: Biệt nghiệp và Cọng nghiệp. Biệt nghiệp là tập quán hay thói quen riêng của mỗi người. Tập quán nầy là do sự huân tập ở môi trường xã hội mà có. Còn cọng nghiệp là nghiệp chung của nhiều người. Nói cách khác là tập quán phong tục của một cộng đồng. Như Phật tử nói, dòng họ của Phật tử mỗi khi cúng giỗ thì ông bà thường hay giết gà hay mua thịt để cúng, hầu hết người Hoa là như vậy. Đây là một tập quán chung của cộng đồng người Hoa. Tập quán nầy do từ ông bà tổ tiên truyền lại. Tuy nhiên, không có tập quán nào là cố định cả. Bởi tập quán cũng do con người tạo ra mà thành. Thế thì ta cũng có quyền cải đổi tập quán, nếu xét thấy tập quán đó lỗi thời không còn phù hợp với thời đại văn minh tân tiến nữa. Nhất là không phù hợp cho đời sống hướng thượng đạo đức tâm linh của ta. Nếu duy trì một tập quán mà có hại cho ta và rộng ra là cho cả nhân quần xã hội thì, ta nên cương quyết mạnh dạn dứt khoát từ bỏ tập quán đó.

 

Hiện chúng ta đang sống trong thời đại văn minh khoa học, những tập tục nào còn mang tính cách mê tín dị đoan, chắc chắn tập tục đó sẽ bị đào thải, vì không thể tồn tại dưới ánh sáng văn minh chiếu soi của khoa học. Đạo Phật dạy ta, một niềm tin không điều động bởi lý trí sáng suốt thì đó là niềm tin mù quáng phản chân lý. Thay vì giết hại sinh vật để cúng tế gây thêm nghiệp sát cho ta và cho ông bà ta, thì tại sao ta không cúng bằng những thực phẩm chay thuần khiết, nó vừa đơn giản mà cũng không có gây ra tội lỗi. Như thế thời cả hai kẻ còn và người mất đều có lợi lạc vậy.

 

Cúng giỗ tổ tiên ông bà là một tập tục thuần mỹ cao đẹp, bởi đó là một truyền thống văn hóa cổ truyền của một dân tộc mà chúng ta cần phải có bổn phận duy trì. Thật ra ngày kỵ giỗ chẳng qua đó là một kỷ niệm nhằm để tưởng nhớ đến thâm ân của người đã khuất. Mục đích cũng là để nhắc nhở cho những người còn sống nên noi theo tấm gương tốt của người đã mất. Và đó cũng còn là để bày tỏ mối dây tình cảm thiêng liêng giữa người sống và người chết. Đã là kỷ niệm thì đâu cần phải sát sanh hại vật cúng tế bày biện linh đình. Thực tế, thì có ông bà nào hiện về hưởng dụng những thứ đó đâu. Thử hỏi một năm con cháu mới cúng cho ông bà ăn một lần, vậy thì còn lại 364 ngày khác ông bà ăn uống ở đâu? Nếu không có ai cúng thí thì ông bà chắc phải đói khát. Như vậy, vô tình chúng ta lại bỏ đói ông bà của chúng ta rồi. Thật ra, đâu có ông bà nào phải chịu đói khát chờ đợi một năm mới được hưởng dụng của con cháu cúng cho ăn một lần. Giả như khi cúng mà ông bà hiện về ăn uống thì chúng ta nghĩ sao? Chắc là ai nấy cũng đều khiếp đảm run sợ mà bỏ chạy trốn hết. Thế thì, cuối cùng ai là người hưởng thụ những vật thực cúng đó? Tất nhiên là ta và thân nhân bạn bè thân thuộc của ta. Viện cớ là cúng cho ông bà rồi giết hại nhiều sinh vật để con cháu thân nhân bạn bè tiệc tùng ăn nhậu thỏa thuê cho khoái khẩu. Như vậy, kể ra cũng thật đáng xót thương và tội nghiệp cho ông bà ta lắm! Nghĩa là ông bà không có ăn được gì mà phải chịu mang tai tiếng và thậm chí còn phải chịu tội vạ lây nữa. Thay vì ông bà được siêu thoát thì ta lại tạo thêm nghiệp sát làm cho chúng sinh phải đau khổ vì mình. Như vậy thử hỏi có lợi ích gì không? Hay là chỉ làm khổ thêm cho ông bà của chúng ta mà thôi! Còn sống không cho ăn đợi đến sau khi chết rồi làm cổ tiệc linh đình để cho ai ăn? Nếu mình thật sự thương ông bà cha mẹ của mình thì mình không nên làm cho ông bà cha mẹ mình phải chịu thêm nhiều khổ lụy. Nếu mình và họ hàng thân thuộc chưa có thể ăn chay được, thì mình cũng có thể nấu cúng cho ông bà một mâm cơm chay riêng. Còn phần mình và họ hàng bạn bè thân thuộc tùy ý muốn đãi như thế nào cũng được. Như thế, ông bà sẽ khỏi mang tiếng là vì ông bà mà mình sát sanh hại vật. Tội ai gây thì người đó phải chịu nhận lấy. 

 

Nhờ học hỏi giáo lý Phật dạy nên Phật tử đã ý thức được việc sát sanh hại vật là một trọng tội. Do vậy, vì thương cha nên Phật tử mới khuyên cha thay đổi việc cúng đó bằng cách là đừng giết hại sinh vật nữa. Nhưng rất tiếc là người cha không chịu nghe và ông cũng không tin nhân quả nghiệp báo. Thế là Phật tử mới đâm ra âu lo buồn lòng! Điều nầy chứng tỏ Phật tử là người con có hiếu không muốn cho cha mình phải gây thêm tội sát sanh mà phải mang tội khổ. Nhưng xin thưa với Phật tử, trong Kinh có nêu ra một hạng chúng sinh gọi là Nhứt xiển đề, Trung Hoa dịch là Bất tín cụ. Nghĩa là hạng người nầy họ không có đủ niềm tin. Như Phật tử đã nói, ông thân của Phật tử không tin vào nhân quả nghiệp báo. Một người khi đã có định kiến cố chấp như thế, muốn chuyển hóa họ bỏ đi một định kiến sai lầm thì thật không phải là chuyện dễ dàng. Vì lúc nào họ cũng bảo thủ cái định kiến của họ. Điều nầy tôi thành thật khuyên Phật tử nên cố gắng kiên nhẫn, đừng bao giờ tỏ thái độ mình là người hiểu đạo rồi khuyên ông phải làm như thế nầy hay như thế kia. Tuy bây giờ ông chưa tin vào luật nhân quả báo ứng, nhưng hạt giống Phật trong tâm của ông vẫn luôn hiện hữu. Khi cơ duyên đến thì chắc chắn là ông sẽ hồi tâm chuyển ý hướng thiện làm lành. Chừng đó biết đâu ông sẽ phát khởi tín tâm còn mạnh hơn Phật tử nữa. Bởi cuộc sống ở thế gian là một chuỗi dài đau khổ. Một khi ông đã nghiệm rõ ở nơi bản thân cũng như những hoàn cảnh chung quanh không có gì thoát ngoài nhân quả, hy vọng chừng đó ông sẽ thức tỉnh tu hành làm lành lánh dữ và ông sẽ không còn gây tạo nghiệp sát nữa. Điều quan trọng, thay vì Phật tử khuyên ông, thì Phật tử nên biểu hiện hành động của mình trong nếp sống đạo đức thanh cao đúng theo lời Phật dạy. Như Phật tử trước kia cũng đâu có hiểu nhân quả nghiệp báo là gì, nhưng khi nhân duyên đến thì Phật tử mới thức tỉnh tu hành và ý thức được vấn đề tội lỗi. Vậy thì, tôi thành thật khuyên Phật tử không nên sầu muộn làm gì, vì mỗi người có mỗi biệt nghiệp khác nhau. Nhân duyên nghiệp báo thiện ác của mỗi người thật khó luận bàn hết được. Vì Phật tử hỏi nên tôi xin góp chút thành ý đó thôi. Thật ra lúc nào tôi cũng tôn trọng niềm tin của mỗi người. Tuy nhiên, dù niềm tin nào cũng phải dựa trên nền tảng chân lý nhân quả. Như thế thì niềm tin đó mới thực sự có lợi ích cho mình và người.

 

Kính chúc Phật tử luôn sống trong ánh hào quang của chư Phật.

 

54. Khi đã lỡ gây ra nghiệp ác, nay biết hối cải ăn năn thì còn có tội nữa không?

 

Hỏi:  Kính thưa thầy, con là một Phật tử thường xuyên đi chùa lạy Phật và làm việc từ thiện giúp người. Tuy nhiên, có nhiều lúc do lòng tham lam sai khiến, con không kềm chế được, nên đã trở thành một người phạm pháp bị giam cầm tù tội. Khi vào tù, những lúc yên tĩnh trong đêm khuya thanh vắng, bỗng con nhớ lại lời Phật dạy, con cảm thấy mình thật là xấu hổ. Từ đó, ngày đêm con thành tâm niệm Phật và lạy sám hối ở Multi Faiths Chapel (đây là nơi hành lễ cho mọi sắc tộc). Con đã trả hình phạt của luật pháp thế gian, còn đối với luật nhân quả con có bị tội và giảm đi phần nào không? Kính xin thầy từ bi chỉ giáo cho con.

 

Đáp: Là con người sống trong vòng nghiệp thức vô minh không ai lại không có tội lỗi. Trong Kinh Hoa Nghiêm nói: "Nếu tội lỗi của chúng sinh mà có hình tướng thì cả hư không nầy chứa cũng không hết". Trường hợp của Phật tử tuy có đi chùa lạy Phật, làm việc từ thiện, nhưng vì không kềm chế được lòng dục vọng vô minh sai khiến nên mới tạo ra tội lỗi bị ngồi tù. Phật tử nên biết rằng, việc đi chùa lạy Phật và làm việc từ thiện đó là điều phúc thiện tốt lành, nhưng điều đó chưa hẳn là tu. Bởi tu là phải sửa đổi chuyển hóa vô minh phiền não không gây tạo nghiệp ác. Nhất là phải tu ở nơi ba nghiệp: thân, khẩu ý. Ở đây, Phật tử chỉ làm theo thói quen là đi chùa lạy Phật và làm việc từ thiện mà không có tu hành nên mới gây ra tội ác như thế. Và nay khi nghĩ đến việc lỗi lầm đó, Phật tử cảm thấy rất xấu hổ và muốn cải hối ăn năn những lỗi lầm sai trái đã gây ra nên Phật tử niệm Phật và sám hối. Đó là điều mà Phật tử đã hồi tâm chuyển ý phục thiện rất tốt. Tôi xin tán dương tinh thần cải ác phục thiện của Phật tử, dù đã có chút muộn màng!

 

Phật tử hỏi: Đối với luật nhân quả Phật tử có bị tội và giảm đi phần nào không? Xin thưa, nếu căn cứ theo luật nhân quả, dĩ nhiên, là Phật tử có tội. Và nếu như Phật tử biết thành tâm sám hối, đồng thời phát nguyện chừa bỏ hẳn không tái phạm nữa thì tội kia chắc chắn là sẽ hết. Nếu sám hối mà không hết tội thì chúng ta sám hối để làm gì? Tuy nhiên, Phật tử cần hiểu rõ hai chữ Sám Hối. "Sám" nguyên tiếng Phạn là samma; Trung Hoa dịch là hối quá. Kinh nói: "Sám giả sám kỳ tiền khiên. Hối giả hối kỳ hậu quá". Nghĩa là Sám là ăn năn lỗi trước đã gây, còn Hối là nguyện chừa bỏ lỗi sau. Nói gọn là ăn năn chừa lỗi. Như Phật tử gây tội vi phạm luật pháp đó là nhân. Bị cảnh sát bắt nhốt giam vào trong lao ngục đó là quả. Nhân đã gây thì quả phải lãnh. Không bao giờ có gây nhân mà không có quả. Nay Phật tử biết đó là điều tai hại lỗi lầm quyết ăn năn chừa bỏ không gây tạo nữa. Chẳng những thế, Phật tử còn biết hối lỗi bằng cách niệm Phật sám hối. Như vậy sám hối là nhân, hết tội là quả.

 

Đối với luật pháp thế gian, cũng có sự gia giảm tùy theo tội nhân biết cải hối sửa đổi làm người tốt. Chẳng hạn như tội nhân chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật tốt của trại giam và có những hành vi cử chỉ đối xử thiện hảo với tha nhân. Nói chung, là mọi việc đều cải thiện hoàn lương tốt đẹp, tất nhiên là đương sự sẽ được cấp trên cứu xét mà giảm án. Cải tạo tốt là nhân, giảm án là quả. Nói thế để Phật tử thấy rằng, tất cả đều không ngoài nhân quả. Bởi nhân quả là một chân lý phổ biến nó trùm khắp và chi phối tất cả sự vật. Lớn như quả địa cầu, nhỏ như hạt bụi li ti cũng không thoát ngoài nhân quả. Nếu Phật tử thật tâm sám hối ở nơi ba nghiệp: "Thân, Ngữ, Ý" và quyết không bao giờ tái phạm nữa, tất nhiên, ngang đó là Phật tử sẽ hết tội. Vì tội có ra phát xuất từ nơi ba nghiệp và nay cũng từ nơi ba nghiệp mà Phật tử thành tâm sám hối. Trong ba nghiệp đó phải nói "Ý Nghiệp" là chủ động quan trọng nhứt. Vì lời nói và hành động cũng đều do ý thức ra lệnh sai khiến. Vì vậy, nên nói ý thức là chủ động tạo nghiệp lành dữ. Thiện hay ác, thành hay bại v.v... tất cả đều do nó tạo tác. Công cũng nó mà tội cũng nó. Vì thế nên trong Duy Biểu học gọi nó là: "Công vi thủ tội vi khôi". Nghĩa là luận về công trạng to lớn thì nó đứng đầu. Còn nói về gây ra bao nhiêu tội lỗi nặng nề cũng do nó đứng trước.

 

Cần nói thêm để cho Phật tử hiểu rõ hơn, trong Kinh Phật có nêu ra hai hạng người có sức mạnh lớn. Hạng người thứ nhứt là không tạo tội lỗi. Hạng người thứ hai, khi đã tạo tội lỗi mà biết ăn năn sám hối và quyết lòng chừa bỏ không tái phạm. Phật nói hạng người thứ hai nầy cũng không thua kém gì hạng người thứ nhứt. Nói thế Phật liền nêu ra thí dụ. Thí như cái áo trắng, nếu người nào khéo biết gìn giữ cẩn thận không để cho dính bụi dơ, điều đó là quá tốt. Đó là người khéo biết cẩn mật đề phòng gìn giữ ở nơi ba nghiệp không gây tạo tội lỗi. Đó là hạng người mà Phật nói có năng lực rất lớn trong việc gìn giữ giới cấm. Tuy nhiên, nếu cái áo đã lỡ dính bụi dơ mà chúng ta khéo biết tẩy sạch thì cái áo trắng kia sẽ trở lại như cũ. Phật nói cũng vậy. Một người không tạo tội cũng giống như là khéo gìn giữ cái áo không để dính bụi dơ. Ngược lại, một người khi đã tạo tội mà khéo biết sám hối thì tội kia tất không còn. Như cái áo đã được giặt sạch trở lại. Nếu tội mà còn hoài thì làm sao chúng ta tu hành thành Phật được? Bởi thế trong đạo Phật mới có phương pháp sám hối. Tuy nhiên, khi sám hối tội lỗi đã gây, thì hành giả phải nguyện trọn đời không được tái phạm. Được thế thì tội kia mới không còn.

 

Kính chúc Phật tử nên làm mới lại cuộc đời để được nhiều an lạc.

 

55. Giải thích nhân quả thế nào về họa phúc đắp đổi nhau?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, đời con là một chuỗi dài bất hạnh từ nhỏ cho tới lớn. Vì hoàn cảnh sống khó khăn về tiền bạc, gia cảnh nghèo đói bệnh tật, nợ nần chồng chất, không còn cách nào xoay sở khác, nên con phải làm liều buôn bán nha phiến, không may con bị bắt và nhốt trong lao tù. Ở trong tù con bị bệnh ung thư bao tử, và được chữa trị ở bệnh viện. Sau 4 tháng điều trị tình trạng sức khỏe của con có phần khá hơn, người ta đưa con trở lại vào tù và bác sĩ cho biết con sẽ phải giải phẫu trong một tương lai gần. Nếu bệnh trạng của con xảy ra ở Việt Nam, thì chắc là con không thể nào sống được, vì tiền bạc đâu có mà chạy chữa? Như vậy, con xin hỏi, trường hợp của con họa phúc đắp đổi nhau, thế thì, theo lý nhân quả phải giải thích như thế nào? Kính mong thầy giải thích cho con rõ và cho con lời khuyên.

 

Đáp: Theo luật nhân quả chúng ta gieo hạt nhân nào thì sẽ gặt hái cái kết quả của hạt nhân đó. Không thể gieo hạt giống ớt mà kết quả thành trái cam được. Cho nên nói nhân nào quả nấy là vậy. Tuy nhiên, từ nhân tới quả nó còn đòi hỏi phải có yếu tố thời gian và các thứ trợ duyên khác. Tùy theo những điều kiện tốt, xấu của môi trường mà hạt nhân đó có thể tốt hoặc xấu. Như chúng ta gieo hạt cam đó là chánh nhân, nghĩa là cái nhân chánh để kết thành cây và trái cam. Nhưng nếu chỉ có đơn thuần cái chánh nhân hạt cam không thôi mà không có những trợ duyên khác thì, cái chánh nhân hạt cam kia cũng khó mà sinh thành tăng trưởng. Những điều kiện tốt bao gồm: người chăm sóc đất tốt, phân tốt, ánh sáng, không khí v.v... nói chung là những điều kiện thuận duyên tốt để cho cái chánh nhân phát triển tốt. Thuật ngữ chuyên môn của Duy Thức gọi đó là "Tăng thượng duyên" tốt. Ngược lại, thì sự sinh thành của hạt cam sẽ không được kết quả như ý muốn.

 

Nói thế để Phật tử thấy rằng, việc họa hay phúc, lành hay dữ, tất cả đều không ngoài nhân quả. Nhưng nhân quả có ra cũng do tâm ta tạo lấy. Nếu ta tạo điều lành thì sẽ hưởng quả lành. Ngược lại tạo nhân dữ thì sẽ nhận lấy quả khổ. Lành là phúc, khổ là họa. Họa và phúc thường xuyên xảy ra trong cuộc sống. Là con người khó ai tránh khỏi. Tuy nhiên, phước đến với ta thì ít mà họa đến với ta thì nhiều. Bởi thế, người xưa mới có câu nói: "Phước bất trùng lai họa vô đơn chí". Nghĩa là phước thì không đến hai lần, nhưng họa thì không đi riêng rẽ. Vì sao thế? Bởi trong đời sống, ai cũng muốn mình được giàu sang ăn sung mặc sướng sung túc nên mới tạo ra nghiệp bất thiện. Do đó, nên đời mình phải chịu nhiều hậu quả khổ đau. Như trường hợp của Phật tử, vì hoàn cảnh sống khó khăn, nghèo túng, bệnh tật, nợ nần chồng chất, ở bước đường cùng, túng thế, Phật tử lại liều lĩnh hành nghề buôn bán nha phiến. Vẫn biết việc buôn bán nầy là một họa hại không những cho bản thân, gia đình mà còn liên lụy đến nhân quần xã hội nữa. Hơn thế nữa, việc làm nầy là điều quốc cấm phạm pháp sẽ bị ở tù hoặc bị tử hình. Tùy theo mức độ phạm tội nặng nhẹ mà luật pháp có những hình phạt xứng đáng. Tuy biết như vậy nhưng Phật tử vẫn làm để rồi nay phải chịu ngồi tù thọ án. Đó là cái hậu quả tù tội khổ đau mà do cái nhân buôn bán nha phiến gây ra. Động cơ thủ phạm chính trong vụ nầy chính là do vô minh tham dục thúc đẩy.

 

Từ đó, ta có thể suy rộng ra, sở dĩ hôm nay Phật tử lâm vào hoàn cảnh khó khăn nghèo đói như Phật tử đã nói, thì chính cái quả khổ nầy cũng do Phật tử gây ra những điều tội lỗi bất thiện trong quá khứ. Nay sanh ra đời để phải trả cái quả báo đó. Thay vì an phận trả nghiệp cũ, nay Phật tử lại gây thêm nghiệp mới. Tuy nhiên, như đã nói, trong đời không phải lúc nào mình cũng gây nhân ác hết cả. Cũng có lúc mình cũng gây tạo nhân lành. Như việc thọ án tù tội của Phật tử đó là do gây nhân ác. Mặc dù ở trong tù, nhưng khi bệnh hoạn thì Phật tử lại được chữa trị một cách tận tình của bác sĩ. Đó là trong họa có phúc. Cái phúc nầy biết đâu Phật tử cũng đã từng cứu giúp người ở một hoàn cảnh đau khổ nào đó trong quá khứ hoặc hiện tại. Vì vậy nên nay Phật tử mới có được những cơ may như thế. Thế mới biết, trong họa có phúc mà trong phúc có họa. Phúc là Phật tử được chữa trị ở bệnh viện, nhưng rồi cũng phải trở vào tù thọ án tiếp. Việc họa phúc xảy ra thật khó lường.

 

Cũng đồng thời ở tù nhưng mức độ hành phạt tội nhân tùy mỗi quốc gia có khác nhau. Ở tù trong một nước mà người cầm quyền có lòng nhân đạo, biết yêu thương tôn trọng đồng loại thì, sự hành phạt tương đối có khác hơn ở tù trong một nước thiếu đạo đức tình người. Bởi cách hành phạt đối xử tù nhân của một con người có đạo đức, có lương tâm, dĩ nhiên là khác hơn những con người chứa đầy thú tính. Họ chỉ biết tra khảo đánh đập hành hạ tội nhân có khi mang tật bệnh mà chết. Đó cũng là trong họa có phúc và trong phúc có họa. Bệnh là họa, nhưng được chữa trị tận tâm là phúc.  Ở tù trong một nước có tự do nhân quyền là phúc, ngược lại là họa.

 

Một người đang sống trong sự tự do ấm êm đó là phúc, nhưng lại gây ra tội ác để phải chịu khổ đó là họa. Như vậy, họa hay phúc cũng chính do chúng ta tạo ra mà thôi. Nếu chúng ta cố gắng tu hành làm lành lánh dữ, chuyển hóa thân tâm, thì chúng ta sẽ chuyển họa thành phúc. Ngược lại người không biết tu hành thì phúc hết thành họa. Vì thế, nên Cổ Đức khuyên nhắc chúng ta: "Phước bất hưởng tận". Nghĩa là, người có phước không nên hưởng hết. Bởi họa thì chắc chắn không ai muốn. Không muốn mà gây nghiệp ác thì thử hỏi làm sao tránh khỏi họa? Ngẫm lại, đời sống của chúng ta luôn có nhiều mâu thuẫn. Hạnh phúc thì ai cũng muốn, nhưng gây nhân lành hành thiện nghiệp thì ít ai chịu làm. Còn đau khổ thì ai cũng sợ, nhưng làm ác thì lại không ai chịu tránh. Thế có phải là chúng ta đang sống trong vòng lẫn quẫn mâu thuẫn không? Trong Kinh nói: "Bồ tát thì sợ nhân mà chúng sinh thì sợ quả". Vì Bồ tát biết nhân xấu ác không gây, nên Bồ tát tránh được cái quả khổ. Ngược lại chúng sinh thì không sợ nhân mà lại sợ quả. Lúc gây nhân thì không nghĩ đến hậu quả. Mà dẫu có nghĩ đến đi chăng nữa, nhưng vì bị vô minh dục vọng nó che khuất làm mờ ám tâm trí nên cứ tiếp tục tạo ác. Do lòng ích kỷ tham muốn giàu sang, danh vọng, địa vị... chỉ biết nghĩ lợi cho riêng mình ai chết mặc ai. Đến khi quả báo đến rồi mới than thân trách phận rên rỉ khóc lóc ỉ ôi! Thế là đã muộn màng lắm rồi! Muốn tránh cái họa hại đau khổ hậu quả xảy đến với mình, thì xin mọi người hãy nhớ câu nói: "Phàm làm việc gì trước phải nghĩ đến cái hậu quả của nó". Đây là một câu nói có giá trị ngàn vàng. Mong Phật tử luôn nhớ đến câu nói nầy của người xưa mà làm kim chỉ nam cho đời sống hiện thực vậy.

 

Nếu phải khuyên, thì tôi chỉ xin Phật tử hãy luôn tâm niệm lời dạy sau đây của chư Phật:

 

"Các việc ác chớ nên làm

Nên vâng làm các việc lành

Hằng giữ tâm ý mình cho trong sạch

Đó là lời chư Phật dạy".

 

Kính chúc Phật tử luôn sáng suốt hành thiện và sống một đời sống thật đầy ý nghĩa trong chiều hướng thăng hoa thánh thiện.

 

56. Một người phạm tội bị luật pháp trừng phạt, còn đối với luật nhân quả thì thế nào?

 

Hỏi:  Kính thưa thầy, con phạm tội nhập lậu ma túy vào nước Úc. Con đã bị bắt và bị tuyên án ngồi tù. Con đang thọ bản án của thế gian cũng sắp xong, nhưng con không biết đối với luật nhân quả thì thế nào? Con có phải bị trả quả báo gì không?

 

Đáp: Như trong câu hỏi trên chúng tôi có nói, đối với luật nhân quả không ai thoát khỏi. Dù đó là một ý nghĩ sai lầm cũng có nhân và có quả. Đã thế, nói chi đến lời nói và việc làm. Một lời nói, một việc làm lành hoặc dữ đều có nhân quả báo ứng. Bởi nhân quả là một luật tắc tự nhiên không do ai tạo ra nó. Khác với luật pháp thế gian. Vì luật pháp thế gian là do con người đặt định tạo ra. Thế mà khi chúng ta vi phạm còn không tránh khỏi hình phạt, nói chi đến luật nhân quả. Luật nhân quả tuy vô hình nhưng một mảy may cũng không thoát ra được. Bởi thế mới có câu nói: "Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu". Nghĩa là lưới trời lồng lộng nhưng không lọt một ai. Chẳng qua việc trả quả báo nó đến với chúng ta có mau, có chậm khác nhau đó thôi. Nhưng cuối cùng rồi thì ai cũng phải trả quả cả. Tuy nhiên, trả quả nặng hay nhẹ còn tùy thuộc vào cái nhân mình đã gây. Dù nặng hay nhẹ đã có vay thì phải có trả. Kinh nói: "Giả sử bá thiên kiếp sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời, quả báo hoàn tự thọ". Nghĩa là: Dù cho trải qua trăm ngàn kiếp, những nghiệp nhân lành, dữ mà mình đã gây ra thì không bao giờ mất. Khi nhân duyên đến rồi thì mình phải nhận chịu lấy quả báo mà thôi. Sách Nho cũng nói: "Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, nhược hoàn bất báo, thời thần vị đáo, bình sanh hành thiện thiên gia phúc. Nhược thị ngu ngoan thọ họa ương. Thiện ác  đáo đầu chung hữu báo. Cao phi viễn tẩu dã nan tàng. Hành tàng hư thiệt tự gia tri. Họa phước nhơn do cánh vấn thùy. Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì..." Nghĩa là: "làm lành thì có quả báo lành; làm dữ thì có quả báo dữ. Hiện thời chưa thấy trả quả báo, vì bởi quả báo chưa đến đó thôi. Trong đời sống bình nhựt, nếu chúng ta làm những điều lành thì trời (tự nhiên) sẽ ban (đem) phúc đến cho ta. Còn như người nào ương ngạnh ngang ngược làm những điều phi pháp, tổn mình hại người, tất nhiên người đó phải nhận lấy tai ương họa hại. Làm lành hay làm dữ cuối cùng rồi cũng phải trả, đừng hòng cao bay xa chạy mà có thể trốn thoát được. Việc làm của mình giả dối hay chân thật thì tự mình mình biết. Việc họa hay phúc mình cũng đừng chạy hỏi ai. Sớm hay muộn gì nó cũng đến với mình mà thôi".

 

Thưa bạn, sở dĩ chúng tôi dẫn chứng dài dòng như thế để bạn thấy rằng, hành động phi pháp của bạn, thì bạn đã phải trả cái quả báo hình phạt theo luật pháp thế gian. Còn đối với luật nhân quả, bạn cũng phải trả. Bởi có gây nhân dù trực tiếp hay gián tiếp đều có quả báo cả. Ngay cả một hành động vô tình cũng có quả báo vô tình. Nói chi đến việc làm của bạn là bạn đã cố ý gian dối qua mặt luật pháp thì tránh sao khỏi quả báo. Cái quả báo đến với bạn là do cái nhân bất chánh. Một hình phạt như thế đó cũng là luật nhân quả mà bạn phải trả. Việc nhập lậu ma túy của bạn đó là do lòng tham lam thúc đẩy nên bạn mới khởi ý nghĩ và hành động sai lầm. Giả như bạn không bị bắt, thì số nha phiến nầy sẽ gây ra tác hại cho biết bao nhiêu người đau khổ. Tuy đó là một việc làm gián tiếp, nhưng cũng không sao tránh khỏi cái quả báo. Đây là một tệ nạn của xã hội mà có biết bao nạn nhân đã phải khổ sở vất vả oằn oại vì vấn đề nầy. Tệ hại hơn nữa là có biết bao gia đình tan nát dở sống dở chết cũng vì cái thảm nạn đau thương lớn lao của việc làm nầy.

 

Nếu bạn là Phật tử thì tôi thành thật khuyên bạn nên nghe theo lời Phật dạy. Đối với những việc làm phi pháp có tác hại cho mình và người, thì Phật dạy chúng ta quyết không nên làm. Đã gây nhân bất thiện thì tránh sao khỏi quả báo khổ đau. Bởi nhân và quả chúng bám sát theo nhau như hình với bóng. Hình như thế nào thì bóng như thế ấy. Cũng thế, gây nhân nào thì phải gặt hái quả đó. Tránh nhân thì không có quả. Có lẽ vì một phút vô minh dấy khởi nên bạn mới lỡ gây ra lỗi lầm như thế. Tuy nhiên, trường hợp của bạn đối với luật nhân quả, cụ thể là bạn đã phải trả một cái giá rất đắt rồi. Đó là bạn phải thọ án ngồi tù. Đây cũng là cơ hội để bạn có thể gạn lọc lại tư tưởng. Đồng thời bạn cũng xét lại và thành tâm ăn năn sám hối những gì mà mình đã gây ra. Nếu như bạn ý thức được việc làm sai trái của mình, khi mãn hạn tù ra ngoài, bạn thệ nguyện với lòng là không bao giờ tiếp tục tái phạm nữa. Theo nhân quả thì ngang đó là bạn sẽ hết tội. Vì bạn không có gây nhân thì làm sao có quả?  Bởi nhân quả không phải là cứng ngắc mà luôn luôn có sự linh động chuyển biến. Nếu chuyển nhân xấu thì làm gì có quả báo xấu? Chẳng những chuyển cái chánh nhân xấu ác không thôi mà bạn còn tích cực hành thiện như cứu giúp cho những người khác có cơ hội để họ cai nghiện v.v... Bạn đã gieo nhân tốt như thế thì chắc chắn là bạn sẽ hưởng được cái quả báo tốt đẹp. Nếu nhân không chuyển được và sám hối không hết tội, thì thử hỏi trên đời nầy có mấy ai tu hành mà thành Phật tác Tổ được? Nhờ có chuyển mê khai ngộ nên người tu hành mới thành tựu được đạo quả. 

 

Nói tóm lại, dù hành động của bạn có sai trái lỗi lầm, nhưng nếu bạn biết hồi tâm chuyển ý ăn năn sám hối nguyện từ nay về sau cho đến trọn đời quyết không bao giờ tái phạm nữa, thì tội lỗi kia tất sẽ không còn. Đó là bạn hành động theo nhân quả. Từ nhân xấu ác bạn chuyển thành nhân tốt lành, và bạn hành động theo nhân tốt, tất nhiên là bạn sẽ hưởng quả báo tốt lành. Đó là bạn đã khéo chuyển nghiệp rồi. Nghiệp mà không chuyển được thì không ai tu hành làm gì cho thêm hao hơi mệt sức.

 

Kính chúc bạn sẽ có được một đời sống an vui hạnh phúc do bạn đã quyết tâm làm mới lại cuộc đời. 

 

57. Sử dụng đồng tiền phi pháp cúng chùa hoặc bố thí có lợi ích phước đức gì không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, có người họ chuyên làm những việc phi pháp để có tiền, và rồi họ đem đồng tiền phi nghĩa đó, cúng chùa hoặc bố thí làm việc thiện, như vậy xin hỏi người đó có được lợi ích phước đức gì không?

 

Đáp: Xin thưa ngay là không có phước đức chi cả. Bởi đồng tiền mà họ đem cúng dường hay bố thí đó đều không phải chính do họ tạo ra. Đó là đồng tiền phi nghĩa mà họ đã dùng mánh khóe gian xảo thủ đoạn hay quyền lực để chiếm đoạt của kẻ khác. Hoặc họ buôn lậu nha phiến để thủ lợi làm giàu, ai chết mặc ai. Đó là những đồng tiền dơ bẩn mà họ đã gây ra làm cho biết bao kẻ khác phải đau khổ. Không có vị Phật, Bồ tát hay thần linh nào mà chứng minh cho cái tâm địa độc ác và việc làm sai trái phi pháp tội lỗi đó. Không lẽ đi cướp giựt của người nầy đem cho người khác là có phước hay sao? Nếu thế, thì xã hội loài người sẽ loạn lạc đảo lộn hết, không còn an ninh trật tự chi cả. Nếu hành động đó có phước đức, thì ai cũng đi cướp giựt hoặc làm những điều phạm pháp như buôn lậu nha phiến v.v... Gây bao tội ác làm cho mọi người đau khổ thế là có phước đức hay sao?

 

 Ở đời đâu có chuyện bất công là lấy của người nầy rồi đem cho người khác. Người bị mất của cải hay tiền bạc thử hỏi họ có đau khổ buồn rầu không? ( Dù rằng họ là người giàu có sang trọng. Sự giàu có sang trọng của họ một phần cũng do họ có phước; một phần cũng chính do bàn tay và khối óc của họ tạo ra. Họ cũng phải tốn hao biết bao công sức nhỏ từng giọt mồ hôi nước mắt mới có thể tạo dựng nên. Không phải ai giàu có cũng là làm ác hết. Nghĩ thế là không công bằng, nếu không muốn nói là quá hàm hồ quơ đủa cả nắm ). Ngược lại, người được cho thì vui sướng. Thế thì còn đâu là lẽ phải công bằng? Như thế thì cuộc sống của con người sẽ không còn gì là an ổn hạnh phúc nữa cả. Kẻ được cho thì ngồi đó chờ người ta bố thí. Người mất của thì khổ sở rên rỉ khóc than. Như vậy thì đạo đức lương tâm nhân phẩm của con người có còn không?

 

Một việc làm phi nghĩa như thế thì thử hỏi phước đức ở chỗ nào? Nếu chùa nào nhận những đồng tiền phi nghĩa đó, thì có thể nói là vì chùa đó chưa biết mà nhận đó thôi. Nếu đã biết rồi thì chắc chắn không ai nhận cả. Bởi nếu nhận đồng tiền cúng dường phi pháp đó thì có khác nào nhà chùa đã tiếp tay đồng lõa khuyến khích cho kẻ bất nhân gây thêm tội ác bất nghĩa rồi. Không lẽ Tăng, Ni là những người tu hành chơn chánh lại đi xúi giục người đó làm những việc tội ác bất lương  sao? Còn nếu dùng đồng tiền hay của cải phi nghĩa đó mà đem cho người khác, nếu người đó có lương tâm đạo đức thì chắc cũng không ai thèm nhận. Dù cam chịu nghèo đói khổ sở chớ không ai đồng lõa thỏa đồng tình với những con người làm việc bất nhân ác đức đó.

 

Tóm lại, sử dụng đồng tiền phi nghĩa như Phật tử đã nói, theo tôi, thì người cúng đó sẽ không có được phước đức chi cả. Chẳng những không có phước đức mà kẻ đó còn có thêm tội lỗi nữa. Vì đã dùng mọi cách thế để chiếm lấy tiền bạc của cải của người ta. Đó là một hành động quá tàn nhẫn ác độc không thể nào chấp nhận được. Nếu cho rằng việc làm đó có phước, thì cả thiên hạ sẽ rối loạn hết, vì không còn đạo đức nhân nghĩa chi cả. sách Nho có câu: "Nhân phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ". Nghĩa là làm người mà không có nhân nghĩa đạo đức thì chúng ta không nên giao du gần gũi với hạng người đó. Còn vật phi nghĩa thì ta không nên giữ gìn hoặc đoạt lấy. Vì cất chứa  những đồ vật phi nghĩa đó tất sẽ rước họa hại vào thân. Ta phải hết sức cẩn thận về vấn đề nầy.

 

58. Thân trung ấm như thế nào và tại sao phải thọ thân trung ấm?

 

Hỏi:  Kính thưa thầy, con nghe nói đến, người ta sau khi chết trong vòng 49 ngày phải đọa làm thân trung ấm. Vậy con muốn biết thân trung ấm như thế nào? Và tại sao phải đọa làm thân trung ấm? Kính mong thầy hoan hỷ giải thích cho con hiểu. Thành kính cám ơn thầy.

 

Đáp: Thân trung ấm còn gọi là trung uẩn hay trung hữu. Theo luận Câu Xá quyển 10, thì thân trung ấm có năm nghĩa: ý sinh thân, cầu sinh, ăn hương liệu, trung hữu, sinh khởi.

 

Theo Hòa thượng Thích Thánh Nghiêm giải thích: "Ý sinh thân là do tâm ý cầu cho có tái sinh thân. Cầu sinh là thường xuyên tìm kiếm nơi có thể tái sinh. Ăn hương liệu là tự duy trì mình nuôi sống mình bằng các món ăn thơm tho mình ưa thích. Trung hữu là vào thời gian hóa độ giữa chết và tái sinh. Sinh khởi là xuất hiện sau khi thân đời sống trước chết đi".

 

Thân trung ấm tùy theo cái phước báo do hiện đời tạo nghiệp lành dữ mà sự hưởng phước báo có khác nhau. Nếu thân trung ấm có phước báo thì nó được ăn loại hương liệu tốt. Ngược lại, nếu thân trung ấm vô phước thì nó phải tự nuôi dưỡng bằng thức ăn hôi thối. Nói chung, thân trung ấm thấy được những sự vật mà con mắt thịt của chúng ta không thấy biết được.

 

Về thân trung ấm tồn tại thời gian bao lâu để rồi phải đi tái sinh thọ báo thân khác (hậu ấm), việc nầy có nhiều thuyết nói khác nhau. Có thuyết nói thân trung ấm tồn tại cho tới khi nào tái sinh, dù lâu bao nhiêu cũng gọi là thân trung ấm. Có thuyết nói thân trung ấm chỉ tồn tại có bảy ngày, chết rồi mang một thân trung ấm khác cho đến khi tái sinh rồi mới thôi.

 

Trong các thuyết nói về thân trung ấm, thì thuyết được nhiều người chấp nhận là thuyết của "Đại tỳ bà sa luận", cho rằng thân trung ấm chỉ tồn tại trong vòng 49 ngày. Vì thế nên mới có tục lệ cúng tuần thất cho đến 49 ngày gọi là cúng tuần chung thất cho người đã mất. Trong thời gian từ khi mới mất cho đến 49 ngày các thân nhân của người mất nên làm các việc từ thiện mà hồi hướng siêu độ vong linh cho người quá cố. Tục lệ nầy nghiễm nhiên đã trở thành một truyền thống tín ngưỡng Phật giáo.

 

Theo Kinh nói, có ba loại chúng sinh không thọ trung ấm thân. Một, loại chúng sinh cực thiện, khi bỏ báo thân liền thác sanh về cảnh giới an lành. Hai, loại chúng sinh cực ác (tạo tội ngũ nghịch), khi bỏ báo thân liền bị đọa vào địa ngục. Ba, loại chúng sinh ở cõi vô sắc giới thường xuyên sống trong Thiền định không có sắc uẩn nên không thọ thân trung ấm. Ngoài ra, tất cả đều phải thọ thân trung ấm trước khi tái sinh thọ báo thân khác.

 

Về hình thể vóc dáng của một thân trung ấm tùy nghiệp mà có những báo thân khác nhau. Theo Kinh Đại Bảo Tích quyển 56 (Hội nhập thai tạng), thì thân trung ấm của chúng sinh từ địa ngục có dung mạo xấu xí như củi khô bị thiêu cháy. Thân trung ấm của chúng sinh chuyển từ giới quỷ đói có dung sắc như nước, thân trung ấm của chúng sinh cõi người và cõi trời có dung sắc màu vàng, thân trung ấm của chúng sinh chuyển từ cõi sắc giới có màu trắng đẹp. Do vậy, hình trạng của thân trung ấm có thể có hai tay, hai chân, bốn chân, nhiều chân, hay không có chân đều do hình tướng của chúng sinh ở đời trước mà hình thành. Luận Câu Xá quyển 9 cho biết, thân trung ấm của người thuộc dục giới có thân hình như cậu bé 5,6 tuổi, thân trung ấm của vị Bồ tát ở cõi dục giới có thân hình như người tráng niên với tướng mạo hình dung đẹp đẽ, khi nhập thai và sinh ra đều có hào quang chiếu sáng. Theo Đại thừa Nghĩa Chương quyển 8, chúng sinh ở hai cõi: Dục giới và sắc giới nói chung đều có thân trung ấm.

 

Theo quyển "Giải thích các mối nghi ngờ về vãng sinh Tịnh độ" quyển 2, cũng có hai cách giải thích: Một là vãng sinh Tịnh độ không có thân trung ấm vì sau khi chết lập tức hóa sinh trong hoa sen rồi. Một thuyết khác nói, chúng sinh từ cõi ô trọc nhơ bẩn, sinh vào một cõi thanh tịnh nên có thân trung ấm. Nhưng thân trung ấm đó vượt mười vạn ức Phật độ, chỉ trong thời gian búng ngón tay và thân trung ấm đó được nuôi dưỡng bằng hương thơm cõi Phật.

 

Qua đó cho chúng ta thấy rằng, chúng sinh ở cõi dục và cõi sắc, trong thời gian thọ thân trung ấm chưa quyết định tái sinh về cõi nào. Tùy theo nghiệp lực của thân trung ấm đó mà định hướng cho sự tái sinh của mình. Tùy nghiệp lực thiện, ác mà môi trường tái sinh của một thân trung ấm có những cảnh giới khác nhau. Vì thế, muốn cho một thân trung ấm tốt cũng như hướng tái sinh tốt, thì trong hiện đời chúng ta nên tu tạo nhiều nghiệp lành để hướng tái sinh của chúng ta khi sinh ra ở một cảnh giới tốt đẹp vậy.

 

59. Sau 49 ngày tụng kinh cầu siêu vậy thân trung ấm có được siêu thoát không?

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, thân nhân của con mất, theo lời Phật dạy, phải tụng kinh cầu siêu cho người mất qua bảy cái thất là 49 ngày. Trong thời gian nầy người mất phải thọ thân trung ấm. Vậy sau 49 ngày thân trung ấm của người mất có siêu thoát không? Kính xin thầy giải đáp cho con rõ.

 

Đáp: Như trên đã nói, một người sau khi chết phải thọ thân trung ấm trong thời gian 49 ngày. Theo lời Phật dạy trong thời gian 49 ngày nầy thân nhân của người mất cần phải tu tạo nhiều việc lành để hồi hướng những công đức đó cho hương linh. Trong khi hành thiện lợi mình, lợi người và lợi vật, điều quan trọng là chúng ta phải hết lòng thành tâm trong việc hành thiện đó. Như tụng Kinh, niệm Phật, cúng dường, bố thí v.v... tất cả thân nhân của người mới mất phải gìn giữ trai giới thanh tịnh và chí thành cầu nguyện. Nhờ đó mà hương linh của người mất sẽ được hưởng dụng ít phần công đức. Tuy nhiên, việc siêu thoát hay không, là tùy thuộc vào cái thân trung ấm của người mất. Nếu cái thân trung ấm đó biết hồi tâm chuyển ý cải ác tùng thiện, cải tà quy chánh, và nghe theo lời kinh tiếng kệ thức tỉnh tu hành, cộng thêm việc làm lành tạo phước trong hiện đời, thì thân trung ấm đó chắc chắn là sẽ được siêu thoát. Do đâu mà nói thế? Bởi do căn cứ theo nhân quả mà có thể biết được. Nghĩa là căn cứ ở nơi nhân mà biết được cái quả. Nếu ngược lại những điều trên đã nói, thì thân trung ấm đó thật khó mà siêu thoát. Tất cả thân nhân tu tạo phước lành để hồi hướng cho hương linh đang thọ trung ấm thân đó chỉ là phần trợ duyên một phần nào thôi. Không phải do làm những việc lành đó mà cứu độ cho cái trung ấm thân đó hoàn toàn được siêu thoát như ý mình muốn. Một người trọn đời không tu nhân tích đức, không hành thiện giúp người, chẳng những thế, mà còn gây tạo nhiều nghiệp ác, đến khi chết nhờ người thân siêu độ, thử hỏi làm sao siêu độ cứu thoát được?

 

Theo luật nhân quả, ai gây nấy chịu, ai làm nấy hưởng, ai ăn nấy no, ai học nấy biết chữ, ai tu nấy thành, ai hành nấy đắc. Không thể người nầy thay thế cho người kia được. Một người tạo tội phạm pháp bị giam cầm trong lao ngục, thử hỏi có người thân nào vô đó thay thế được không? Người thân có thương lắm thì cũng chỉ vào thăm và cung cấp chút ít vật dụng thực phẩm, cũng như dùng lời an ủi khuyên lơn vậy thôi. Chớ làm sao thay thế cho sự hành phạt của người đó được. Ý thức được điều đó, tốt hơn hết là mỗi người chúng ta nên tu tạo cho mình có được nhiều lợi lạc ngay trong đời sống hiện tại. Hiện đời có an vui hạnh phúc thì sau khi chết mới có được an vui hạnh phúc. Khổ hay vui cũng chính do mình tạo lấy. Không ai có quyền mang lại cho mình cả. Dù đó là thần linh cũng không thể ban phước giáng họa cho mình.

 

Muốn cho đời sau được tốt đẹp thì hiện đời phải chóng lo tu hành làm lành lánh dữ. Bởi tương lai có ra là do hiện tại quyết định. Hiện tại không tốt đẹp thì thử hỏi tương lai làm sao tốt đẹp được? Cứ theo luật nhân quả mà hành xử ăn ở cho có đạo đức, nhất là đạo đức của một con người. Nếu như chúng ta không muốn sau khi chết thọ trung ấm thân, thì chỉ có cách duy nhất là phải hết lòng niệm Phật cầu sinh Cực lạc. Đó là điều mình phải tự lo cho mình. Ngoài ra, những người thân dù có thương mình đến đâu thì họ cũng chỉ giúp một phần nào trong vấn đề trợ duyên niệm Phật mà thôi. Điều quan trọng nhứt là mình hãy biết thương mình và chính mình phải lo cầu siêu cho bản thân mình chóng được siêu thoát vậy.

 

60. Cha mẹ mất tụng kinh gì để cầu siêu.

 

Hỏi: Kính bạch thầy, cha vợ con vừa qua đời được hai tuần lễ, con muốn tụng kinh cầu siêu cho cha, nhưng không biết phải tụng những bộ kinh nào? Cúi xin thầy chỉ giáo cho con.

 

Đáp: Khi trong gia đình có người thân mất, thông thường người ta hay phát nguyện tụng Kinh Địa Tạng hoặc Kinh Di Đà hay Kinh Vu Lan Báo Hiếu v.v... Điều nầy, còn tùy theo căn cơ, sở nguyện và ý thích của những thân nhân trong gia đình. Nếu Phật tử thấy có nhân duyên thích hợp với bộ Kinh nào thì cứ đọc tụng bộ Kinh đó. Bởi Kinh nào cũng đều do Phật nói cả. Vấn đề không phải ở nơi sự chọn lựa Kinh nào để tụng, mà điều quan trọng nhứt là sự thành tâm thành ý trong khi tụng niệm.

 

Chúng ta không nên có quan niệm rằng phải tụng đọc Kinh Địa Tạng thì người mất mới được chóng siêu thoát. Bởi Kinh Địa Tạng đặc biệt là chuyên dành để cầu siêu bạt độ vong linh cho những người mới mất. Còn như đọc tụng các Kinh khác như: Di Đà hay Vu Lan Báo Hiếu, thì người mất lâu được siêu thoát. Bởi những Kinh nầy sức gia hộ độ trì của chư Phật, Bồ tát không được mạnh mẽ bằng Kinh Địa Tạng. Đó là những quan niệm hết sức sai lầm mà Phật tử chúng ta nên tránh.

 

Có người còn nói, nếu chỉ tụng đọc kinh không thôi mà không có trì chú thì hương linh của người mất cũng khó được siêu thoát. Bởi đọc kinh không có linh nghiệm bằng trì chú. Có người bảo, muốn cho hương linh chóng được thác sanh về cảnh giới an lành thì phải tụng Kinh Pháp Hoa hoặc Kinh Đại Bát Niết Bàn v.v... Người nói như thế quả thật là họ chưa hiểu gì về ý nghĩa của các kinh điển mà Phật nói cả. Đâu phải kinh điển Phật nói ra là chuyên để tụng đọc cầu nguyện siêu độ cho người chết. Nếu vậy, thì còn gì ý nghĩa sự ra đời độ sinh của đức Phật? Bởi đức Phật ra đời là để độ sinh chớ đâu phải để độ tử. Nói chung, đã là kinh Phật thì bộ kinh nào chúng ta cũng có thể tụng đọc được cả. Vì kinh nào cũng có công năng thù thắng là phá trừ mê mờ, vọng chấp, khai thông nguồn tuệ giác cho tất cả chúng sinh, mà thuật ngữ chuyên môn của Phật giáo gọi là: "Chuyển mê khai ngộ".

 

Nếu tụng đọc kinh điển Phật dạy chỉ để cầu siêu cho người chết không thôi, hiểu thế thì thật là oan uổng cho chư Phật lắm! Và như thế thì còn gì là đạo Phật? Chúng ta không nên có những quan niệm hời hợt và hiểu sai lệch đạo Phật như thế. Hiểu thế, thì chúng ta sẽ đắc tội với Phật pháp vậy.

 

Trở lại vấn đề trên, như tôi đã nêu ra những quyển Kinh như: Kinh Địa Tạng. Kinh Di Đà, Kinh Vu Lan Báo Hiếu, tùy Phật tử chọn lựa bộ kinh nào thích hợp để trì tụng cũng đều được cả. Điều quan trọng là khi tụng niệm, Phật tử và những người thân hay bạn bè, tất cả đều phải chí thành tha thiết để tụng niệm. Có thế, thì hương linh của người quá cố mới được có phần lợi lạc vậy. Còn siêu thoát hay không, phần lớn là còn tùy thuộc vào nghiệp nhân của người mất đã gây tạo.

 

Kính chúc Phật tử có đủ niềm tin và trí sáng trong việc hành trì tu tập để có được lợi lạc hạnh phúc trong nếp sống bình nhựt.

 

61. Làm sao để trả lễ khi đã khấn vái?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, lúc trước con sinh em bé xong, con có cầu xin Phật trời phù hộ cho mẹ tròn con vuông, con sẽ ăn chay một tháng. Nhưng thời gian sau nầy, sức khỏe con yếu dần, con đã ăn trả lễ nhưng được 3 ngày thì bệnh rất lâu mới khỏi, con không thể tiếp tục ăn đủ một tháng như đã khấn vái. Cầu xin thầy chỉ dẫn cho con, nếu con không đủ sức khỏe để ăn chay thì con phải cúng bái và trả lễ bằng cách nào? Con thật sự không dám vô lễ với Phật trời nên con xin thầy chỉ dẫn cho con.

 

Đáp: Sự phát nguyện nào cũng đều phát xuất từ tấm lòng chân thành tha thiết. Phần nhiều, người ta vì sự lợi ích cho riêng mình và gia đình mình mà phát nguyện. Trường hợp của Phật tử cũng không ngoại lệ. Vì Phật tử muốn sau khi sanh sản mẹ và con đều được bình an mạnh khỏe, nên Phật tử mới phát nguyện trường chay một tháng. Phật tử đã khấn vái cầu xin Phật trời phù hộ cho mẹ tròn con vuông. Điều cầu nguyện đó tuy có mang tính ích kỷ, nhưng đó cũng là điều tốt. Tuy nhiên, Phật tử không làm đúng theo những gì mà mình đã phát nguyện. Lúc đầu Phật tử cũng muốn ăn chay trọn tháng, nhưng vì bệnh hoạn sức khỏe yếu kém, nên Phật tử mới ăn chỉ có ba ngày rồi ngã bệnh rất lâu mới khỏi. Do đó, Phật tử không thể ăn tiếp tục cho tròn một tháng như lời Phật tử đã khấn nguyện. Phật tử hỏi: "Nếu Phật tử không đủ sức khỏe để ăn chay thì Phật tử phải cúng bái và trả lễ bằng cách nào?"

 

Xin thưa, Phật tử đâu cần phải cúng bái trả lễ, vì Phật trời đâu có ăn hối lộ của ai mà Phật tử phải lo lót cúng bái. Hơn nữa, Phật trời cũng đâu có quở phạt trách cứ Phật tử điều gì, sao Phật tử muốn cúng bái trả lễ? Phật tử đã nguyện mà không giữ tròn lời nguyện hứa của mình thì đó là lỗi ở nơi Phật tử. Đó là lỗi không giữ đúng lời khấn nguyện đối với các bậc tôn kính. Phật tử nên nhớ Phật trời không có bắt lỗi ai cả. Vì đâu có Phật trời nào bắt buộc Phật tử phải khấn nguyện như thế. Do Phật tử vì muốn cho mẹ tròn con vuông mà phát nguyện. Tuy lúc ngã bệnh Phật tử không ăn trường chay tròn tháng được, nhưng khi hết bệnh thì Phật tử cũng có thể ăn tiếp tục để cho tròn lời khấn nguyện của mình. Phật tử thử nghĩ, khi Phật tử hứa với ai điều gì mà Phật tử không làm tròn lời hứa đó, Phật tử có cảm thấy áy náy ray rứt khó chịu không? Đó chỉ là lời hứa thường tình thôi mà lương tâm đạo đức của mình còn không cho phép mình thất hứa, nói chi đến lời hứa với những bậc cao quý tôn kính như Phật trời.

 

Thật ra, ăn chay hay ăn mặn chẳng qua đó cũng chỉ là một thói quen thôi. Có người cho rằng, ăn chay không đủ sức khỏe, đó là một quan niệm thành kiến sai lầm. Người nói đó có thể có hai lý do: Một là, vì duyên nghiệp thói quen ăn mặn của họ khá nặng nên họ không thích ăn chay. Hai là, họ chưa tìm hiểu rõ về phương pháp ăn chay cho đúng cách có nhiều sinh tố dinh dưỡng. Nghĩa là họ chưa biết ăn chay đúng theo phương pháp dưỡng sinh. Nếu như chúng ta ăn chay đúng theo sự chỉ dẫn của phương pháp dưỡng sinh thì, sức khỏe của chúng ta không những không giảm sút mà còn sẽ tăng lên gấp bội, chớ không phải bạt nhược yếu đuối như người ta lầm tưởng. Trừ phi, người ta ăn chay theo kiểu trụi trậm qua loa cho qua bữa. Ăn chay như thế thì thử hỏi làm sao mà có đủ chất dinh dưỡng? Khi thiếu chất dinh dưỡng thì cơ thể mới suy yếu bịnh hoạn. Người chưa quen ăn chay, thì họ cho là ăn chay rất khó. Nhưng khi ăn chay quen rồi họ không chịu nổi mùi tanh hôi của thịt cá. Đó là một sự thật mà ai đã từng ăn chay trường nhiều năm rồi cũng phải công nhận như thế.

 

Phật tử thấy, có nhiều người ăn chay trường từ nhỏ cho đến già mà sức khỏe của họ vẫn tốt. Nếu bảo do ăn chay mà sanh ra bịnh hoạn yếu đuối, vậy thì thử hỏi những người ăn mặn (nói cho đúng là ăn mạng, giết mạng sống loài vật để ăn) họ có đau yếu bịnh hoạn không? Hay là họ còn mang nhiều chứng bịnh nan y nhiều hơn là những người ăn trường chay nữa. Bởi ăn những ngũ cốc rau trái thuần khiết, nó ít có độc tố hơn là các loại thịt cá. Điều nầy, hiện nay các nhà chuyên nghiên cứu thực phẩm phân chất trong các loại thịt động vật đều thấy rõ như thế. Ở đây, không phải đề tài nói về ăn chay và sự lợi ích của nó, nên chúng tôi không có đi sâu vào vấn đề lý giải dong dài. Phật tử muốn hiểu rõ hơn về vấn đề nầy, thì Phật tử nên tìm đọc các sách nói về cách thức chỉ dẫn ăn chay thì Phật tử sẽ được hướng dẫn chỉ bảo nhiều hơn.

 

Còn vấn đề bịnh hoạn đau yếu, đâu phải chỉ riêng gì Phật tử mới có, mà phàm là con người thì ít nhiều gì ai cũng không tránh khỏi. Bịnh là một trong bốn nỗi thống khổ lớn của con người. Sanh, già, bịnh, chết là một quy trình luật định tự nhiên, không có loài nào thoát ra được. Bịnh hoạn đau yếu là một nghiệp quả mà chính do con người đã tạo ra. Chẳng qua khác nhau ở mức độ nặng hoặc nhẹ đó thôi. Theo luật nhân quả hễ có vay ắt phải có trả. Đời nay, sở dĩ mình bị bịnh hoạn đau yếu liên miên là bởi do đời trước hoặc hiện đời mình đã sát hại sinh vật quá nhiều. Như trường hợp của Phật tử đau yếu bịnh hoạn sức khỏe kém như thế, âu cũng bởi do đời trước hoặc hiện đời sát hại sinh vật nhiều nên nay mới bị trả cái quả báo là đau bịnh như vậy. Biết thế, thì mình nên cố gắng làm lành, lánh dữ, trì trai, giữ giới, thường xuyên niệm Phật, ăn năn sám hối, để cho nghiệp chướng tội nặng chóng được tiêu mòn. Nói thế để Phật tử thấy rằng, không phải ăn chay là sức khỏe yếu kém bịnh hoạn đâu.

 

Trường hợp như chư Tăng Ni ở trong chùa có vị trường chay từ thuở nhỏ mãi cho đến khi tuổi già mà sức khỏe của quý ngài vẫn tốt. Có người thọ mạng hơn trăm tuổi mà da dẻ thần sắc vẫn tươi nhuận hồng hào và trí tuệ vẫn luôn minh mẫn sáng suốt. Thế thì có phải ăn chay là sức khỏe yếu kém bịnh hoạn chăng? Dĩ nhiên, ngoài yếu tố trường chay ra, các ngài còn gắng công nỗ lực tu tập công phu thiền định nữa.

 

 Tóm lại, nếu Phật tử không muốn ray rứt khó chịu trong lòng, thì tôi thành thật khuyên Phật tử, thay vì Phật tử ăn chay trọn một tháng như đã khấn vái, nhưng Phật tử vì lý do sức khỏe yếu kém, nên Phật tử  cũng có thể phát nguyện ăn chay kỳ. Nghĩa là một tháng Phật tử nguyện ăn mấy ngày cũng được. Khi Phật tử ăn chay kỳ quen rồi, thì chừng đó Phật tử có thể tiến lên ăn tròn một tháng để giữ đúng theo như lời mình đã khấn nguyện. Ngoài việc ăn chay ra, Phật tử cũng nên tu tạo nhiều phước lành ở nơi ba nghiệp: "Thân, Khẩu, Ý". Nghĩa là Phải làm lành lánh dữ và tùy theo khả năng hoàn cảnh của mình mà làm các việc từ thiện cứu giúp cho những người bất hạnh. Đó cũng là cách để Phật tử tài bồi thêm phước đức có lợi lạc cho mình và người. Như thế, thì cũng rất là tốt. Bởi túc duyên nghiệp quả của mỗi người mỗi khác. Muốn cho tiêu tội sanh phước, thì Phật tử cũng nên thành tâm sám hối. Nhờ đó mà nghiệp chướng của Phật tử mỗi ngày mỗi được tiêu dần và phước lành ngày càng tăng trưởng. Đó là lời khuyên thành thật của chúng tôi.

 

Tóm lại, Phật tử yên tâm không có gì phải lo sợ. Phật tử cố gắng gây tạo nghiệp lành để cho đời sống luôn được an bình và hạnh phúc.

 

Kính chúc Phật tử vạn sự an khang kiết tường như ý.

 

62. Có nên tin vào bói toán và phong thủy không?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con là nữ tuổi nhâm tuất con đang có dự tính mua một ngôi nhà hướng đông nam. Con xem trên sách báo thì hướng nầy không hợp với tuổi con. Nhưng nghe anh bạn là trưởng ban từ thiện mà con tham gia (anh nầy tu rất tinh tấn, đọc rất nhiều kinh sách) nói rằng, hướng nhà không có liên quan gì tới tuổi hết. Họa hay phúc đều do mình gieo nhân và nhận quả. Vậy bạch thầy cho con xin được tỏ tường? Kính chúc thầy sức khỏe luôn dồi dào.

 

Đáp: Vấn đề bói toán hay xem phong thủy đây thuộc về lĩnh vực theo kinh nghiệm tín ngưỡng thuần phát của dân gian. Đối với những vấn đề nầy trong Kinh Di Giáo, Đức Phật đã cấm tuyệt người xuất gia không nên làm. Bởi nó không ích lợi gì cho việc tu học giác ngộ và giải thoát cả. Riêng về phong thủy nó là một học thuyết đã có từ lâu đời. Môn học nầy chuyên nghiên cứu sự ảnh hưởng của hướng gió (phong), hướng khí, mạch nước (thủy) có ảnh hưởng đến đời sống họa phúc của con người. Đây cũng là một môn học rất phức tạp, kết hợp nhiều yếu tố chung quanh vấn đề phong thủy để đoán định sự kiết hung, họa phúc, hanh thông v.v... mà nó thường xảy ra trong đời sống. Vì vậy nó không phải là một vấn đề đơn giản mà ai cũng có thể thông suốt hết được. Thú thật, đây không phải là lĩnh vực chuyên môn của chúng tôi, nên chúng tôi xin được miễn bàn dong dài về vấn đề nầy.

 

Dựa theo câu hỏi của Phật tử và qua lời nói của một người bạn mà Phật tử nói, ông bạn nầy rất tinh tấn tu tập và đọc rất nhiều kinh sách, đã cho Phật tử một kết luận khẳng quyết là vấn đề tuổi tác không liên quan gì đến hướng nhà. Họa hay phúc đều do mình gieo nhân và nhận quả. Qua lời nói khẳng quyết đó, chứng tỏ ông ta là người Phật tử tin sâu vào thuyết nhân quả báo ứng trong nhà Phật. Và niềm tin nầy rất phù hợp với chân lý. Trong giáo lý nhà Phật gọi niềm tin đó là chánh tín hay chánh kiến. Như chúng tôi đã nói, niềm tin đối với con người thật là phong phú đa dạng. Tuy nhiên, bất cứ niềm tin nào cũng phải được đặt trên nền tảng chân lý nhân quả. Có thế, thì niềm tin đó mới thật sự có giá trị và mới được gọi là chánh tín, chánh kiến. Ngược lại, là chúng ta sẽ rơi vào quỹ đạo của mê tín tà kiến.

 

Riêng bản thân chúng tôi, lúc nào chúng tôi cũng tôn trọng niềm tin của mọi người. Ngay cả những người không có một niềm tin vào bất cứ tôn giáo nào. Dù họ không có đặt định niềm tin vào tôn giáo nào, nhưng ít ra họ cũng vẫn có một niềm tin nào đó. Nói thế để Phật tử thấy rằng, đối với người Phật tử chúng ta không thể tin một điều gì mà không có sự chứng nghiệm bởi chân lý nhân quả. Có thể nói, bất cứ hiện tượng nào trên thế gian nầy, cũng không thoát ngoài luật định nhân quả. Giáo lý nhân quả hướng dẫn và đặt định cho con người có một niềm tin vững chắc trên chiều hướng thăng hoa trong cuộc sống. Vì thế, trong nhà Phật có nêu ra sáu lĩnh vực để cho con người dựa vào đó để xây dựng và phát triển niềm tin. Sáu lĩnh vực đó là: "Tin tự, tin tha, tin nhân, tin quả, tin sự và tin lý". Qua sáu lĩnh vực nầy nếu phải giải thích cho cặn kẽ thì rất là dài dòng. Ở đây, chúng tôi chỉ nói qua một cách đại khái sơ lược thôi. Nếu có dịp Phật tử nên tìm hiểu rõ hơn.

 

- Tin tự là tin mình sẵn có tánh Phật. Tuy sẵn có, nhưng vì bị những thứ vô minh phiền não che đậy nên Phật tánh chưa hiển lộ được. Khi vô minh phiền não không còn thì thể tánh thanh tịnh sáng suốt tự tâm  sẽ hiện bày. Như vàng ròng ra khỏi quặng nhơ vậy. Chúng ta tin chắc như vậy thì gọi là tin tự.

 

- Tin tha là chúng ta tin có chư Phật, Bồ tát tức những vị đã thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Nếu là người tu Tịnh độ, thì chúng ta tin có Phật Di Đà và cảnh giới Cực lạc. Nói gọn là chúng ta tin có chánh báo và y báo.

 

-Tin nhân, tin quả là tin rằng mình gieo hạt giống nào thì sẽ kết thành quả nấy. Tin chắc nhân và quả một mảy may không hề sai chạy. Như vang theo tiếng, như bóng theo hình. Tùy hình và tiếng như thế nào thì bóng và âm vang như thế ấy.

 

- Tin Sự là chúng ta tin vào phần sự tướng, vì tướng không ngoài lý tánh mà có. Như tin thế giới Cực lạc do đức Phật Thích ca Mâu Ni giới thiệu là có thật. Bởi lời Phật nói không có giả dối hay lường gạt chúng sanh. Vì Phật là đấng chơn thiệt ngữ, lời Phật nói là Thánh giáo lượng. Nếu hành giả tu theo pháp môn niệm Phật thì tin vào Sự nhất tâm là có thật.

 

- Tin Lý là tin nơi mỗi chúng ta đều sẵn có Lý nhất tâm. Đó là một tâm thể sáng suốt hiện tiền vượt ngoài đối đãi. Đạt được tâm thể nầy gọi là đạt được Lý nhất tâm. Nói gọn, ta tin rằng Lý không ngoài Sự và Sự không ngoài Lý. Thể của vạn pháp là Nhất như. Tất cả đều có chung một thể tánh bình đẳng. Tin như thế gọi là tin "Sự Lý" viên dung vậy.

 

Đó là sáu lĩnh vực mà chúng ta y cứ vào đó để xây dựng củng cố niềm tin thật vững chắc. Tin như thế, là ta tin đúng hướng chân lý. Dựa vào niềm tin đó để ta thể hiện ứng dụng vào đời sống thực tế hằng ngày.

 

Kính chúc Phật tử có một niềm tin đúng theo chánh pháp để được nhiều lợi lạc vậy.

 

 63. Đức Phật Di Đà và cảnh giới Tây phương có thật không?

 

Hỏi: Kính thưa Thầy, con có điều không hiểu xin Thầy từ bi cho con hỏi: Đức Phật Di Đà và cảnh giới Tây phương có thật không?

 

Đáp: Vấn đề nầy, nếu căn cứ vào lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Bổn Sư của chúng ta, thì xin thưa xác quyết là có thật. Đã tin Phật, tất nhiên là ta phải tin vào lời dạy của Phật. Bởi lời Phật nói là Thánh giáo lượng hay còn gọi là đấng Chơn thiệt ngữ. Thử hỏi đã là Phật thì làm gì có chuyện nói dối lường gạt chúng sinh? Đã lường gạt thì sao gọi là Phật? Do đó, ta tin lời Phật dạy là có thật, không có nghi ngờ gì cả.

 

Trong Kinh A Di Đà đức Phật đã nói rất rõ về vấn đề nầy. Đức Phật đã diễn tả về Chánh báo và Y báo một cách rất cụ thể rõ ràng. Về Chánh báo đức Phật giới thiệu đức Phật A Di Đà là vị giáo chủ ở cõi Cực lạc và hiện đang thuyết pháp. Ngoài đức Phật A Di Đà ra còn có các vị Bồ tát và các bậc thượng thiện nhơn đã vãng sanh về Cực lạc. Về Y báo, thì đức Phật đã diễn tả nhiều chi tiết về cảnh giới Cực lạc. Những hiện tượng ao, hồ, đất, đá, hoa, lá, chim, cây, nước v.v... tất cả đều được kết thành bằng bảy thứ báu. Nói chung, đó là một thế giới hay một xã hội được xây dựng do công đức của đức Phật Di Đà tạo nên. Vì vậy, nên gọi cõi đó là Cực Lạc hay Tịnh độ. Đó là đứng về phần sự tướng mà nói. Vì câu hỏi của Phật tử là câu hỏi về phần sự tướng của cõi Tịnh độ. Cho nên, chúng tôi chỉ dẫn chứng trong Kinh A Di Đà nêu ra đại khái để cho Phật tử biết qua. Nếu Phật tử muốn hiểu rõ thêm, thì tôi thành thật khuyên Phật tử nên tìm đọc Kinh A Di Đà cũng như các kinh nói về cõi Tịnh độ qua phần sự tướng. Vì có hiểu rõ lời Phật dạy như thế, thì Phật tử mới không hoang mang hay hồ nghi về cõi Tịnh độ. Đó cũng là phương cách xây dựng một niềm tin vững chắc để niệm Phật cầu sanh về Cực lạc. Nếu không, thì cũng rất trở ngại cho việc vãng sanh của Phật tử sau khi lâm chung.

 

64. Khi người mắc bệnh nan y ở giai đoạn cuối phải xử lý thế nào mới hợp với chánh giáo và phong tục?

Hỏi: Kính Bạch Thầy, Phật tử mắc bệnh nan y giai đoạn cuối hay có thân nhân cao tuổi thì cả gia đình nên có thái độ như thế nào cho đúng chánh pháp và hợp với phong tục Việt Nam, không mê tín, không mang tội bất hiếu và lại thích hợp với môi trường xã hội và y tế của Úc? Ví dụ tắt máy trợ sinh để kéo dài đời sống thực vật của thân nhân có phải là bất hiếu không? Gia đình có nên cởi mở bàn về vấn đề này cũng như hậu sự khi người bệnh còn minh mẫn không? Khi cha mẹ cao tuổi muốn bàn về việc đó, thì con cái có nên né tránh không? Con cháu đồng ý bàn về việc đó có phải là bất hiếu không?

Đáp: Trong câu hỏi của Phật tử chúng tôi thấy Phật tử đã nêu ra năm vấn đề mà Phật tử muốn biết. Qua năm vấn đề đó, chúng tôi xin được lần lượt trả lời đại khái như sau:

 

1. Phật tử thắc mắc, nếu Phật tử có người thân mắc phải chứng bệnh nan y ở giai đoạn cuối hoặc thân nhân cao tuổi thì cả gia đình nên có thái độ như thế nào cho đúng chánh pháp và hợp với phong tục Việt Nam, không mê tín, không mang tội bất hiếu và lại thích hợp với môi trường xã hội và y tế của Úc?

Đối với người mắc phải chứng bệnh nan y ở giai đoạn cuối, nếu bác sĩ đã bó tay không còn phương cách nào chữa trị được nữa, thì thân nhân phải nên chuẩn bị tinh thần và sắp xếp mọi việc cho phần hậu sự. Tuy nhiên việc làm nầy chỉ những người trong gia đình bàn thảo với nhau thôi, tuyệt đối không cho người bệnh nặng sắp lâm chung biết. Điều quan trọng hơn nữa, là những thành viên trong gia đình không nên làm cho người bệnh trái ý nghịch lòng. Bởi ở giai đoạn cuối nầy, bệnh nhân phải chịu đựng sự đau nhức hoành hành của thân xác. Đồng thời, tinh thần của bệnh nhân luôn bị bấn loạn rất hoang mang lo âu sợ hãi. Vì thế, người cận kề chăm sóc không nên có thái độ hoặc lời nói làm cho bệnh nhân phải tức tối buồn giận. Điều nầy, rất ảnh hưởng cho cận tử nghiệp không tốt của bệnh nhân.  Muốn cho cận tử nghiệp của bệnh nhân được tốt đẹp, thì những thành viên trong gia đình cũng như những người đến thăm, tuyệt đối, không nên nói điều gì làm cho bệnh nhân khởi sanh phiền não, mà chỉ dốc lòng khuyên bệnh nhân niệm Phật. Nếu phải nói, thì nên nói những lời hòa ái tốt đẹp đem lại lợi ích cho bệnh nhân.  Tốt hơn hết là nên hướng dẫn khuyên bệnh nhân nên nhiếp tâm niệm Phật cùng với những người trợ niệm. Đây là việc làm rất cần thiết mà những người thân trong gia đình không nên coi thường. Nếu thân nhân trong gia đình hết lòng thương bệnh nhân và muốn cho bệnh nhân sau khi bỏ báo thân sanh về cảnh giới an lành, thì chỉ còn có cách là cùng nhau trợ lực nhiếp tâm niệm Phật mà thôi.

Còn đối với người thân cao tuổi thì bổn phận làm con cháu ta phải hết lòng phụng dưỡng, vì đó là chúng ta đã thể hiện được tấm lòng báo hiếu thâm ân đối với các đấng sanh thành giáo dưỡng. Một mặt, là phải lo cung phụng về phần vật chất trong vấn đề ăn mặc v.v... Mặt khác, là ta cũng phải giúp cho ông bà cha mẹ về phần tinh thần. Phần tinh thần là nên khuyên ông bà cha mẹ tin kính Tam bảo, tu tâm, dưỡng tánh, chí thành niệm Phật... Nhất là ta không nên có thái độ hay lời nói làm cho ông bà cha mẹ phải buồn khổ giận tức vì ta. Đó là một cách báo ân theo tinh thần hiếu đạo mà từ ngàn xưa tổ tiên ta đều quan tâm đề cao thức nhắc con cháu. Bởi tri ân và báo ân là hai đức tánh căn bản của đạo làm người. Mất đi hai đức tánh đạo đức căn bản nầy, thì ta không còn xứng đáng làm người nữa.

Nếu như ông bà cha mẹ già yếu bệnh hoạn mà trong nhà con cháu không thể sớm hôm lo phụng dưỡng được, thì con cháu cũng có thể đưa họ vào trong nhà dưỡng lão. Điều nầy xứ nào cũng có. Riêng ở Úc, thì vấn đề nầy cũng rất tiện lợi cho việc lo lắng chăm sóc. Bởi con cháu vì bận rộn với công ăn việc làm hoặc không có khả năng chăm sóc phụng dưỡng được, nên bất đắc dĩ phải làm như thế thôi, chớ tận thâm tâm, thì không ai muốn như thế cả. Ở nhà, làm sao có đủ phương tiện để lo chăm sóc chu đáo được? Tuy nhiên, như đã nói, đây là một việc làm bất đắc dĩ, kỳ thật theo phong tục của người Việt Nam chúng ta thì, tình trạng nầy xưa nay ít có xảy ra.  Phần nhiều là con cháu để ông bà cha mẹ trong nhà để lo báo đáp phụng dưỡng mà thôi. Đó là một truyền thống văn hóa hiếu đạo cao đẹp lâu đời của dân tộc Việt Nam vậy.

2. Phật tử hỏi: Tắt máy trợ sinh để kéo dài đời sống thực vật của thân nhân có phải là bất hiếu không?

Xin thưa, việc rút ống dưỡng khí tức tắt máy trợ sinh cho bệnh nhân để cho bệnh nhân được ra đi an ổn, điều đó không có gì gọi là bất hiếu cả. Tuy nhiên, thường thì người ta có quan niệm hễ còn nước là còn tát. Đồng ý là như vậy. Nhưng khi nước đã cạn hết rồi thì còn lấy đâu nữa mà tát. Nghĩa là, khi ta biết rõ bệnh nhân không thể nào kéo dài sự sống được nữa thì, dẫu có kéo dài thêm mạng sống như người thực vật thì cũng chỉ làm đau khổ cho bệnh nhân thêm mà thôi. Thật chẳng có ích lợi gì! Thật tình, đâu có ai nhẫn tâm muốn nhìn thấy cảnh tượng người thân yêu thương của mình phải nhắm mắt xuôi tay mà ra đi. Ai cũng muốn kéo dài duy trì thêm mạng sống cho người thân của mình. Nhưng nghiệp trần đã mãn, thì còn kéo dài thêm chi nữa. Thế nên, theo tôi, thì việc tắt máy trợ sinh như Phật tử đã hỏi, thì không có gì gọi là bất hiếu cả. Phật tử đã nói sống mà như người thực vật, thì thử hỏi sống để làm gì? Sự sống đó có khác gì như đã chết rồi, chỉ chưa có đem chôn đó thôi.

3. Gia đình có nên cởi mở bàn về vấn đề nầy cũng như hậu sự khi người bệnh còn minh mẫn không?

Việc bàn hậu sự cho bệnh nhân khi họ còn minh mẫn, theo tôi, thì đây là điều rất cần thiết. Nhưng khi bàn thảo con cháu không nên tranh cãi hơn thua mà tất cả phải tôn trọng thuận theo ý kiến tối hậu của bệnh nhân. Tuy nhiên, vấn đề nầy còn tùy theo quan niệm của người bệnh cũng như của những thành viên trong gia đình. Mặc dù chết là một sự thật, không ai có thể trốn tránh được. Nhưng người ta vẫn sợ khi nói đến cái chết. Ngược lại, khi xưa ông bà ta, có người còn lo sắp xếp việc hậu sự cho bản thân mình trước. Như sắm sẵn cái cổ thọ để trong nhà và quần áo mặc để tẩn liệm v.v... Bởi "sanh ký tử quy" tức sống gởi thác về, là một sự thật mà ta cần phải chấp nhận. Hiểu được lẽ sanh tử thường nhiên, nên có người họ không sợ hãi trước cái chết. Vì đó là con đường cuối nẻo đường trần ai cũng phải đến. Có lo sợ cũng không tránh khỏi. Đó là một đức tính tâm lý đáng kính phục. Có bàn thảo di chúc sắp xếp hết mọi việc, thì người ra đi mới được an thoát nhẹ nhàng. Những thân nhân trong gia đình cứ y theo lời di chúc của bệnh nhân mà thực hiện cho đúng không được trái lời. Vì trái lời di chúc của bệnh nhân rất có ảnh hưởng đến hương linh của người mới mất. Thay vì được vãng sanh như ý muốn, nhưng trái lại vì một niệm sân hận giận tức mà phải bị sa đọa. Điều nầy rất quan yếu mà những người thân trong gia đình phải hết sức thận trọng. Đó cũng là một phương cách mà con cháu trả hiếu cho ông bà cha mẹ vậy.

4. Khi cha mẹ cao tuổi muốn bàn về việc đó, thì con cái có nên né tránh không?

Như đã nói, đây là một việc nên bàn thảo kỹ càng có gì phải tránh né. Vấn đề hậu sự lo phần tang lễ cho cha mẹ cũng là một vấn đề hết sức hệ trọng. Do đó, cần phải có sự thống nhứt giữa cha mẹ và con cái. Bởi đây cũng là một phần có tác động ảnh hưởng đến hương linh của người quá cố. Nếu mọi việc tang lễ trên dưới đều nhất trí thuận hòa không có gì mâu thuẫn chống trái, thì tốt đẹp biết bao. Tuy đây là việc lo hơi xa, nhưng cũng rất là cần thiết. Người xưa nói: "Nhơn vô viễn lự, tắc hữu cận ưu". Nghĩa là người không lo xa, ắt có buồn gần. Đã có lợi ích như thế, thì con cái cần nên góp phần thảo luận chớ sao lại tránh né? Chẳng những không tránh né mà con cái còn phải tích cực góp phần vào công việc lo chung nầy. Được thế, mới phải đạo làm con vậy.

5. Con cháu đồng ý bàn về việc đó có phải là bất hiếu không?

Câu hỏi nầy như đã trả lời ở câu hỏi trên, không có gì là bất hiếu mà trái lại còn là chí hiếu nữa.

65. Treo tranh Phật trong phòng riêng có lỗi không?

Hỏi: Kính Bạch Thầy, khi đông người chung sống trong một nhà, mỗi người một ý, có người theo đạo Phật, có người chưa muốn theo. Nếu một cá nhân muốn để một tranh Phật trong phòng riêng (phòng ngủ) thì có được không?

Đáp: Vấn đề nầy, theo tôi, thì không có gì là trở ngại không được. Bởi việc tín ngưỡng là quyền quyết định chọn lựa của mỗi cá nhân. Không ai có quyền bắt buộc hay ngăn cản ai cả. Theo một tôn giáo hay không đó là quyền tự do của mỗi người. Tuy nhiên, mình cũng phải tôn trọng lẫn nhau. Người có tôn giáo không phải vì thế mà ta lại khinh thường người không có tôn giáo. Ít ra, họ cũng còn có đạo làm người của họ. Do đó, ta không có ý niệm khinh thường ai cả. Nhất là những thành viên sống chung trong một mái ấm gia đình, mỗi người càng phải tôn trọng niềm tin yêu thương lẫn nhau nhiều hơn.

Như Phật tử đã nói, có người chưa muốn theo, chớ không hẳn là họ quyết không theo. Chưa muốn theo có nghĩa là họ còn cân nhắc lựa chọn một tôn giáo nào đó phải thích hợp với họ. Bởi vấn đề chọn lựa để quyết định theo một tôn giáo cũng rất là hệ trọng. Vì đó là một quyết định cao cả trong đời sống tâm linh. Khi đã chọn lựa cân nhắc kỹ càng rồi, chừng đó họ mới có quyết định. Như vậy, có thể nói họ là mẫu người sống có ý thức và rất kỹ cương mẫu mực. Một khi họ đã quyết định theo một tôn giáo nào đó rồi, thì họ tôn thờ tín ngưỡng trọn đời theo tôn giáo đó.

Trở lại câu hỏi của Phật tử, nếu Phật tử muốn treo một một bức tranh Phật trong phòng riêng để hằng ngày ra vô chiêm ngưỡng, điều đó thì không có gì sai trái. Tuy nhiên, nếu Phật tử đã có gia đình rồi, hai vợ chồng sống chung trong một căn phòng, theo tôi, thì điều nầy có vẻ bất tiện không nên. Bởi treo ảnh Phật như thế e rằng, khi vợ chồng chăn gối thì Phật tử sẽ mang tội thất kính. Ngược lại, nếu Phật tử còn độc thân thì điều nầy không có gì là trở ngại cả. Tốt nhứt là Phật tử nên chọn treo bức tranh Phật một nơi cho thích hợp.

Kính chúc Phật tử có niềm tin vững chắc vào Phật pháp để hằng ngày tu tập chóng đạt thành sở nguyện.

66. Một người chưa bỏ được rượu có quy y thọ giới được không?

Hỏi: Kính Bạch Thầy, một người bạn của con tôn kính đức Phật, thích học Phật và phát triển đời sống tâm linh nhưng lại chưa muốn quy y. Bạn ấy nêu lý do là bạn ấy thích uống rượu bia và cho là tự biết giới hạn thế nào là uống đủ. Bạn ấy chưa thấy Giới thứ năm có đủ tính thuyết phục. Bạch Thầy, thứ nhất là bạn ấy có nên Quy y Tam Bảo không? Thứ hai, bạn ấy nên hiểu Giới thứ năm thế nào cho đúng? Thứ ba, bạn ấy có nhất thiết phải thọ cả ngũ giới không? Thứ tư, nếu không thì sẽ ảnh hưởng đến sự tu tập ra sao?

Đáp: Phật tử đã nêu ra bốn câu hỏi chung quanh về giới thứ năm mà Phật dạy người Phật tử không được uống rượu. Dựa vào bốn câu hỏi đó, tôi xin lần lượt góp chút thành ý  như sau:

1. Phật tử hỏi, bạn ấy chưa bỏ được rượu vậy bạn ấy có nên quy y Tam bảo không?

Xin thưa ngay, bạn ấy nên quy y Tam bảo không có gì trở ngại. Thiết nghĩ, trong câu hỏi của Phật tử nên thêm vào hai chữ "Thọ giới" thì có lẽ đúng hơn. Bởi vì quy y Tam bảo không chưa đủ mà còn cần phải thọ trì năm giới cấm nữa.

Xin bạn đừng lo, vì khi bạn quy y thọ giới thì Giới sư nêu ra và hỏi từng giới một, nếu giới nào bạn thấy có thể giữ được thì bạn nói Mô Phật giữ được. Khi nói như thế, thì giới thể được thành tựu. Còn giới nào mà bạn thấy không thể giữ được thì bạn nên im lặng. Sự im lặng của bạn có nghĩa là bạn không thể giữ được giới đó. Thế là giới đó không thành tựu giới thể. Song có điều, tôi thành thật khuyên bạn, bạn   nên ý thức rằng, nếu bạn không thọ thì bạn không gìn giữ. Mà không gìn giữ thì cuộc đời của bạn sẽ không có gì ngăn cản kềm thúc. Như ngựa không dây cương tha hồ chạy nhảy. Thế là đời ta trở nên phóng túng sống buông thả dễ bị sa ngã rơi vào hố thẳm của con đường trụy lạc sa đọa. Ngược lại, khi ta nhận giới rồi, thì ta mới cố gắng giữ gìn. Nhờ đó mà đời ta mới giảm bớt những khổ đau.

Như bạn biết thành phần của năm giới gồm có: 1. "Không sát sanh hại vật. 2. Không gian tham trộm cắp. 3. Không làm việc tà hạnh. 4. Không nói dối lường gạt, 5. không được uống rượu, và các thứ ma túy khác". Đó là năm nguyên lý đạo đức căn bản mà Phật đã chế ra, nhằm xây dựng con người hoàn thành nhơn cách đạo đức của một con người. Và từ đó tu tập tiến lên để chóng đạt thành Thánh quả. Cho nên, năm giới cấm Phật chế để cho người Phật tử hành trì thật tối ư quan trọng. Nếu chúng ta giữ tròn năm giới đó, thì chẳng những bản thân chúng ta được nhiều lợi lạc mà gia đình và xã hội cũng được nhiều lợi lạc. Bởi mỗi cá nhân là đơn vị của gia đình và xã hội. Cá nhân có tốt đẹp thì gia đình và xã hội mới tốt đẹp. Ngược lại, cá nhân xấu thì gia đình và xã hội xấu. Do đó, việc giáo dục xây dựng cá nhân là điều rất quan trọng trong đời sống hiện thực.

Trong năm giới đã nêu trên, khi quy y thọ giới, Giới tử phát nguyện trước Tam bảo giữ được giới nào thì tốt giới đó. Không bắt buộc phải nhận giữ hết năm giới. Thuật ngữ chuyên môn của Phật giáo gọi là: Ba la đề mộc xoa, Trung Hoa dịch là "Biệt giải thoát". Nghĩa là giữ được giới nào thì được tự do giải thoát của giới đó. Ví dụ, ta giữ giới không gian tham trộm cướp của người, thì ta được tự do đi lại không sợ ai cả. Ngược lại, nếu ta cướp giựt món đồ gì của ai là ta nơm nớp phập phồng lo sợ pháp luật sẽ truy nã bắt ta. Từ đó suy ra các giới khác cũng đều như thế. Thế nên, giới luật Phật chế là nhằm để cho con người có được tự do giải thoát. Giới luật không phải là điều ràng buộc mà nó đem lại lợi ích về mặt xây dựng đạo đức con người. Vì giới luật có công năng lợi ích như thế, cho nên ta phải phát nguyện gìn giữ cẩn trọng. Nếu không, thì đời sống của ta sẽ gây ra nhiều tội lỗi mà ta không hề hay biết.

2. Bạn ấy nên hiểu giới thứ năm thế nào cho đúng?

Rượu tuy nó không phải là chất độc hại người, nhưng nếu người ta sử dụng nó một cách thái quá, thì nó sẽ trở thành gây ra cho con người một tai hại rất lớn. Khi uống rượu quá lượng định, người ta sẽ mất hết tỉnh táo, không còn kiểm soát được tâm trí, lời nói và hành động. Từ đó, dễ gây ra tai họa cho mình và người. Đạo Phật chủ trương giác ngộ, tỉnh thức, sáng suốt, muốn thế, trước tiên chúng ta phải điềm tỉnh, minh mẫn, nếu như uống rượu vào, thì còn đâu minh mẫn sáng suốt nữa. Vì khi uống rượu vào, tâm trí cuồng loạn, mất hết bình tĩnh, dễ nóng nảy sân hận, và từ đó việc gì họ cũng dám làm, bất kể tội lỗi, không màng đến đạo đức lương tri.

Hậu quả của việc uống rượu quá chén nầy, đã gây ra biết bao nhiêu lỗi lầm sai trái.  Hằng ngày xảy ra biết bao nhiêu cảnh tượng tai nạn thương vong khủng khiếp, gây ra biết bao đau khổ cho mình và người. Đây là một họa hại cho cá nhân, gia đình và xã hội. Ngày nay, người ta thống kê những con số tai nạn xảy ra hằng ngày, phần lớn là do uống rượu quá chén say sưa gây nên. Đó là chưa nói đến tác hại của rượu gây nên những chứng bệnh nan y thật khó trị liệu và cuối cùng đưa đến cái chết.

Trong giới thứ năm, ngoài việc Phật cấm uống rượu ra, các thứ ma túy khác cũng không được sử dụng. Như á phiện, cần sa v.v... Vì những loại nầy một khi người ta đã nghiện ngập rồi, thì hậu quả đưa đến một tai hại cho con người không thể nào lường được. Có thể thời Phật ở Ấn Độ không có các chất ma túy như cần sa, á phiện... Nếu có, thì Phật cũng đã cấm và cấm nặng hơn rượu nữa. Cần nói thêm, tuy Phật cấm người Phật tử không được uống rượu, nhưng có trường hợp Phật tạm khai cho chúng ta tạm thời sử dụng mà không phạm. Đó là trường hợp khi chúng ta bị bệnh nặng hết phương cứu chữa phải cần đến thuốc rượu để trị bệnh. Trong trường hợp nầy, chúng ta được tạm dùng nhưng phải cho người khác biết rồi sau đó mới dùng. Tuy nhiên, khi hết bệnh thì không được tiếp tục dùng nữa. Nếu dùng thì phạm giới.

3. Bạn ấy có nhất thiết phải thọ cả ngũ giới không?

Như đã nói ở trên, nếu xét thấy nên thọ hết năm giới là điều tốt. Còn nếu như xét thấy mình chưa chừa bỏ được rượu ngay, thì thọ 4 giới cũng không sao. Bởi người giữ giới có toàn phần, bán phần và thiểu phần. Nếu giữ được toàn phần và giữ một cách đúng đắn nghiêm nhặt,  thì mình sẽ được lợi lạc lớn không những hiện tại mà cả đời sau nữa. Nhờ có thọ giới mình mới giữ giới. Còn không thì không có gì kềm chế, tất nhiên, sẽ dễ đưa đến hậu quả không tốt. Vì thế tôi thành thật khuyên bạn nên thọ cả năm giới là điều tốt nhất.

4. Nếu không thì sẽ ảnh hưởng đến sự tu tập ra sao?

Tất nhiên, là sẽ ảnh hưởng rất lớn trong sự tu tập. Rượu hay các thứ ma túy đều có tác dụng làm cho con người bị nhu nhược về thần kinh và tâm trí cũng không được định tỉnh, sáng suốt. Người tu rất cần sự an định sáng suốt. Khi uống rượu hay sử dụng ma túy khi đã ghiền nặng rồi thì làm sao tu tập được? Có ai uống rượu mà tụng kinh hay thiền định bao giờ không? Khi lên cơn ghiền rồi thì lo giải quyết, chớ tâm trí đâu mà nghĩ đến vấn đề tu tập. Uống rượu và các thứ ma túy không những có hại cho trí huệ đời nầy mà còn mất giống trí huệ cho đời sau nữa. Người nghiện ngập say sưa li bì thì làm sao có trí huệ sáng suốt được? Sự tu tập rất cần có tỉnh táo mới có thể đi sâu vào thiền quán được. Đó là chưa nói một khi uống rượu vào thì sẽ phạm nhiều lỗi khác. Thế thì còn gì nói đến sự tu tập để được an lạc, giác ngộ giải thoát chớ? Nếu muốn tu tập cho có kết quả, thì tốt nhất là phải cương quyết bỏ hẳn thói quen uống rượu cũng như các loại ma túy khác. Bằng không, thì rất chướng ngại cho sự tu tập lắm vậy.

67. Dùng ảnh Phật trang trí cho màn ảnh máy vi tính và điện thoại di động có được không?

Hỏi: Kính Bạch Thầy, hiện nay công nghệ thông tin và điện thoại di động rất phổ biến. Vậy các Phật tử sử dụng tranh ảnh Phật làm ảnh nền trang trí cho màn hình máy tính hay điện thoại di động có được không ạ? Một số bạn trẻ cài đặt nhạc Phật giáo hay câu niệm Phật dùng thay cho tiếng chuông điện thoại bình thường có được không ạ?  Trong trường hợp nào thì được, trường hợp nào thì không ạ?

Đáp: Vấn đề sử dụng tranh ảnh Phật làm ảnh nền trang trí cho màn hình máy vi tính hay điện thoại di động, điều đó không có gì là sai trái lỗi lầm không được cả. Không những không có sai trái lỗi lầm mà còn cần được khuyến khích nên làm như thế. Vì sao? Vì đó là một hình thức nhắc nhở người sử dụng luôn nhớ đến Phật. Khi nhớ đến Phật thì tâm của chúng ta lúc đó cảm thấy an vui tươi mát. Mọi não phiền nếu có dấy lên thì đều lắng dịu lại. Hình ảnh Phật có tác dụng luôn thức nhắc chúng ta như thế. Bởi Phật là giác là người luôn sống trong tỉnh thức. Chúng ta nên bắt chước đức Phật cố gắng thực tập cho mình có đời sống tỉnh thức chánh niệm. Tôi xin đề nghị với Phật tử, mỗi khi mở máy hãy để ra vài giây nhìn ảnh Phật thật sâu lắng và nhìn bằng con mắt tuệ giác, thiền quán, chánh niệm. Cứ mỗi lần nhìn như thế ta được tăng trưởng chánh niệm thêm lên. Đây cũng là một phương cách thực tập cho ta biết cách nhìn Phật. Nhân Phật ảnh bên ngoài gợi cho ta nhớ lại ông Phật thiệt ở trong ta. Vì trong ta đã có Phật. Chánh niệm là phương cách hay nhất để ta nhận diện lại ông Phật thiệt của ta. Có thế, thì ta sẽ được lợi lạc biết bao. Cứ mỗi ngày mà ta mở máy nhiều lần thì ta có nhiều an lạc hạnh phúc. Thế thì hạnh phúc ngay trong khi ta mở máy nhìn Phật.

 

Phật tử hỏi: việc cài đặt nhạc Phật giáo hay câu niệm Phật dùng thay cho tiếng chuông điện thoại bình thường có được không? Trong trường hợp nào được, trường hợp nào không?

Xin thưa, việc đó trường hợp nào cũng được cả. Tùy theo sở thích của Phật tử mà cài nhạc Phật giáo hay câu niệm Phật cả hai đều được. Tuy nhiên, điều nầy còn tùy theo sở thích thói quen của mỗi người. Nếu Phật tử là người chuyên tâm tinh cần niệm Phật hằng ngày, thì thiết nghĩ, Phật tử nên cài vào câu niệm Phật thay cho tiếng chuông điện thoại bình thường thì hay hơn. Bởi đó cũng là cách thức nhắc nhở cho Phật tử nhớ đến Phật mà niệm Phật. Khi nghe tiếng niệm Phật, tất nhiên là Phật tử nhớ đến Phật ngay. Điều quan trọng là khi nghe tiếng niệm Phật vang lên, Phật tử chớ vội mở máy liền. Tôi xin đề nghị với Phật tử là hãy để cho máy niệm Phật vài tiếng thì mới mở máy. Đó cũng là cách thực tập cho mình có được chánh niệm. Nhất là mình có thêm sự điềm đạm trầm tỉnh hơn. Tiếng niệm Phật hay tiếng nhạc đều có công dụng thức nhắc chúng ta hãy trở về với thực tại bây giờ và ở đây. Ta không để tâm ta phiêu lưu vào trong hai ngục tù giam hãm: quá khứ và tương lai. Ta hãy thực tập sống ngay trong giây phút hiện tại. Đó là những giây phút thật mầu nhiệm tuyệt vời mà ta có mặt tiếp xúc với sự sống. Sự có mặt của ta ngay trong khi tiếng nhạc hay tiếng niệm Phật vang lên. Ta cố gắng thực tập cho ta có được những giây phút sống tuyệt vời đó. Đó là ta khéo biết sống và khéo biết làm chủ sự có mặt của mình.

68. Nền đạo đức của đạo Phật có ảnh hưởng gì trong các ngành sinh hoạt chuyên môn của xã hội không?

Hỏi: Kính Bạch Thầy, nhiều bạn trẻ làm việc văn phòng trong các lĩnh vực chuyên môn về kinh doanh, khoa học, pháp luật cũng muốn tìm hiểu về đạo Phật để nâng cao đời sống tâm linh. Nhưng có bạn thắc mắc là đạo Phật có chuẩn mực đạo đức cao, có ngũ giới, có từ bi hỷ xả; như vậy, liệu các chuẩn mực đạo đức và việc trì giới có là điều ‘bất lợi’ cho công danh sự nghiệp của các bạn ấy, và ảnh hưởng đến kinh tế gia đình của các bạn ấy không ạ? Con nên giải thích với các bạn ấy ra sao?

Đáp: Đạo Phật là một nghệ thuật sống. Đạo Phật hướng dẫn con người có một đời sống tâm linh hướng thượng lợi lạc thiết thực. Đạo Phật không phải chỉ là lý thuyết suông hay mang tính giáo điều mặc khải. Đạo Phật không chấp nhận lối lý luận huyền đàm hư vô thiếu thực tế. Vì đó chỉ là những thứ bánh vẽ hoang tưởng.  Chủ trương của đạo Phật là "Tri" và "Hành" phải hợp nhứt. Đạo Phật hướng dẫn con người đi sâu vào thiền quán nhằm tháo gỡ những nội kết, gút mắc, bức xúc, căng thẳng trong đời sống. Đạo Phật xây dựng con người dựa trên ba nguyên tắc căn bản: "Bi, Trí, Dũng".

 

Bi là mở rộng lòng thương bao dung rộng lớn. Trí là tuệ giác là tỉnh thức có khả năng nhận diện soi sáng chuyển hóa vô minh. Thuật ngữ chuyên môn của Phật giáo gọi là: "Đoạn hoặc chứng chơn". Nếu y cứ vào "Ba Đức" thì, đoạn hoặc thuộc về Đoạn đức. Trí tuệ soi sáng thuộc về Trí đức. Lòng thương rộng lượng bao dung tha thứ thuộc về Ân đức. Dũng là sức mạnh của tinh thần thể hiện được tinh thần Vô úy. Sức mạnh đó là không khuất phục đầu hàng trước bất cứ thế lực vô minh nào. Đó là dũng khí của một con người hùng tráng hiên ngang hy hiến đời mình để phụng sự cho đạo pháp và phục vụ chúng sinh. Đó là tinh thần vô ngã phá chấp của đạo Phật.

Toàn bộ hệ thống giáo điển của Phật giáo, đều dựa vào hai nguyên tắc cơ bản: Khế lý và khế cơ. Khế lý là phù hợp với chân lý muôn đời bất di bất dịch. Khế cơ là xứng hợp với mọi trình độ căn cơ và thời đại. Có thể nói, từ ngàn xưa, nguồn giáo lý của đạo Phật chưa bao giờ đi ngược lại với trào lưu tư tưởng của nhơn loại. Chẳng những thế, mà nguồn giáo lý của đạo Phật còn soi sáng hướng dẫn giúp cho các ngành nghiên cứu về khoa học, khám phá phát minh ra những điều mới lạ kỳ diệu. Những khám phá phát minh về những kỹ thuật điện tử của khoa học, nhằm mang lại cho đời sống con người có thêm nhiều thứ tiện nghi vật chất thoải mái. Nhưng bước sang lĩnh vực tinh thần giải quyết những khúc mắc nội kết ẩn tàng của đời sống tâm linh thì, khoa học đành phải chịu bó tay không tài nào có thể đáp ứng được. Do đó, khoa học phải nhờ đến Phật học. Điều nầy ta thấy rất rõ trong thế giới tương quan hiện nay. Cả hai đều hỗ tương soi sáng cho nhau, nhưng khoa học vẫn còn mò mẫm dò dẫm và phải còn nhờ đến Phật học rất nhiều để trợ lực khai sáng.

 Tuy nhiên, điều chúng ta cũng nên lưu ý là, giáo lý của đạo Phật bao giờ cũng nhằm để soi sáng quán chiếu vào nội tại. Đường lối hướng dẫn tu tập của đạo Phật vẫn luôn chú trọng đến phần nội quan hơn là ngoại quan. Câu nói: "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc" của Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy cho vua Trần Nhân Tông là câu nói bất hủ có giá trị muôn đời. Nói thế, để Phật tử thấy rằng, đâu là gốc ngọn tu hành của đạo Phật.

Đạo Phật là đạo ban vui cứu khổ. Đó là hạnh nguyện từ bi vị tha nhân ái của đạo Phật. Lòng thương thuộc về trái tim. Trí giác thuộc về khối óc hay lý trí.  Có khối óc mà không có trái tim thì không thể làm lợi lạc cho ai. Nhờ có trái tim nên con người mới biết yêu thương đồng loại rộng ra là hết thảy muôn loài. Trái tim thuộc về tình cảm. Nhưng bên cạnh trái tim, còn cần phải có sự điều động của lý trí. Lý trí bao giờ cũng đóng vai trò chỉ đạo cho tình cảm thực hiện đúng theo hướng chân lý. Thế nên, trong đạo Phật "Bi" và "Trí" phải đi đôi với nhau. Thiếu một thì không được.

Trở lại câu hỏi thắc mắc của Phật tử: "theo các bạn trẻ cho rằng, đạo Phật có chuẩn mực đạo đức cao như Ngũ giới, Từ, Bi ,Hỷ ,Xả,  v.v...  Phật tử nêu ra thắc mắc, như vậy, liệu các chuẩn mực đạo đức và việc trì giới đó có là điều ‘bất lợi’ cho công danh sự nghiệp của các bạn ấy, và ảnh hưởng đến kinh tế gia đình của các bạn ấy không"?

Xin thưa, là không có gì trở ngại bất lợi cho công danh sự nghiệp của các bạn và cũng không có ảnh hưởng gì đến kinh tế gia đình của các bạn cả. Chẳng những không có bất lợi trong việc tu tập và ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, mà trái lại nó còn làm tăng thêm sự lợi ích thiết thực cho những điều đó. Như trên đã nói, giáo lý của đạo Phật giúp cho con người có thêm hìểu biết và niềm tin. Tự tin vào khả năng sở học của mình để có thể cống hiến cho đời những gì lợi ích tương quan trong cuộc sống. Dù các bạn có làm bất cứ chuyên ngành nào trong xã hội, việc xây dựng đạo đức cá nhân đó là điều hệ trọng trước tiên. Đạo đức căn bản của con người không ngoài năm nguyên lý đạo đức mà đức Phật đã dạy. Năm nguyên lý đạo đức căn bản đó giúp cho các bạn thăng tiến vững mạnh trên bước đường công danh sự nghiệp. Như bạn giữ giới không gian tham trộm cướp những vật quý giá của ai, thế thì có phải là bạn sẽ được mọi người tín nhiệm tin tưởng bạn không? Đó là bạn đang xây dựng đạo đức nâng cao phẩm giá uy tín cho bạn. Bạn làm việc ở đâu người ta cũng đều đặt hết niềm tin tưởng vào bạn ở đó. Không một ai tỏ ra khinh khi nghi ngờ hay coi thường bạn cả. Như thế thì sự nghiệp của bạn ngày càng bảo đảm vững mạnh hơn. Ai dám nói điều đó là bất lợi cho bạn? Đến như lời nói của bạn cũng thế. Khi bạn thật hành giữ giới không nói dối, không lường gạt, không thêm thắt đặt điều, thêu dệt, đâm thọc, ly gián với bất cứ ai, nhất là đối với các bạn đồng nghiệp chung sở, tất nhiên, ai ai cũng quý trọng bạn. Vì lời bạn nói ra là ái ngữ, là chánh ngữ, là sự thật, như đinh đóng cột, không ai là không tin bạn. Thế thì bạn thử xét có lợi hay bất lợi? Chỉ đơn cử nêu ra hai giới cấm mà bạn thấy là đã đem lại sự lợi ích cho cá nhân và sự nghiệp của bạn nhiều rồi. Còn những giới khác bạn suy gẫm thì biết. Tôi xin thưa với bạn, giới luật của Phật chế ra không phải là điều kiện ràng buộc mà nó có công năng mang lại cho bạn có nhiều sự tự do và giải thoát. Thế thì, điều đó có phải là chuẩn mực đạo đức cao hay không? Hay đó mới thực sự là nền tảng căn bản đạo đức của một con người.

Nếu bạn là người đang sinh sống trong nghề kinh doanh thương mãi, thì tôi thiết nghĩ, việc tu tập của bạn rất là cần thiết. Bạn chỉ cần chịu khó thực tập cho bạn có được chánh niệm, thì nó sẽ mang lại cho bạn có nhiều lợi lạc. Phương pháp thực tập tuy có nhiều cách, nhưng cách hay nhất để bạn có được chánh niệm trong công việc làm ăn hằng ngày thì, không gì bằng là bạn thực tập theo dõi hơi thở. Bởi hơi thở là mạng sống của bạn và nó không bao giờ vắng mặt với bạn. Bạn chỉ cần để ra vài giây phút an trú vào hơi thở theo đúng phương pháp chỉ dẫn: "thở vào tôi biết tôi đang thở vào, thở ra tôi biết tôi đang thở ra". Đây là bài tập đầu tiên trong mười sáu bài tập "Quán niệm hơi thở". Khi bạn gặp việc rắc rối khó khăn căng thẳng khó giải quyết, thì bạn chỉ cần ngồi yên vài giây phút trở về với hơi thở chánh niệm thì, bạn sẽ cảm thấy tâm trí của bạn an ổn tươi mát trở lại. Những bức xúc căng thẳng bất an sẽ được điều hòa dịu lại. Nhờ sự bình tĩnh sáng suốt mà bạn có thể tìm ra phương cách giải quyết vấn đề một cách dễ dàng hơn. Còn hơn là bạn cứ suy nghĩ lung tung chỉ làm rối thêm lên, bởi do sự bất an trong tâm thức của bạn. Đây là một sự thực tập chớ không phải là lý thuyết. Người ta thường nói, thương trường cũng chính là chiến trường. Vì thế, việc ứng dụng tu tập theo phương pháp thiền quán nó giúp ích cho bạn rất nhiều trong nghề nghiệp kinh doanh của bạn. Và điều đó cũng đâu có gì làm ảnh hưởng đến nền kinh tế gia đình của bạn đâu! Tôi mong bạn nên tư duy suy xét kỹ lại về vấn đề nầy.

Vì trong phạm vi trả lời câu hỏi, nên tôi không thể luận giải cùng bạn nhiều hơn. Chỉ có thể chia sẻ trao đổi góp chút thành ý với các bạn mà thôi. Nếu các bạn muốn hiểu rõ thêm về vấn đề nầy, thì tôi thành thật khuyên các bạn nên tìm các loại sách nói về Thiền quán, nhất là Kinh Quán Niệm Hơi Thở để đọc rất có lợi ích cho bạn.

Nói tóm lại, chuẩn mực đạo đức và sự trì giới không có gì gây ra làm trở ngại hay gây ảnh hưởng tác động đến việc làm ăn của bạn. Chỉ sợ bạn thật hành không đúng theo tiêu chuẩn đạo đức đó thôi. Từ, bi, hỷ xả, đó là bốn lĩnh vực của cái tâm mở rộng lòng thương không biên giới. Chúng ta thực tập mở rộng được bao nhiêu thì sẽ được lợi lạc hạnh phúc bấy nhiêu. Chớ đâu có bắt buộc bạn phải thật hành hoàn toàn đúng theo chuẩn mực đó. Tất cả đều là thực tập và phải thực tập từng bước cho thật vững chắc. Tu là sự thực tập áp dụng vào đời sống hằng ngày qua những giáo, giới mà Phật Tổ đã dạy để cho đời ta có được thêm nhiều lợi lạc an vui và hạnh phúc.

Kính chúc các bạn vui khỏe và thành công trong việc tu học và sự nghiệp.

69. Một người chỉ biết làm lành không cần niệm Phật sau khi chết có được vãng sanh về Cực lạc không?

Hỏi: Kính Bạch Thầy, có người cho rằng không cần học và tu theo đạo Phật như là một tôn giáo, chỉ cần sống hiền lành không hại ai cả, như thế là ‘đủ’ rồi. Sau này khi mạng chung thì Phật A Di Đà vốn từ bi, không lẽ không đón mình về Tây phương Cực lạc hoặc hương linh lên Chùa là được rồi. Kính Bạch Thầy, thái độ đó có đúng với nhân quả không ạ? Có hạn chế ở điểm gì không ạ?

Đáp:  Xin thưa, quan niệm đó không hợp với lý nhân quả. Nếu bảo rằng, người đó chỉ biết sống hiền lành không hại ai cả, như thế là đủ rồi. Sau khi mạng chung sẽ được đức Phật A Di Đà tiếp dẫn người đó về Cực lạc. Đó là điều nghịch lý nhân quả. Bởi người đó chỉ biết sống hiền lành thôi, chớ họ đâu có phát nguyện niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Thế thì, bảo rằng, sau khi mạng chung họ sẽ được đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về Cực lạc. Quả đó là điều nghịch lý trái với luật nhân quả. Theo lý nhân quả, người nào muốn được vãng sanh về nước của Ngài thì, người đó phải chuyên niệm danh hiệu của Ngài. Nghĩa là  chúng ta phải thật hành đúng theo bản nguyện của Ngài. Chuyên niệm danh hiệu của Ngài là nhân, được Ngài tiếp dẫn về Cực lạc là quả. Ngược lại, nếu chỉ biết sống hiền lành không thôi, thì làm sao mà sanh về nước của Ngài được? Nếu thế, thì ai sống hiền lành cũng được sanh về Cực lạc hết sao? Phật tử nói, người đó chỉ biết sống hiền lành không hại ai, chớ không phải là họ làm lành. Sống hiền lành không hại ai, đó chỉ là tiêu cực chỉ biết lợi cho mình thôi. Sống hiền lành không chưa đủ mà mình còn phải làm những điều lành lợi ích cho chúng sinh nữa. Đó mới là chỉ ác hành thiện đúng theo lời Phật dạy.

Hơn nữa, trong Kinh A Di Đà đức Phật có dạy, không thể có chút ít nhân duyên căn lành phước đức mà được sanh về Cực lạc. (Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh bỉ quốc). Như thế, Phật tử thấy đâu phải chỉ có chút ít căn lành phước đức mà được sanh về Cực lạc đâu.

Muốn được sanh về Cực lạc, ngoài việc tu nhân hành thiện bố thí ra, chúng ta còn phải có đầy đủ ba món Tư lương: "Tín, Nguyện, Hạnh". Nghĩa là phải tin sâu, nguyện thiết và hành chuyên. Tin sâu và nguyện thiết đó là điều kiện ắt có và đủ để được vãng sanh về cõi Cực lạc. Còn phần thật hành tùy theo sự tu tập niệm Phật của mỗi hành giả có chuyên cần hay không, mà kết quả vãng sanh có những phẩm cao thấp khác nhau. Bởi ở cõi Cực lạc có chín phẩm hoa sen. Nếu người nào hằng nhiếp tâm chuyên cần niệm Phật miên mật, niệm niệm tương tục không gián đoạn, thì khi lâm chung người đó sẽ được vãng sanh ở phẩm cao. Ngược lại, thì sanh ở các phẩm khác có cao thấp khác nhau.

Tất cả đều xứng theo nhân và quả cả. Đã là nhân quả thì không bao giờ sai lệch, khác nào như vang theo tiếng, như bóng theo hình. Sống hiền lành không hại ai, đó là nhân lành, kết quả sanh về cõi lành. Bởi môi trường tái sanh có nhiều cõi. Không có niệm Phật A Di Đà mà muốn sanh về cảnh giới Cực lạc của Ngài thì điều đó không hợp lý. Bởi nhân không gây thì làm sao có quả? Nhân và quả phải tương đồng với nhau mới được.

70. Người mất lâu cầu siêu có được siêu thoát không?

Hỏi: Kính Bạch Thầy, chúng con có người chú mất trong chiến tranh như là một quân nhân. Do điều kiện khó khăn, không đủ thông tin để tìm thi thể. Với những người thân đã mất lâu năm như vậy, họ đã thoát thân trung ấm không còn là vong linh, chúng ta đâu có biết họ đã về đâu trong sáu nẻo luân hồi, vậy ý nghĩa của cầu siêu là thế nào? Vậy gia đình chúng con có nên cầu siêu cho chú không? Có cần quy y cho chú hay chỉ cầu siêu là được?

Đáp: Qua ba vấn đề mà Phật tử nêu ra, tôi xin lần lượt góp ý như sau:

Thứ nhứt, Phật tử hỏi ý nghĩa cầu siêu là thế nào? Vấn đề nầy, tôi đã giải thích trong quyển sách 100 Câu Hỏi phật Pháp Tập 1 ở trang 105 và 122. Ở trang 105, có câu hỏi: "Người chết sau 49 ngày cầu siêu có được không?" Và ở trang 122, câu hỏi là: "Tụng kinh cầu siêu có thật siêu không?" Xin Phật tử đọc lại hai câu hỏi đó thì sẽ rõ.

Thứ hai, Người chết đã lâu gia đình có nên cầu siêu cho chú không? Câu hỏi nầy không khác gì câu hỏi: Người chết sau 49 ngày cầu siêu có được không? Xin Phật tử đọc lại câu hỏi nầy như đã nêu rõ số trang ở trên.

Thứ ba, Phật tử hỏi, có cần quy y cho chú hay chỉ cầu siêu là được? Theo tôi, thì Phật tử chỉ nên cầu siêu là được rồi. Bởi người chết đã lâu, vả lại, khi tụng kinh cầu siêu trong đó có phần quy y cho hương linh. Điều quan trọng là những người thân trong gia đình nên vì người mất mà hết lòng thành tâm tụng kinh cầu siêu bạt độ cho họ. Dù người mất đã lâu, nhưng việc tụng kinh cầu siêu hay làm những điều phúc thiện hồi hướng công đức cho họ, đó là điều thiết yếu nên làm. Dù cho họ có thác sanh về cảnh giới nào, thì năng lượng cầu nguyện của người thân cũng giúp cho họ có thêm lợi lạc và chóng được siêu thoát.

 Nếu như họ sanh về cảnh giới lành thì họ sẽ được tăng trưởng thêm điều lành. Ngược lại, giả như họ sanh về cảnh giới bất thiện, thì nhờ sự hết lòng thành tâm cầu nguyện hay hồi hướng công đức của người thân, mà họ hồi tâm chuyển ý và sẽ bớt khổ đi nhiều. Điều nầy không phải là mê tín hay hoang tưởng mà là sự thật rất phù hợp theo tinh thần khoa học. "Thần giao cách cảm" là một hiện tượng có thật không phải mơ hồ. Nếu có cảm tất nhiên là phải có ứng. Cảm ứng không sai. Điều quan trọng đáng nói ở đây là, khi cầu nguyện hồi hướng chúng ta phải hết sức thành tâm tha thiết chớ không nên làm cho có lệ. Nếu người mất không nhận được sự cầu nguyện, thì tại sao trong chùa sau mỗi thời khóa tụng niệm chư Tăng, Ni đều có phần phục nguyện cầu siêu và hồi hướng?

Chúng ta nên hiểu thêm rằng, ý nghĩa của hồi hướng là "hồi tự hướng tha, hồi nhân hướng quả và hồi sự hướng lý". Hồi là xoay về mình, hướng là hướng về tha nhân. Đem tâm thanh tịnh của mình mà hướng đến người khác. Với thâm ý là muốn cho họ được an vui giải thoát. Nhân có gây tạo thì quả mới có. Nhân là phần người cầu nguyện; quả là người nhận sự cầu nguyện. Trường hợp như bà Mục Liên Thanh Đề chẳng hạn, nếu không nhờ sức chú nguyện của Phật và chúng Tăng, thì thử hỏi làm sao bà được siêu thoát? Tuy nhiên, người cầu nguyện chỉ là trợ duyên, quan trọng là ở nơi người được cầu nguyện. Cả hai đều phải có sự đồng cảm tương ưng với nhau. Như thế thì sự cầu nguyện mới có lợi ích.  Vì thế, nên người mất dù mới hay lâu, cũng đều rất cần đến sự cầu nguyện hồi hướng công đức cho họ.  Sự đồng cảm khác nào như ta gởi tín hiệu. Nếu ta gởi tín hiệu đúng theo địa chỉ của người nhận, tất nhiên là người đó sẽ nhận được. Điều quan trọng là phải gởi đúng. Điện thoại cũng thế. Nếu ta gọi đúng số (dụ như sự chú tâm của ta) thì người đó cũng sẽ nhận được. Đó là sự cảm ứng giao nhau rất hợp tình hợp lý vậy.

Kính chúc Phật tử an khỏe tinh tấn tu tập và hành thiện để được lợi mình và lợi người.

71. Khi đã thốt ra lời thề nặng có bị mắc phải quả báo không?

Hỏi: Kính thưa thầy, con có thói quen mỗi khi giận tức ai thì con hay thốt ra lời thề. Có khi con thề báng mạng vì muốn cho họ phải tin tưởng nơi con. Vậy xin hỏi lời thề đó con có bị mắc phải quả báo không? Vì con nghĩ lời thề như gió thoảng mây bay không có bị nhân quả báo ứng. Con nghĩ như thế không biết có đúng không? Kính xin thầy cho con lời khuyên. Con cảm ơn thầy.

Đáp: Trong đạo Phật nơi gây ra thành nghiệp là ở ba chỗ: Thân, Khẩu và Ý. Nói nghiệp, tất nhiên là nói đến thói quen được lặp đi lặp lại nhiều lần.  Về phần nói về nghiệp quả, chúng tôi đã có giải thích rải rác ở trong 100 Câu Hỏi Phật Pháp Tập 1 và 2. Xin Phật tử coi lại thì sẽ rõ. Thế nên, ở đây, tôi không giải thích nhiều về nghiệp quả. Qua sự trình bày về thói quen thề thốt của Phật tử, tôi xin được góp chút thành ý trong vấn đề nầy.

Thói quen xấu hoặc tốt, tất cả đều do mình huân tập mà thành. Suy nghĩ, lời nói hay hành động đều do từ tâm mình gây ra cả. Phật tử cho rằng, lời thề thốt của mình phát ra như là gió thoảng mây bay, điều đó căn cứ theo nhân quả thì không đúng. Vì theo luật nhân quả, bất cứ lời nói hay hành động nào tốt hoặc xấu, lành hay dữ, đều có nhân và có quả cả. Ngay cả sự suy nghĩ của ta cũng đều có nhân và có quả. Nhân quả là một chân lý phổ biến chi phối tất cả sự vật trong vũ trụ, không một vật nào thoát khỏi. Động cơ phát ra lời thề là từ ý nghĩ, tức ý nghiệp. Và từ đó Phật tử mới phát ra thành tiếng. Khi phát ra thành lời thì thuộc về khẩu nghiệp. Nói cho đúng là phải nói ngữ nghiệp. Thế thì nghiệp là nhân, đã có nhân, thì làm sao tránh khỏi quả báo?

Tuy nhiên, nghiệp thì có nghiệp nặng và nghiệp nhẹ. Nghĩa là thói quen nặng và thói quen nhẹ. Như Phật tử cố ý thề báng mạng cho qua chuyện, dù rằng việc đó mình đã có làm, nhưng vì muốn cho đối phương tin tưởng mình, nên mình cố tình thề thốt để cho người đó tin. Đây là lời thề có chủ ý, tức nhiên là tội nặng. Còn nếu là lời thề chỉ là thói quen ở nơi miệng, không có cố tâm để thề, thì đây là tội nhẹ. Như những người có thói quen văng tục hay chửi thề, họ chỉ phát ra theo thói quen mà không có chủ ý. Điều nầy, trong Tâm lý học Tây phương  gọi là Tự động tính. Duy Biểu Học Phật giáo thì gọi là Duy tác nghiệp. Nghĩa là một hành động hay lời nói mà không có chủ ý. Tức là ý thức không hợp tác vào, họ chỉ phản xạ một cách tự nhiên theo quán tính. Điều nầy là không thành tội. Nếu có, thì cũng rất là nhẹ.

Nói thế để Phật tử thấy rằng, nếu lời thề của Phật tử có cố ý nhằm để cho đối phương tin tưởng không nghi ngờ, theo nhân quả báo ứng, thì Phật tử đã có tội rồi. Ngược lại, nếu Phật tử chỉ thề cho qua chuyện mà điều đó thực ra Phật tử không có làm, thì đây chỉ là mang tội khẩu nghiệp nhẹ. Tuy nhiên, dù nặng hay nhẹ, tôi khuyên Phật tử phải nên thành tâm sám hối. Phật tử nên phát nguyện dứt khoát từ nay về sau không tái phạm thói quen thề thốt nầy nữa. Được như vậy, thì tội sẽ hết. Phật tử nên nhớ, lời thề nào cũng mang đến hậu quả không tốt cho mình. Ý thức như thế, Phật tử nên cương quyết từ bỏ. Phật tử nên thành tâm sám hối, như thế thì sẽ hết tội. Bởi tội gây ra từ tâm thì cũng phải từ tâm mà sám hối.

Kính chúc Phật tử luôn sống trong tỉnh thức để được an lạc hạnh phúc.

72. Chỉ quán là gì? Và thế nào tu chỉ và tu quán?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, lâu nay con thường nghe nói đến hai chữ Chỉ và Quán, nhưng con chưa hiểu ý nghĩa của hai chữ nầy như thế nào? Và cách ứng dụng tu Chỉ Quán ra sao? Kính xin thầy hoan hỷ giải thích cho chúng con hiểu. Kính cảm ơn thầy.

Đáp: Chỉ có nghĩa là dừng lại. Quán có nghĩa là xem xét. Nói dừng lại, tức là dừng mọi vọng tưởng không cho dấy khởi. Còn xem xét là quán chiếu ở nơi tự tâm. Chỉ là tên khác của Định. Quán là tên khác của Huệ. Tâm của chúng ta giống như con khỉ, con vượn, chuyền nhảy lung tung, không bao giờ nó chịu đứng yên một chỗ. Người tu là muốn cho cái tâm vọng tưởng lăng xăng đó phải an trú lại một chỗ. Ví như người ta không muốn cho con khỉ, con vượn chuyền nhảy lung tung nữa, thì phải dùng lồng nhốt nó lại. Cái lồng là phương tiện để nhốt chúng nó. Cũng thế, muốn cho cái tâm lăng xăng phan duyên theo trần cảnh không còn nữa thì người tu phải dùng giới luật để ngăn chế nó. Đó gọi là phòng phi chỉ ác. Nghĩa là ngăn ngừa những điều sái quấy do tâm vọng động gây ra. Giới, Định, Huệ là con đường đưa hành giả đến đích giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Ngoài con đường nầy ra, thật không còn con đường nào khác. Dù hành giả tu bất cứ pháp môn nào, muốn được giác ngộ giải thoát đều phải áp dụng ba môn học nầy.

Tuy nhiên, muốn đạt được kết quả đó, thì hành giả phải biết phương pháp ứng dụng tu Chỉ (định ) và tu Quán (huệ).

Trong quyển Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu của Ngài Thiên Thai Trí Giả Đại Sư, có giải thích về phương pháp tu Chỉ Quán như sau:

Tu Chỉ Quán có hai cách: 1. Tu trong phép ngồi. 2. Tu trong khi lịch duyên đối cảnh. Trong bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, thì tư thế ngồi là thù thắng hơn. Bởi ngồi dễ nhiếp tâm hơn. Vì tâm ta chưa được thuần thục, nên khi đối cảnh xúc duyên nó thường theo cảnh duyên nên dễ bị loạn động. Riêng nói về tu Chỉ có ba ý:

- Hệ duyên thủ cảnh chỉ: đây là phương pháp cột tâm vào một chỗ như: chót mũi hay giữa rún v.v... để tâm ta không bị tán động. Kinh nói: "Cột tâm lại chẳng để cho buông lung, cũng như cơn giận bị xiềng".

- Chế tâm chỉ: Tùy tâm khởi lên theo dõi mà chế phục. Vì không muốn cho nó tán loạn. Kinh nói: Năm căn nầy tâm là chủ, thế nên các ông phải khéo chế tâm. Hai loại nầy đều là sự tướng chẳng cần phải phân biệt.

- Thể chơn chỉ: Muôn pháp tùy tâm biến hiện, tất cả đều do nhân duyên sanh, nên nó không có tự tánh, đã không tự tánh thì tâm không thủ trước. Nếu tâm không chấp thủ thì vọng niệm không phát sanh, nên gọi là Chỉ.

Đó là ba phương pháp tu chỉ để hướng dẫn tâm vọng an trú vào định. Tuy nhiên, khi tu Chỉ lâu, thì hành giả dễ bị hôn trầm. Do đó, nên hành giả phải cần tu Quán. Tu Quán có hai loại:

- Đối trị Quán: Hành giả nên dùng một đề mục nào đó trong ba mươi phẩm trợ đạo để quán sát. Như quán bất tịnh hay Giới phân biệt quán v.v... Mục đích là để đối trị. Quán bất tịnh là để đối trị tham dục. Quán giới phân biệt là để đối trị cái tâm ngu si chấp ngã.

- Chánh quán: Quán các pháp không có tướng chân thật, tất cả đều do nhân duyên sanh. Tánh của nhân duyên không thật có, tức là Thật tướng. Cảnh sở quán vốn không, thì tâm năng quán tự nhiên chẳng khởi.

Tóm lại, hai pháp tu "Chỉ" và "Quán", theo Tổ Thiên Thai khuyên chúng ta khi áp dụng hành trì thì phải khéo linh động thay đổi trong khi tu. Như Chỉ lâu thì dễ bị hôn trầm (ngủ gật), bấy giờ hành giả phải tu Quán. Quán các pháp là không thật, bởi do nhân duyên mà có ra. Cái có đó chỉ là giả có, tự tánh của các pháp là không. Do quán như thế, nên trị được bệnh hôn trầm. Quán lâu thì dễ bị loạn, nên phải tu Chỉ. Chỉ là dừng mọi thứ vọng tưởng để an trú vào một cảnh cho tâm định lại. Như an trú vào hơi thở v.v... Đó là phương pháp áp dụng tu Chỉ và Quán vậy. Vì phạm vi trả lời câu hỏi có giới hạn, nên chúng tôi không thể giải rộng được. Phật tử muốn biết rõ hơn về pháp tu nầy, thì nên đọc quyển Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu của Thiên Thai Trí Giả Đại Sư do cố Hòa thượng Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo ấn hành.

73. Tu theo hạnh Tùy hỷ công đức như thế nào mới được lợi lạc?

Hỏi:  Kính bạch thầy, mỗi khi con tụng Kinh Pháp Hoa đến Phẩm Tùy Hỷ Công Đức con rất thích, nhưng con không biết phải áp dụng tu như thế nào mới có được lợi lạc theo như trong Kinh dạy. Kính mong thầy từ bi giải thích cho con được hiểu. Kính trọng ơn thầy.

Đáp: Tùy hỷ là vui theo với những việc làm phúc thiện của người khác. Nghĩa là khi ta mở rộng cõi lòng hoan hỷ thì khi đó ta không có tánh đố kỵ ganh ghét với bất cứ ai. Bản chất của con người không thích ai hơn mình. Lòng đố kỵ ganh tỵ của con người khi thấy ai hơn mình thì đều ganh ghét không ưa. Họ chỉ muốn mọi người phải nghe và phục tùng theo họ. Chính vì thế mà bản ngã của họ ngày càng cao thêm. Bản ngã càng cao thì những tập khí xấu ác thô trọng của họ càng hiện ra nhiều. Người có tâm tùy hỷ là người hay có những đức tánh hòa ái, nhẫn nại, khiêm cung. Họ luôn tôn trọng ý kiến của người khác. Họ không thích phê bình chỉ trích nói xấu ai. Vì họ thừa biết, những người thích giao du nói chuyện thị phi đàm tiếu chuyện thiên hạ sự, đó là những hạng người không tốt. Họ là hạng người chuyên đi vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết, nhưng bản thân họ thì lại đầy sâu, đầy vết mà họ không chịu thấy. Nhà họ rác rến đầy ấp mà họ không bao giờ biết lo dọn quét. Họ chỉ thích đi quét dọn rác rến nhà người khác. Đối với hạng người nầy gần họ chắc chắn là ta sẽ dễ bị nhiễm độc, tức nhiễm phải thói hư tật xấu của họ. Ta nên tìm cách lánh xa họ thì tốt hơn. Vì ta không muốn gây nên phiền phức phiền não. Thế nên, Phẩm Tùy Hỷ Công Đức thứ 18 trong Kinh Pháp Hoa Phật đã cho chúng ta ba bài học mà ta cần phải lưu ý. Dĩ nhiên, còn có nhiều bài học rất sâu sắc trong Phẩm nầy, nhưng ở đây trong phạm vi trả lời, chúng tôi chỉ xin nêu ra vắn tắt qua ba bài học căn bản, theo sự nhận thức thiển cận của chúng tôi mà thôi.

- Thứ nhứt, ta không nên diễn dịch sai lệch yếu chỉ lời Phật dạy. Thông thường, người ta vì chủ quan nên hay diễn dịch sai lầm câu chuyện. Chuyện một đồn mười, vẽ vời thêu dệt tô đậm nét câu chuyện. Chuyện ít xích cho nhiều, đó là tâm bệnh chung của con người. Từ câu chuyện được nói qua người thứ nhứt và khi chuyền đến người thứ mười hoặc nhiều hơn nữa, thì câu chuyện đã không còn giữ nguyên vẹn ở lúc ban đầu. Người ta thường nói, "Tam sao thất bổn" là vậy. Bởi thế nên mới có câu: "Y Kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly Kinh nhứt tự tức đồng ma thuyết". Từ đó, ta rút ra bài học: "Không nên nghe người khác học lại câu chuyện của người khác nói mình". Bởi họ không khi nào diễn kể lại đúng theo câu chuyện của người đó nói. Đây là một sự hiểu lầm nhau gây nên tình bạn sứt mẻ rất tai hại. Đó là chưa nói họ mượn tay người khác để hại mình. Chiêu thức nầy gọi là "ném đá giấu tay". Vì thế ta nên hết sức cẩn thận khi nghe câu chuyện mà người khác học lại với ta. Lối đâm thọc nầy thật là tội lỗi!

Thứ hai, ta nên chú ý cụm từ trong Kinh nói: "Tùy theo khả năng của mình". Khả năng nhận thức của mình như thế nào về lời Phật dạy, thì ta nên lượng sức mình mà diễn nói. Điều gì ta chưa hiểu rõ thì phải chịu khó học hỏi, ta không nên nói càng bướng theo sở kiến ý nghĩ riêng của mình. Bởi thế khi nghe pháp hay học hỏi giáo lý, ta phải chịu khó lắng nghe cho thật kỹ. Ta không nên có thái độ thờ ơ xao lãng khinh suất. Thế là ta đắc tội khinh pháp. Ta phải cố gắng nỗ lực gia công tìm tòi học hỏi nguồn giáo lý thâm sâu Phật dạy. Điều gì ta chưa hiểu, chưa thông, thì ta nên tùy hỷ học hỏi với những người có trình độ hiều biết Phật pháp hơn ta. Đó là ta khéo biết dẹp bỏ lòng ganh tỵ hay mặc cảm tự ty ở nơi chính mình. Ta phải tự nhủ với lòng mình rằng, bằng mọi cách ta phải cố gắng vươn lên để bền chí kiên tâm lập trường cầu tiến trong sự tu học.

Thứ ba, niềm hoan hỷ lớn mạnh trong ta là khi ta được tiếp nhận từ người khác diễn thuyết lại giáo lý sâu sắc trong Kinh Pháp Hoa. Nói rộng ra là ta phải hoan hỷ mở rộng cõi lòng đón nhận những nguồn giáo lý giác ngộ và giải thoát. Ta nên tùy hỷ với những việc làm tốt đẹp của người khác. Mặc đù điều đó ta có khả năng làm được hoặc không làm được. Đó là ta khéo biết tu hạnh Tùy hỷ công đức rồi. Cái công đức mà trong Kinh nói, nó nằm ở chỗ là, ta phải cương quyết dẹp bỏ lòng ganh tỵ đố kỵ với mọi người, mà ta phải thật tâm rộng mở cõi lòng để vui theo với những việc làm thiện sự của người khác. Như người đó có khả năng vượt trội hơn ta về mặt hành thiện vị tha chẳng hạn. Ví như, người đó phát tâm bố thí, cúng dường, công quả, đi chùa, tụng kinh, niệm Phật v.v...  mà ta chưa có khả năng làm được như họ, thì ta nên tùy hỷ với những việc làm của họ, thì Phật nói công đức của hai người hành thiện ngang nhau. Hạnh tùy hỷ mới nghe thì thấy dễ, nhưng khi thật hành thì mới thấy khó. Khó ở chỗ là lòng ta còn chất chứa quá nhiều tập khí ganh tỵ đố kỵ người khác. Và lòng tham lam tật đố của ta còn đầy ấp. Vì thế nên mới nói là khó tu hạnh nầy vậy. Tôi thành thật khuyên Phật tử nên cố gắng tu hạnh tùy hỷ công đức nầy.

Kính chúc Phật tử sẽ đạt được nhiều lợi lạc trong sự tu hành.

74. Niệm Phật như thế nào mới chóng được vãng sanh?

Hỏi: Kính thưa thầy, con là một Phật tử tu theo pháp môn Tịnh độ đã lâu, con cảm nhận cuộc đời nầy quá đau khổ, bản thân con cũng đã trải qua quá nhiều cay đắng khổ sở, con không còn tha thiết ham muốn gì với cuộc đời nầy nữa, nay con chỉ muốn niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc thôi. Nhưng con không biết phải niệm Phật như thế nào mới chóng được vãng sanh chỉ trong một đời nầy? Kính mong thầy từ bi chỉ dạy cho con để con thực hành đúng theo chóng có kết quả lợi lạc. Thành kính cảm ơn thầy.

Đáp:  Cổ nhân thường dạy: "Nhơn vô hoạn họa bất hồi đầu". Nghĩa là, nếu con người không gặp khổ nạn, thì ít có ai chịu hồi đầu thức tỉnh tu hành, tìm đường giải thoát. Nhờ có khổ đau nên con người mới thức tỉnh tu hành. Trường hợp của Phật tử cũng thế. Tuy nhiên, không phải ai gặp hoạn nạn khổ đau đều hồi đầu tu hành hết. Cũng có người lâm vào những hoàn cảnh khổ đau cùng cực, thế nhưng, họ cũng không có hồi tâm thức tỉnh. Có thể căn lành của họ rất mỏng và nghiệp lực của họ quá sâu dầy. Ngược lại, Phật tử thì có khác. Tuy chịu nhiều đau khổ nhưng nhờ có gieo trồng nhiều căn lành với pháp môn Tịnh độ nên nay mới quyết tâm niệm Phật cầu vãng sanh. Với phát tâm tín nguyện sâu dầy, thì tôi tin chắc rằng, trước sau gì Phật tử cũng đạt được sở nguyện mà thôi.

Về pháp môn niệm Phật, theo lời Phật Tổ dạy, hành giả muốn niệm Phật mau được nhứt tâm bất loạn, thì phải nên buông xả hết trong ngoài. Buông xả trong ngoài như thế nào? Theo lời dạy của Tổ Liên Trì, Ngài khuyên hành giả Tinh độ, khi niệm Phật là phải buông xả cả thân tâm, trong ngoài không chấp trước vật gì. Nói về phương pháp xả, thì Ngài dạy: "Phương pháp xả trong kinh nói rất nhiều. Đặc biệt trong Kinh Lăng Nghiêm, chương Bồ tát Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông có dạy: "Thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm liên tục". Dùng vào đức hồng danh một câu Thánh hiệu Nam mô A Di Đà Phật buộc chặt nơi sáu căn, đem danh hiệu Phật làm "bổn mạng nguyên thần" của chúng ta. Từ thủy đến chung, từ sáng đến tối, quyết không lìa câu Phật hiệu. Trong quá trình trì danh hiệu Phật, xả bỏ các duyên của sáu căn, xả bỏ sự tiêm nhiễm của sáu trần. Nương tựa vào nguyện lực đại từ, đại bi của Phật A Di Đà để thành tựu hạnh nguyện vãng sanh Cực lạc, giải thoát luân hồi và chứng quả thành Phật".

Qua lời dạy của Tổ, Phật tử thấy, hành giả niệm Phật muốn được vãng sanh trong một đời, thì không có gì khác hơn là phải thật hành một chữ "Xả". Bởi niệm Phật mà còn dính mắc vào sáu trần, thì làm sao an trú trong câu Phật hiệu sáu chữ Di Đà cho được? Muốn được tịnh niệm nối luôn không xen hở thì, hành giả phải chuyên tâm niệm Phật. Đồng thời phải phát nguyện tha thiết cầu sanh về Cực lạc. Phật tử đã có niềm tin vững chắc quyết một đời niệm Phật cầu vãng sanh, thì Phật tử chỉ cần hành chuyên và nguyện thiết nữa, thì bảo đảm trong một đời quyết định được vãng sanh. Điều nầy không còn gì phải nghi ngờ nữa cả.

Kính mong Phật tử nên y theo lời dạy của Tổ Liên Trì mà thật hành cho đúng pháp, thì lo gì khi lâm chung Phật tử không được vãng sanh.

Kính chúc Phật tử tinh tấn niệm Phật, chóng đạt thành sở nguyện.

75. Người phụ nữ khi sanh sản có nên niệm Phật thành tiếng không?

Hỏi: Kính bạch thầy, con có một thắc mắc là khi người phụ nữ sanh sản có nên niệm Phật thành tiếng không? Có người nói vì là chỗ dơ dáy bất tiện nên không thể niệm Phật ra tiếng, như thế sẽ mang tội thất kính. Không biết lời nói nầy có đúng không? Kính xin thầy giải thích cho con rõ.

Đáp: Xin thưa ngay, người nói như thế hoàn toàn không đúng. Lời nói đó có thể là do họ tự suy đoán mà nói ra thôi. Nếu có gì chưa hiểu thì nên tìm hiểu cho rõ, chớ không nên suy đoán nói càng vô căn cứ mà có lỗi. Điều đó, thiết nghĩ, Phật tử không nên nghe theo. Khi nghe ai nói điều gì mình cần phải kiểm nghiệm lại cho thật kỹ. Không nên nghe đâu tin đó. Tin như thế thì thật là nguy hiểm, tai hại vô cùng.

Việc sinh sản là sinh lý tự nhiên của người phụ nữ. Đâu phải người đó muốn tạo ra cảnh dơ dáy mà không niệm Phật được. Hơn nữa, lúc sanh sản là lúc thập tử nhứt sanh nên cần phải niệm Phật. Không những sản phụ niệm Phật thành tiếng không thôi, mà những người thân có mặt lúc đó cũng đồng niệm Phật thành tiếng trợ lực cùng sản phụ. Trường hợp đó niệm Phật thành tiếng không có tội lỗi gì cả. Bởi chư Phật, Bồ tát đâu có phân biệt dơ sạch như phàm phu chúng ta. Chỉ sợ lúc đó vì quá đau đớn nên sản phụ không nhớ đến niệm Phật đó thôi. Do đó, người nhà hãy vì sản phụ mà khuyến nhắc nên niệm Phật to tiếng. Điều quan trọng là khi niệm Phật, mọi người phải hết sức thành tâm nên vì sản phụ mà chí thành tha thiết niệm Phật. Nguyện cầu chư Phật, Bồ tát gia hộ cho việc sanh sản được thuận lợi nhanh chóng mẹ tròn con vuông.  

Đọc trong kinh sách cũng như nghe các bậc Cổ Đức thường khuyến nhắc, trong lúc sanh sản, người sản phụ phải hết lòng chí thành niệm Phật. Có nhiều sản phụ xấu tánh trong lúc đau bụng khó chịu, hay khóc lóc la lối chửi bới om sòm cào cấu lung tung, làm cho người nhà rối loạn cả lên không giúp ích được gì cả. Điều nầy, thiết nghĩ người nhà cũng nên thông cảm mà tìm cách an ủi khuyên giải sản phụ. Nếu chỉ biết khóc la chửi bới om sòm, chẳng những không giải quyết được gì mà còn gây thêm nghiệp khẩu nữa. Chi bằng tất cả nên thành tâm niệm Phật to tiếng, như vậy có phải là có lợi ích lắm không? Nếu người sản phụ vì đau quá không nhớ niệm Phật thì người nhà nên nhắc nhở mà cùng nhau to tiếng niệm Phật cho đến khi đứa bé lọt lòng chào đời mới thôi. Biết đâu nhờ to tiếng niệm Phật mà sản phụ quên đi cơn đau. Và lúc đó chư Phật, Bồ tát đồng thùy phóng quang gia hộ cho việc sanh sản được thập phần tiện lợi tốt đẹp.

 Thật ra, tôi chưa thấy vị nào nói là trong lúc sanh sản, người sản phụ không được niệm Phật thành tiếng cả. Niệm Phật thành tiếng có lỗi là trong khi ta vào cầu xí hoặc lúc nằm ngủ. Khi đó, ta chỉ thầm niệm Phật mà không nên niệm ra tiếng. Nếu ta niệm thành tiếng thì mới mang tội thất kính. Đó là lời khuyên bảo của Tổ Ấn Quang. Còn việc sanh sản là việc tự nhiên của người phụ nữ, thì tại sao không niệm Phật thành tiếng được? Điều nầy không có ai và cũng không có kinh sách nào ngăn cấm cả. Phật tử cứ yên tâm đừng lo ngại việc đó.

Kính chúc Phật tử an vui mạnh khỏe bền tâm tu niệm cho đến ngày thành công viên mãn.

76. Có thân nhân mất phải làm gì trong tang lễ.

Hỏi: Kính bạch thầy, khi có người thân trong gia đình mất, theo nghi lễ Phật giáo thì chúng con phải chuẩn bị và làm gì trong tang lễ? Cũng như trong vòng thời gian 49 ngày. Kính xin thầy hoan hỷ giải đáp cho con rõ. Thành kính cảm ơn thầy.

Đáp: Khi một người mới mất, thông thường, theo Phật giáo thì gồm có các nghi lễ chính như sau:

- Lễ nhập liệm hay tẩn liệm, tức đưa thi thể của người mất vào quan tài.

- Lễ thành phục hay phát tang.

- Lễ cúng vong (cúng cơm cho hương linh người mất)

- Các thời kinh cầu siêu cho hương linh khi linh cữu còn quàn tại nhà quàn hay ở nhà hoặc ở chùa.

- Lễ di quan, tức tiễn đưa hương linh đến nơi an nghỉ: mai táng hoặc hỏa táng...

- Lễ an linh, tức rước linh về thờ ở chùa hoặc ở nhà sau khi hỏa táng hoặc mai táng.

Đại khái, đó là những lễ chính thức theo nghi thức Phật giáo. Tuy nhiên, còn những nghi thức khác thì tùy theo mỗi nơi, mỗi hoàn cảnh và mỗi chùa, mà chư Tăng, Ni hành lễ có đôi khi khác nhau chút ít. Nhưng đó là những nghi lễ dành cho người mới mất không thể thiếu được. Ngoài ra, còn việc coi ngày giờ tẩn liệm hoặc thiêu hay chôn, là do tang chủ quyết định. Phật tử có thể trực tiếp đến chùa hoặc gián tiếp điện thoại cho Tăng, Ni, thưa trình những gì mà Phật tử cần làm. Mọi việc lễ nghi đều do Tăng hoặc Ni hướng dẫn. Nếu người mất là một liên viên chính thức sinh hoạt trong đạo tràng như đạo tràng Quang Minh ở Melbourne - Úc Châu chẳng hạn, thì mọi lễ nghi trong tang lễ sẽ do đạo tràng đứng ra chủ trì và hướng dẫn mọi việc. Điều nầy, từ trước tới nay Đạo tràng đã thực hiện như thế.

Còn Phật tử hỏi, Phật tử phải chuẩn bị và làm như thế nào trước và trong thời gian tang lễ diễn ra, xin thưa, Phật tử nên chuẩn bị các việc như sau:

- Nếu Phật tử là người ở Úc, thì việc trước tiên là Phật tử phải đặt thuê nhà quàn. Nếu không, thì Phật tử cũng có thể quàn ở chùa, nhưng phải thưa qua với vị trụ trì sở tại xem vị đó có hoan hỷ chấp thuận hay không?

- Chuẩn bị khăn tang cho các thân nhân trong tang quyến.

- Hoa quả nhang đèn v.v...

- Thức ăn uống để cúng tiến hương linh.

- Thiết lập bàn thờ linh tại nhà (nếu gia đình muốn thờ ở nhà).

Đó là những điều cần thiết mà Phật tử cần chuẩn bị sẵn.

Và sau tang lễ, Phật tử chỉ lo cầu siêu cho hương linh mỗi tuần thất cho đến chung thất 49 ngày. Đến tuần chung thất, nếu Phật tử cũng như thân nhân trong gia đình muốn cúng dường trai tăng để cầu siêu bạt độ cho hương linh, thì gia chủ phải trình bạch với Tăng, Ni ở trong chùa nơi mà Phật tử muốn thiết lễ cúng dường trai tăng.

Kính chúc Phật tử có đầy đủ niềm tin và trí tuệ trong vấn đề tu học cho đến ngày công thành quả mãn.

77. Chánh hạnh và trợ hạnh như thế nào?

Hỏi: Kính bạch thầy, con thường nghe nói đến chánh hạnh và trợ hạnh, nhưng con chưa hiểu tu chánh hạnh và trợ hạnh như thế nào?  Như trường hợp của con lâu nay con tu theo pháp môn Tịnh độ, con thường tụng kinh, trì chú niệm Phật. Vậy cái nào là chánh và cái nào là trợ? Kính mong thầy giải đáp cho con rõ.

Đáp: Chánh là chỉ có một không hai là cái quan trọng nhất mà hành giả phải chuyên cần thật hành đúng theo. Còn trợ là cái phụ giúp cho cái chánh được tăng trưởng lớn mạnh vững chắc thêm. Như Phật tử nói, Phật tử tu theo pháp môn Tịnh độ thường tụng kinh, trì chú, niệm Phật. Theo chư Tổ Liên Tông dạy, người tu theo pháp môn Tịnh độ thì lấy việc niệm Phật A Di Đà làm chánh hạnh, còn tụng kinh, trì chú hay bố thí cúng dường v.v... đều là những việc làm trợ hạnh. Nhưng cái chánh hạnh bao giờ cũng được chú tâm quan trọng nhiều hơn. Hằng ngày, Phật tử lấy việc niệm Phật cầu sanh Cực lạc làm chính yếu, coi như việc đó là bổn mạng ngươn thần của mình, cần phải có thời khóa nhất định. Ngoài ra, khi tụng kinh hay trì chú Phật tử cũng phải niệm Phật. Ngoài những thời khóa đó ra, những lúc đi, đứng, nằm, ngồi, tới lui động tịnh, tùy thời, tùy chỗ, Phật tử đều nên niệm Phật. Niệm Phật như thế lâu ngày trở thành một thói quen mạnh, đó gọi là sức mạnh của việc niệm Phật. Chính cái thói quen nầy, trong kinh thường gọi là nghiệp lực (sức mạnh của nghiệp)  khi thuần thục nó sẽ làm chủ động. Bấy giờ Phật tử không dụng công niệm Phật mà nó vẫn tự niệm. Đây gọi là "Bất niệm tự niệm".

Theo đệ Nhị Tổ Thiện Đạo và đệ Bát Tổ Liên Trì cũng như cố Hòa thượng Thích Trí Tịnh đều dạy: Người niệm Phật phải đạt tầng công phu thấp nhất, là Bất niệm tự niệm (niệm lực được tương tục) mới bảo đảm vãng sanh. Hành giả muốn đạt được Bất niệm tự niệm thì phải chuyên tu Chánh hạnh. Người đời thường nói: "Nhất nghệ tinh nhất thân vinh". Thế thì, muốn có kết quả tốt đẹp như ý muốn, thì hành giả phải cố gắng chuyên tu Chánh hạnh, không nên tu Tạp hạnh. Thuần thì không tạp mà tạp thì không thuần. Cho nên khi hạ thủ công phu, ta cần phân biệt rõ đâu là chánh hạnh và đâu là trợ, tạp hạnh. Có thế thì công phu tu tập của chúng ta mới có thể đạt được kết quả tốt đẹp vậy.

78. Người đạt Bất niệm tự niệm, có còn vọng niệm không?

Hỏi: Kính bạch thầy, con đọc trong sách Tịnh độ thấy có câu: Bất niệm tự niệm, nhưng con không hiểu khi mình đạt được Bất niệm tự niệm rồi, thì khi đó có còn vọng niệm không? và cho đến khi nào mới trừ hết vọng niệm? Kính xin thầy giái đáp cho con rõ.

Đáp: Xin thưa, người đạt Bất niệm tự niệm, chỉ vọng niệm ít khởi thôi, chớ chưa thật sự dứt hết. Nếu sạch hết vọng niệm thì thành Phật rồi. Tuy thỉnh thoảng vọng niệm có khởi, nhưng vừa khởi lên liền tự dứt. Đây là chỗ kỳ đặc vi diệu của pháp môn niệm Phật.

Triệt Ngộ Đại Sư là vị Tổ thứ mười hai trong Liên tông có dạy: "Chỉ có Đức Phật mới vô niệm, còn từ Đẳng giác Bồ tát trở xuống đều hữu niệm". Như vậy, từ ngữ "vô niệm" mà chúng ta thường nghe thường dùng có nghĩa là không tà niệm chớ không phải thật sự là không có niệm.

Ngẫu Ích Đại Sư nói: "Nhập vô tưởng định vẫn còn có tám vạn bốn ngàn (84.000) loạn tưởng khô khan".

Trong khế kinh có nói: Trong khoảng khảy ngón tay có sáu mươi sát na. Mỗi sát na có một trăm mười ý niệm. Như vậy trong khoảng khảy ngón tay có sáu ngàn sáu trăm ý niệm. Những ý niệm mà ta thường nói đó là những ý niệm thô, còn những ý niệm vi tế thì làm sao ta có thể nhận ra được?

Phật tử hỏi cho đến khi nào mới trừ hết vọng niệm? Nếu y cứ vào Tứ quả Thanh Văn của Phật giáo Nguyên Thủy, thì đến quả vị A la hán mới trừ hết vọng niệm (A la hán vị xả). Nghĩa là A la hán xả bỏ hết vọng niệm. Còn y cứ vào quả vị tu chứng của Phật giáo Phát Triển (Đại thừa) thì phải đến quả vị Phật mới hoàn toàn không còn vọng niệm. Vọng niệm sạch hết thì mới gọi là Giác ngộ viên mãn.

79. Lạy Phật như thế nào mới đúng ý nghĩa?

Hỏi:  Kính thưa thầy, con là một Phật tử đi chùa đã lâu, nhưng chỉ đi chùa theo lệ thường chớ không có tu học hay nghiên cứu kinh điển. Về cách thức lạy Phật cũng như nguồn gốc ý nghĩa lạy Phật và lạy Phật có bao nhiêu cách? thú thật là con chưa hiểu rõ. Vậy con kính mong thầy hoan hỷ có thể giải thích cho con được hiểu rõ hơn. Con thành kính cảm ơn thầy.

Đáp: Lạy Phật thuộc về Lễ bái môn một trong Ngũ niệm môn (Lễ bái môn, Tán thán trì tụng môn, Tác nguyện xưng danh môn, Quán sát môn và Hồi hướng môn).  Truy nguyên về nguồn gốc của việc lạy Phật đã có từ thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế. Xưa kia, đức Phật không phải chỉ ở nhơn gian không mà có khi Ngài lên cung trời thuyết pháp. Thời gian Ngài vắng mặt ở nhơn gian, các hàng đệ tử rất nhớ Ngài. Khi gặp Phật ai nấy đều hết sức mừng rỡ và hết lòng tôn kính, bằng cách quỳ mộp xuống ôm chân Ngài và đặt trán mình lên bàn chân Ngài. Đó là biểu lộ lòng chí thành ngưỡng mộ một bậc Đạo Sư bi trí siêu phàm. Sau khi Phật nhập diệt, cử chỉ tôn kính lạy Phật vẫn được các hàng đệ tử tín đồ xuất gia và tại gia luôn thể hiện cho đến ngày nay và mãi đến ngàn sau. Lạy Phật cũng là một pháp môn thắng diệu để biểu lộ diệt trừ cái tâm cống cao ngã mạn, hiu hiu tự đắc, khinh người dưới mắt mình. Đó là ý nghĩa chính yếu của sự lạy Phật để dẹp trừ ngã mạn.

Phật tử hỏi: về cách thức lạy Phật và lạy Phật có bao nhiêu cách?

Về cách thức lạy Phật tùy theo mỗi truyền thống của các nước Phật giáo mà biểu hiện cách thức lạy Phật có khác nhau. Theo truyền thống của hệ phái Phật giáo phát triển ở Trung Hoa, cũng như ở Việt Nam, thì cách thức lạy Phật giống nhau. Nghĩa là, khi lạy Phật năm vóc gieo xuống đất. Đây gọi là "Ngũ thể đầu địa", tức là hai cánh tay, hai đầu gối quỳ xuống và đầu phải xát đất. Khi lạy xuống hành giả phải ngửa hai bàn tay ra đưa về phía trước với tư thế như đang nâng bàn chân Phật lên và trán phải đặt giữa hai bàn tay. Lạy Phật không những thân phải trang nghiêm tề chỉnh mà tâm cũng phải hết lòng cung kính tưởng như đức Phật đang ở trước mặt mình. Lạy Phật như thế, trong kinh gọi là "Thân tâm cung kính lễ".

Về cách lễ bái, đứng về mặt Sự tướng biểu lộ bằng hình thức của thân tâm mà nói, thì trong kinh nêu ra có 4 cách:

- Quy mạng lễ: cách lễ nầy hành giả phải đem hết cả thân tâm hướng về Phật mà chí thành đảnh lễ.

- Thân tâm cung kính lễ: cách lễ nầy như đã nói, thân và tâm phải hợp nhứt với nhau trong khi đảnh lễ.

- Sám hối lễ: cách lễ nầy hành giả phải hết lòng sám hối những lỗi lầm mà mình đã gây tạo để cầu Phật chứng minh cho lòng ăn năn sám hối của mình.

- Hồi hướng phát nguyện lễ: cách lễ nầy là hành giả phải bối trần hiệp giác, phát nguyện làm những điều lành, tránh xa các điều dữ, có bao nhiêu công đức phúc thiện đều hồi hướng về quả Vô thượng Bồ đề.

Đứng về phương diện Lý lễ cũng có 4 cách:

- Phát trí thanh tịnh lễ: cách lễ nầy hành giả đem tâm thanh tịnh mà lễ, bởi tất cả cảnh giới của chư Phật đều từ tâm hiện bày. Do đó, lạy một vị Phật là lạy tất cả chư Phật. Lạy một lạy là lạy tất cả pháp giới, vì pháp thân của Phật dung thông trùm khắp. Dụ như, tất cả bóng đèn đều có chung một dòng điện vậy.

- Biến nhập pháp giới lễ: cách lễ nầy hành giả nên quán sát thân tâm cùng pháp giới không rời nhau. Pháp giới tánh trùm khắp mười phương, ở thánh không tăng, ở phàm không giảm, tánh vốn không hai, hành giả thể nhập sống với "tánh không hai" nầy gọi là Biến nhập pháp giới lễ.

- Chánh quán lễ: Cách lễ nầy là hành giả nên lễ ông Phật tự tâm mình, không nên chạy ra ngoài tìm cầu, vì mỗi chúng sanh đều sẵn có tánh giác, gọi là Phật tánh viên mãn, bình đẳng và chân giác.

- Thật tướng bình đẳng lễ: Cách lễ nầy là hành giả không còn thấy có hai, tự và tha hay năng và sở khác nhau, tất cả đều có chung một thể tánh, tức vạn vật đồng nhứt thể. Đó là năng lễ sở lễ tánh không tịch. Lễ Phật như vậy, mới thực sự là thể hiện trọn vẹn Lý hành lễ vậy.

Nói gọn cho Phật tử dễ hiểu là lạy Phật có Sự lạy và Lý lạy. Qua hai cách chính nói trên, thì đại đa số Phật tử chúng ta đều nghiêng về phần Sự lễ hơn là Lý lễ. Ngay cả phần Sự lễ thôi, đôi khi chúng ta thật hành còn không đúng cách nói chi là phần Lý lễ. Nhưng chúng ta cũng cần nên hiểu cả hai cách lễ Phật vậy.

80. Trong Phật giáo có mấy loại thực? Và mỗi loại thực ý nghĩa như thế nào?

Hỏi: Kính bạch thầy, xin thầy có thể giải thích cho con hiểu, trong Phật giáo có nói đến nhiều loại thức ăn, nhưng con chưa biết có bao nhiêu loại? Và mỗi loại thức ăn nó có ý nghĩa như thế nào? Kính mong thầy từ bi giải thích cho con được rõ.

Đáp: Thông thường Phật giáo nêu ra có bốn loại thức ăn: Đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực.

- Đoàn thực, là những loại thức ăn mà chúng ta ăn bằng miệng. Khi ăn chúng ta cũng phải sử dụng đến Chánh kiến để phân biệt các loại thức ăn cho hợp lý. Ăn uống là một nhu cầu thiết yếu cho sự sống. Sống là phải ăn uống, nhưng ăn uống như thế nào cho hợp lý đó mới là điều quan trọng. Không phải thức ăn, thức uống nào cũng đem lại sự bổ dưỡng ích lợi cho cơ thể ta. Có những loại thực phẩm tự nó chứa quá nhiều độc tố. Ta phải biết phân loại thức ăn và chỉ ăn những loại thức ăn nào có sinh tố bổ dưỡng không làm hại cơ thể ta. Nhưng phải ăn cho có điều độ. Ăn uống tuy là một nhu cầu thiết yếu cho sự sống nhưng nó cũng rất là phức tạp. Nếu ta không có Chánh kiến để nhận định phân biệt kỹ càng thì cũng rất là tai hại trong khi tiêu thụ thực phẩm. Tục ngữ có câu: "Họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập". Đây là một câu nói đầy kinh nghiệm của người xưa. Ta nên lưu ý và cẩn thận vấn đề nầy. Câu nói: "Ăn để mà sống, chớ không phải sống để mà ăn". Ăn để mà sống là nói về Đoàn thực. Ta chỉ cần ăn uống đạm bạc để sống qua ngày là được rồi. Đâu cần phải ăn uống cầu kỳ, cao lương mỹ vị, mới sống được. Ăn chay là tốt nhứt cho đời sống hiện nay. Mặc dù các loại thực phẩm hiện nay, không có loại thực phẩm nào thuần khiết không bị nhiễm độc. Chẳng qua ít hay nhiều đó thôi. Bởi môi trường sinh thái hiện nay bị ô nhiễm rất nhiều. Tuy nhiên, đối với các loại thịt cá thì có thể bị ảnh hưởng chất độc nhiều hơn. Phật dạy khi ăn ta cần phải có chánh quán, chánh niệm. Chánh quán là ta phải quán sát kỹ lưỡng thức ăn, thức uống mà ta đang dùng cái nào có lợi hay có hại cho ta. Chánh niệm là ta ăn để nuôi dưỡng cơ thể mà không gây tổn hại cho mình và người rộng ra cho đến muôn loài. Đừng vì miếng ăn ngon béo bổ của mình mà gây ra đau khổ cho loài khác. Vì thế, Phật dạy không nên sát hại sinh vật để ăn là thế.

- Loại ăn thứ hai là xúc thực. Loại ăn nầy là ăn qua sáu căn của ta. Xúc có nghĩa là căn và cảnh giao tiếp nhau. Nói rõ và cụ thể hơn là sáu căn của ta ăn qua sáu trần cảnh. Nói trần là khi tâm ta còn bị nhiễm trước. Nói cảnh là khi tâm ta thanh tịnh. Trần hay cảnh cũng đều từ tâm ta mà ra. Khi căn và trần tiếp xúc cũng có hại và cũng có lợi. Có hại là khi ta tiếp xúc đem chất độc vào mình. Ví dụ, như khi ta xem truyền hình, mắt ta tiếp xúc với sắc trần. Khi ấy nếu ta thiếu chánh kiến, chánh niệm thì ta có thể đưa vào trong cơ thể ta toàn là những chất độc hại như: sợ hãi, căm thù, ganh ghét, bực tức, bạo động v.v...Có những loại phim mang tính xây dựng xã hội tốt đẹp thì ta nên xem. Xúc thực nầy đối với con em của chúng ta cũng rất có lợi mà cũng rất có hại. Nếu khéo biết điều hướng chúng xem những loại phim hay, thì rất có lợi mở mang thêm kiến thức học hỏi của chúng, bằng trái lại, thì mang lại cho chúng nhiều điều tai hại. Bởi chúng chưa có đủ trình độ nhận định, tức chưa có chánh kiến và chánh niệm. Thế nên, các bậc phụ huynh cũng nên lưu ý quan tâm về vấn đề xúc thực nầy. Cần hướng dẫn cho chúng nó coi những loại phim nói lên được tính xây dựng tình người, có lòng từ ái bao dung, tha thứ, nhất là tình thương đồng loại v.v... Đó là cách thực tập cho chúng có được chánh kiến, chánh quán ... trong đời sống sau nầy.

Tóm lại, xúc thực rất quan trọng trong đời sống tinh thần. Ta cần tiếp xúc những gì đem lại lợi lạc cho đời sống tâm linh của ta. Tuyệt đối, ta không nên tiếp xúc những gì mang lại có hại cho tinh thần ta. Bởi những thứ đó nó có năng lực tàn hại cả thân tâm ta, thế thì ta cần phải tránh xa chúng nó.

- Loại thức ăn thứ ba là Tư niệm thực. Tư niệm là nhớ nghĩ là những ước mơ mong muốn thực hiện một điều gì đó có lợi cho ta. Như mong muốn đỗ đạt thành danh hoặc là mong muốn có được giàu sang trở thành triệu phú v.v... những mong muốn đó trở thành như loại thức ăn của tư tưởng ta. Những điều mong muốn đó mà không được toại nguyện tất nhiên là ta phải đau khổ. Tuy nhiên, có những lại tư niệm thực cũng giúp ích cho ta rất nhiều trong cuộc sống. Như những ước muốn có được thân thể tráng kiện, mạnh khỏe vui tươi, muốn tu tập chuyển hóa vô minh phiền não để trở thành một bậc giác ngộ giải thoát để độ thoát cho đời thoát khỏi khổ đau v.v... Đó là loại tư niệm thực có thể đưa ta tới an lạc và hạnh phúc.

- Loại thức ăn thứ tư là thức thực. Thức là phân biệt là hiểu biết. Đời sống của ta đều do sự biểu hiện của thức. Sự biểu hiện nầy không ngoài chánh báo và y báo. Chánh báo là con người gồm có năm uẩn và y báo là môi trường hoàn cảnh chung quanh ta. Chánh báo và y báo là kết quả của hành nghiệp mà ta đã gây tạo trải qua nhiều đời trong quá khứ. Cả hai chánh và y báo đều do sự biểu hiện của tâm thức. Khi ta tiếp xúc ngoại cảnh hay nhận thức một công việc nào đó, tất nhiên là ta phải sử dụng đến ý thức. Ngoại cảnh và công việc do thức tiếp xúc phân biệt được xem như là một loại thức ăn của thức. Dĩ nhiên, có những loại thức ăn tốt cho thức nhưng cũng có những loại thức ăn không tốt cho thức. Ví dụ những gì thấy, nghe, ngửi, nếm, suy tư, tưởng tượng v.v.. tất cả những thứ đó như những dòng sông chảy về biển tâm thức. Hận thù, ganh ghét, buồn khổ... những thứ phiền não nầy là những loại thức ăn chứa nhiều chất độc tố làm hại cho tâm thức ta. Ta nhứt quyết loại trừ chúng nó ra khỏi tâm thức ta. Ta nên đem những loại thức ăn có đầy đủ chất bổ dưỡng cho tâm thức như từ bi, hỷ xả ... Đó là ta khéo biết chọn những loại thức ăn cho tâm thức của ta vậy.

81. Bệnh tật và pháp tu thích hợp

Hỏi: Kính thưa thầy, con là một Phật tử tuổi đã cao, lại thêm mang nhiều bệnh, đôi chân rất yếu, không thể đứng hoặc quỳ lâu, nhất là bệnh cao máu không thể lạy xuống đứng lên được. Mỗi khi tụng niệm con không thể lạy và quỳ như trước kia, vậy con phải làm sao cho đúng pháp? và tu pháp nào mới được thích hợp?

 

Đáp: Qua câu hỏi trên, tôi rất hiểu và thông cảm cho bệnh tình của Phật tử. Bệnh là một trong bốn nỗi thống khổ lớn của con người. Đối với những người trọng tuổi, không sao tránh khỏi bệnh đau. Tùy nhân duyên nghiệp quả của mỗi người mà có những chứng bệnh nặng nhẹ khác nhau. Trường hợp của Phật tử, vì tuổi già đau yếu, không thể lạy, quỳ hay đứng lâu được, thì Phật tử có thể ngồi chuyên tâm niệm Phật. Nếu khi ngồi lâu cảm thấy mệt mỏi tê chân, thì Phật tử cũng có thể đứng lên đi kinh hành niệm Phật. Khi dụng công tu hành ta không nên quá cố chấp nặng vào hình thức. Tùy theo sức khỏe hoặc tuổi tác mà ta khéo léo linh động thay đổi ứng dụng công phu hành trì cho thích hợp. Nếu Phật tử không lạy hay không quỳ được cũng không có sao. Bởi việc nầy ngoài ý muốn của Phật tử. Phật tử cũng đừng có ái ngại hay sợ lỗi lầm chi cả. Phật tử nên biết rằng, hình thức lễ nghi bên ngoài chỉ là phần phụ thuộc trợ duyên giúp cho tâm mình bớt buông lung phóng túng đó thôi. Nhưng điều quan trọng là ở nơi cái tâm của mình. Khi tu, làm sao cho thân và tâm của mình được tươi mát, thoải mái, an lạc là tu đúng. Ngược lại, thân thì chao động bất an, còn tâm thì luôn luôn thất niệm vọng tưởng nghĩ nhớ lăng xăng, như thế là đã tu sai lệch rồi. Vì cả thân tâm đều trạo cử. Nếu thế, ta nên điều chỉnh lại. Dù  không thể đứng lạy hay quỳ lạy Phật được, Phật tử chỉ ngồi niệm Phật giữ cho thân tâm được an định, thế là quá tốt rồi. Mục đích của sự tu hành là tâm phải an định sáng suốt, chớ không phải hạn cuộc vào những hình thức lễ nghi đứng hay quỳ. Do đó, trong khi hạ thủ công phu ta không nên quá chú trọng vào hình thức, mà cần phải uyển chuyển linh động tùy nghi cho thích hợp.

Phật tử hỏi: "Tu pháp nào mới được thích hợp?" Theo lời Phật Tổ dạy, đối với căn cơ của chúng sinh trong thời mạt pháp, thì không có pháp môn nào thù thắng vi diệu hơn là pháp môn niệm Phật. Trong trường hợp của Phật tử, theo tôi, thì Phật tử nên chọn tu pháp môn niệm Phật là thích hợp nhứt. Bởi hiện nay tuổi của Phật tử đã cao lại thêm có nhiều căn bệnh, sức khỏe yếu kém, không được tốt lắm, như thế, chỉ có cách niệm Phật là tốt cho Phật tử đó thôi. Tuy nhiên, ngoài việc lấy niệm Phật làm chánh hạnh, Phật tử cũng có thể thực hành những hạnh lành khác như: tụng kinh, bố thí, cúng dường v.v...

Xin nhắc lại cho Phật tử nhớ, khi niệm Phật, Phật tử không cần phải đứng hay quỳ, mà chỉ cần ngồi yên niệm Phật là được rồi.  Niệm Phật không luận thời gian và nơi chốn. Nơi nào và ở đâu Phật tử cũng có thể niệm Phật được cả. Chỉ ngoại trừ, những lúc Phật tử nằm ngủ nghỉ hay những chỗ bất tịnh như cầu xí, những nơi đó Phật tử chỉ cần niệm Phật thầm mà thôi. Nếu niệm ra tiếng, thì sẽ bị mang tội thất kính. Như vậy, chỉ có pháp tu niệm Phật là dễ nhứt để cho Phật tử tiện bề ứng dụng hành trì. Nói dễ là vì nó không đòi hỏi phần tự lực nhiều như những pháp tu khác. Bởi pháp môn niệm Phật ngoài phần tự lực ra còn có phần tha lực tiếp sức của đức Phật A Di Đà qua 48 lời đại nguyện của Ngài. Đồng thời theo pháp môn nầy, còn có phần đới nghiệp vãng sanh. Thế nên, tôi thành thật khuyên Phật tử nên chọn pháp môn niệm Phật để tu. Tuy nhiên, điều nầy còn tùy theo căn duyên sở thích của mỗi người mà chọn lựa. Sự chọn lựa nào cũng đòi hỏi hành giả phải có chánh kiến để trạch pháp cho đúng theo nguyện vọng của mình.

Kính chúc Phật tử luôn được dồi dào sức khỏe tinh tấn niệm Phật chóng đạt thành sở nguyện.

82. Ý nghĩa chuông mõ và cách thức sử dụng như thế nào?

Hỏi: Kính bạch thầy, con thấy chùa nào cũng có chuông mõ và ngay cả ở tư gia của một số Phật tử mà con có dịp tới lui tiếp xúc qua, cũng đều có chuông mõ. Thế nhưng, con chưa hiểu rõ nguồn gốc xuất xứ cũng như ý nghĩa chuông mõ là gì? và cách thức sử dụng vô chuông mõ như thế nào? Người đánh chuông và mõ phải giữ như thế nào mới đúng? Kính mong thầy giải thích cho con hiểu.

Đáp: Chuông là một trong những loại pháp khí có từ thời Phật. Trong Kinh A Hàm, quyển 24 Đức Phật bảo Ngài A Nan đánh chuông lên để tập họp chúng. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm ở phần "Kích Chung Nghiệm Thường", Phật sai La hầu la đánh chuông để chứng nghiệm tánh nghe cho Ngài A Nan.

 

Chuông có nhiều loại, nhưng xưa nay có 3 loại chuông thường được sử dụng trong thiền môn:

 

a. Hồng Chung: cũng còn gọi là Phạn chung, Hoa chung, Cự chung và Đại chung. Chuông nầy thường dùng trong các thời khóa: công phu khuya, chuông trống Bát nhã và trong các đại trai đàn chẩn tế, thường gọi là chuông U Minh.

 

b. Chuông Bảo Chúng: cũng còn gọi là Hoán chung, Tiểu chung, Bán chung. Chuông nầy thường dùng để báo chúng trong các trường hợp như: Chỉ tịnh, Thức chúng, Họp chúng, Chấp tác, Nghe pháp, Học tập v.v...

 

c. Chuông Gia Trì: chuông nầy thường đặt song song với mõ ở chánh điện trước bàn Phật để sử dụng nó với mõ tụng kinh hằng ngày. Công dụng của chuông nầy nhằm mục đích cảnh tỉnh thức nhắc và báo hiệu cho đại chúng biết để thúc liễm tam nghiệp trước và trong khi hành lễ. Người đánh chuông gọi là Duy na. Nghĩa là phải biết cách thức sử dụng chuông để điều khiển buổi lễ cho đúng cách hợp pháp.

 

Mõ cũng là một trong các loại pháp khí đã có từ lâu đời. Theo sách sử ghi lại, thì mõ có lẽ xuất xứ từ thời đại Nhà Đường ở Trung Quốc. Đó là người ta dựa vào trong bộ sách "Sắc Tu Thanh Quy Pháp Khí" ở chương Mộc Ngư nói về cái mõ tạc hình con cá.

 

Có hai loại mõ mà trong thiền môn thường dùng:

 

a. Mõ có hình bầu dục, tức hình tròn như vảy cá: Loại nầy thường được dùng trong các thời khóa lễ sớm tối có đông người tụng niệm với mục đích là để cho mọi người tụng nhịp nhàng theo trường canh của tiếng mõ. Người đánh mõ gọi là duyệt chúng. Nghĩa là làm cho mọi người được hoan hỷ vui vẻ.

 

b. Mõ có hình điếu, tức hình con cá dựng đứng hoặc treo: Loại mõ nầy thường được treo ở nhà trù để báo hiệu khi thọ trai hay chấp tác. Ngoài ra, cũng có một loại mõ rất nhỏ để đại chúng đi kinh hành gọi là nhiễu Phật.

 

Về kích thước của mõ thì lớn nhỏ không đồng, nhưng loại nào cũng có tạc hình con cá, vì loài cá luôn thức không bao giờ ngủ với dụng ý là để cảnh tỉnh thức nhắc mọi người gắng công tu tập không nên ngủ nhiều.

 

Đó là vài nét khái quát về nguồn gốc xuất xứ và các loại chuông mõ. Còn về ý nghĩa và cách thức sử dụng của chuông mõ thì, ý nghĩa của hai loại pháp khí nầy nó có công năng cảnh tỉnh nhắc nhở mọi người luôn phải tỉnh thức gìn giữ chánh niệm. Nhất là phải thu nhiếp ba nghiệp: Thân, Khẩu, Ý cho thanh tịnh trước và trong khi hành lễ. Một buổi hành lễ được trang nghiêm thanh tịnh là do mỗi cá nhân khéo biết tự điều chỉnh từ nội dung đến hình thức. Nội dung là thuộc về tâm thức, hành giả phải hết sức chú ý theo dõi lời kinh tiếng kệ, không để tâm phóng dật theo ngoại cảnh. Hình thức là phải giữ gìn ba oai nghi: đi, đứng và ngồi cho thật trang nghiêm tề chỉnh. Và phải để tâm nghe theo sự cảnh báo của tiếng chuông và nhịp mõ.

 

Cách thức sử dụng vô chuông mõ:

a. Trước đánh 3 tiếng chuông và tiếp theo là ba tiếng mõ gọi là: tiên khởi tam.

b. Tiếp theo là 3 tiếng chuông và 3 tiếng mõ giữ khoảng cách đều nhau không nhặt không khoan.

c. Kế tiếp là 4 tiếng mõ (2 tiếng giữa nhặt và tiếng sau lơi ra) gọi là dứt tứ. Đó là ý nghĩa "vô tam ra tứ".

 

Trước khi thỉnh chuông, người duy na chập nhẹ vào miệng chuông hai tiếng. Hai tiếng chập nhẹ nầy có ý nghĩa là để cảnh báo cho đại chúng biết, đã đến giờ hành lễ xin mọi người hãy chú tâm theo dõi, lập tức hãy trở về với hơi thở chánh niệm.

 

Còn 3 tiếng chuông và 3 tiếng mõ đầu ý nói, chúng sanh do ba nghiệp thân khẩu ý tạo tác mọi điều ác, sau sẽ đọa vào trong ba đường dữ: Địa ngục, Ngạ quỷ, và Súc sanh. Cũng có nghĩa là trừ Ba độc (tham, sân, si) để được Ba đức: Pháp thân, Bát nhã và Giải thoát đức.

 

Tóm lại, 3 tiếng chuông ý nói phải dừng ba nghiệp. Còn 3 tiếng mõ ý nói, khi dừng ba nghiệp thì không còn bị đọa lạc vào Ba đường dữ (tam đồ). Hoặc là trừ Ba độc thì sẽ được Ba đức.

 

 Còn đánh ba tiếng chuông và ba tiếng mõ xen nhau nó có ý nghĩa là: 3 tiếng chuông ý nói, hành giả phải Phát nguyện tu ở nơi Tam học (giới, định, huệ) và 3 tiếng mõ ý nói, quyết chứng cho được Tam thừa (Thanh văn, Duyên Giác và Bồ tát).

 

Sau cùng dứt Tứ (4 tiếng mõ cóc...cóc cóc...cóc) là ý nói nhờ tu pháp Tứ Đế mà dứt được 4 tướng sanh, lão, bệnh, tử để chuyển thành Tứ trí (chuyển năm thức trước thành Thành sở tác trí, chuyển thức thứ sáu thành Diệu quan sát trí, chuyển thức thứ bảy thành Bình đẳng tánh trí, chuyển thức thứ tám thành Đại viên cảnh trí).

 

Cách thức vô chuông mõ:

 

Chập chập - Boong... boong ...boong

 - Cóc cóc...cóc.

 - Boong.......cóc... boong......cóc.......boong......cóc

 - Cóc... cóc cóc.....cóc.

-  Chập ( nhẹ vào miệng chuông )

 

Trong khi thỉnh chuông, người Duy na cần phải tuân hành một số quy tắc như sau:

 

a.  Phần duy na (người thỉnh chuông)

 

- Khi đứng gần bên chuông phải giữ thân cho ngay thẳng và tâm phải giữ thành kính nghiêm trang.

- Cầm dùi chuông không nên nắm chặt lắm, hơi lỏng ra một chút.

- Chập 2 tiếng vào miệng chuông đều và nhẹ.

- Nên đánh vào bên cạnh miệng chuông (không mạnh không nhẹ) không được ở trên đánh xuống. Như thế âm thanh chát chúa và khó nghe.

- Thỉnh thoảng mới thỉnh tiếng chuông không nên thỉnh chuông thường trong một bài kinh đang tụng.

- Phải chú ý theo dõi bài kinh đang tụng để thỉnh chuông cho đúng lúc. Thí dụ: như tụng: Nam mô đại bi hội thượng Phật Bồ tát, đến gần cuối câu thứ 3 mới thỉnh tiếng chuông để báo cho đại chúng biết mà ngưng lại.

- Không nên đánh chuông nhiều lần trong một bài nguyện hương hay tán Phật v.v...

 

b. Phần duyệt chúng (người đánh mõ)

 

- Khi đứng bên mõ thân và tâm phải nghiêm trang, không nên lụp chụp thô tháo.

- Đánh mõ giữ trường canh tiền bần hậu phú (trước chậm sau nhanh)

- Không nên đánh mõ thụt lùi gây cho đại chúng khó tụng và mệt mỏi.

- Nên giữ trường canh tiếng mõ đều đặn không nên đánh nhanh quá hoặc chậm  

  quá.

- Không nên đánh lớn tiếng và cũng không nhỏ quá.

 

c. Phần đại chúng:

 

- Phải lắng nghe và tụng theo tiếng mõ.

- Không được tụng lớn áp tiếng đại chúng.

- Phải giữ hòa âm với nhau.

- Lắng nghe âm thanh tiếng chuông để biết dừng lại.

- Khi nghe tiếng chuông phải tập trung tâm ý giữ chánh niệm.

- Đi, đứng, ngồi phải giữ thành kính nghiêm trang.

 

Tóm lại, lễ nghi nếu khéo biết ứng dụng cho đúng cách và giọng tụng phải nhịp nhàng với nhau, hòa âm không cao không thấp, nhất là phần oai nghi phải giữ cho trang nghiêm tề chỉnh, có thế thì không những lợi lạc cho bản thân mình mà còn cảm hóa đem lại sự an vui cho người khác. Đó là những điều mà người hành lễ cần phải trang trọng cẩn thận giữ gìn.

 

83. Ý nghĩa thọ bát Quan trai

 

Hỏi: Kính thưa thầy, con là một Phật tử đã thường đi chùa và thường thọ bát, nhưng con chưa hiểu rõ duyên khởi và ý nghĩa của việc thọ bát như thế nào? Và sự lợi ích của việc thọ bát ra sao? Kính mong thầy giải thích cho con rõ.

 

Đáp: Thọ bát là nói tắt, nếu nói cho đủ thì phải nói là thọ Bát quan trai giới. Bát quan trai giới tiếng Pàli Uposatha Sila, Hán dịch là Cận trú giới, Cộng trú giới, Bát giới, Thiện trú giới. Pháp tu nầy có từ thời đức Phật còn tại thế. Nếu chiết tự giải thích thì: Thọ là nhận chịu, Trì là gìn giữ, Bát là tám, Quan là cánh cửa, Trai là thanh đạm tinh khiết.

Nguyên cụm từ nầy nó có nghĩa là: "Nhận lãnh và gìn giữ tám giới như đóng tám cánh cửa tội lỗi để cho tâm trí hành giả được thanh khiết an tịnh".

 

Đây là pháp tu mà Phật chế ra cho người cư sĩ Phật tử tại gia hành trì tu tập theo pháp hạnh của người xuất gia. Vì người Phật tử tại gia phần nhiều đều bị duyên trần ràng buộc nên chưa có thể xuất gia thực thụ được. Cho nên Phật chế ra pháp tu nầy để cho người Phật tử tại gia tiện bề hành trì. Pháp tu nầy thời gian tuy ngắn chỉ có một ngày một đêm thôi, nhưng công đức rất lớn.

 

Theo sử ghi lại, duyên khởi của việc tu tập Bát quan trai giới là do sự phát nguyện của nữ cư sĩ Phật tử Visakha. "Trong Kinh Tăng Chi Bộ 1, lúc Phật trú ở thành Savatthi, tại Pubbarama, nữ cư sĩ Visakha trong ngày Bố tát đi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Đức Phật hỏi nữ cư sĩ có duyên sự gì mà đến tu viện sớm như vậy? Nữ cư sĩ thưa rằng: Bạch đức Thế Tôn, hôm nay con thọ trì trai giới.

 

Nhận lời thưa của nữ cư sĩ, Thế Tôn nói về ba loại trai giới: trai giới của người chăn bò, trai giới của Nigantha (phái lỏa thể) và trai giới của bậc Thánh.

 

Này Visakha, thế nào là trai giới của người chăn bò? Ví như kẻ chăn bò, buổi chiều lùa bò về cho chủ, suy nghĩ rằng: "Hôm nay các con bò đã ăn cỏ và uống nước ở chỗ nầy. Ngày mai sẽ ăn cỏ và uống nước ở chỗ kia". Cũng vậy, này Visakha, có người giữ trai giới mà suy nghĩ: "Hôm nay ta đã ăn loại thức ăn cứng và mềm nầy. Ngày mai, ta sẽ ăn các loại thức ăn cứng và mềm kia". Như vậy, người ấy suốt cả ngày sống đồng hành với tâm tham dục, chẳng khác nào suy nghĩ của người giữ bò nên gọi trai giới của người ấy là trai giới của người chăn bò.

 

Này Visakha, trong ngày trai giới, các tu sĩ của phái Niganthà khuyến khích các đệ tử của họ như sau: "Này các ngươi, hãy quăng bỏ tất cả quần áo và nói như sau: Ta không có bất cứ vật gì, bất cứ chỗ nào, bất cứ ở đâu. Bất cứ vật gì, bất cứ chỗ nào không có cái gì là của ta. Được sống và thực hành như vậy, này Visakha, trai giới của các Niganthà không có quả lớn, không có lợi ích lớn".

 

Và này Visakha, "trai giới của bậc Thánh làm thanh tịnh nội tâm uế nhiễm với phương pháp thích nghi. Trong ngày trai giới, vị Thánh đệ tử niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí và niệm Thiên. Nhờ niệm Phật, niệm Pháp, Niệm Tăng, niệm Giới... mà tâm phát sinh niệm thanh tịnh, các cấu uế phiền não nơi tự tâm lắng xuống và bị đoạn tận".

 

Nhân đó Phật nêu rõ cách hành trì của tám giới: Không sát sinh, không trộm cướp, không dâm dục, không nói dối, không uống rượu, không ăn phi thời, không ca hát và xem nghe cùng xoa ướp dầu thơm vào mình, không nằm giường cao tốt rộng lớn. Và Phật nói tiếp: Ta cũng từ bỏ tất cả những thứ đó và giữ gìn Thánh trai giới, vì Thánh trai giới có quả báo lớn và có ích lợi lớn, đưa người trai giới đi đến quả Thánh".

 

Đó là duyên khởi nguyên nhân mà Phật chế ra Bát quan trai giới cho người Phật tử tại gia hành trì được truyền trì cho đến ngày nay. Muốn thọ trì Bát quan trai giới, trước hết là người thọ phải là người đã thọ Tam quy và Ngũ giới, có đủ tư cách của một người Phật tử tại gia. Theo pháp thức thọ giới Bát quan trai phải thỉnh một vị Tăng hoặc Ni để làm Giới sư truyền giới. Người truyền giới ngồi trên cao và người nhận giới quỳ để nhận lãnh. Giới tử không được ngồi ngang hàng với Giới sư. Theo luật Phật chế là Phật tử đến chùa thọ giới tu tập trong một ngày đêm. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh và thời gian sinh sống của người Phật tử tại gia ở mỗi nơi mỗi khác, nên việc thọ giới Bát quan trai không còn cố định một ngày một đêm như xưa. Hiện nay các chùa ở hải ngoại, đa số Phật tử đến chùa chỉ thọ trong một ngày chủ nhật từ sáng tới chiều mà thôi.

 

Thời gian tu tập tuy ngắn mà công đức rất lớn không thể nghĩ bàn. Như trong Kinh Ưu Bà Tắc Giới Phật dạy cho Sujata về công đức của người thọ trì Bát quan trai giới, tất cả mọi tội ác đều tiêu diệt, chỉ ngoại trừ tội ngũ nghịch. Người nào thật hành hạnh tu tập nầy thì công đức của người đó sẽ được niềm vui vô lượng của cõi trời và cõi người vậy.

 

84. Ý nghĩa ba lạy đầu và ba lạy cuối trong thời khóa lễ tụng niệm như thế nào?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, trong mỗi thời tụng kinh, thường là có ba lạy đầu và khi cuối thời khóa tụng, lại lạy ba lạy nữa. Vậy xin thầy giải thích về ba lạy đầu và ba lạy cuối, tức tam tự quy y cho chúng con được rõ. Thành kính cám ơn thầy.

 

 Đáp: Trong nhà Thiền có câu nói: "Kiến sắc minh tâm". Ý nói, nhân cảnh bên ngoài nhìn lại thấy rõ ở nơi tâm mình. Nương Tam bảo bên ngoài để làm sống dậy Tam bảo tự tâm. Đó là yếu lý tôn chỉ của đạo Phật. Nếu một bề chỉ biết chạy theo bên ngoài để tìm cầu thì, người đó muôn đời vạn kiếp không bao giờ được giác ngộ giải thoát. Nói thế, để Phật tử thấy rằng, ba lạy đầu là hành giả hướng về Tam bảo bên ngoài để thành tâm đảnh lễ. Bởi vì nếu không có Tam bảo bên ngoài thì làm sao mình biết có Tam bảo tự tâm. Nhờ Tam bảo sự tướng đó mà mình mới học hỏi tu hành để được giác ngộ. Cho nên Tam bảo bên ngoài tuy là phần sự tướng nhưng cũng rất quan trọng.

 

Hơn nữa, Phật tử nên biết, đạo Phật chủ trương: "Tánh, Tướng không hai hay Lý, Sự phải viên dung". Nhân tướng để thấy tánh hay nhân sự để hiển lý. Ví như nương sóng để nhận ra nước hay ngược lại cũng thế. Nước và sóng không ly khai mà có được. Đó là lý tương Tức, tương Nhập trong Kinh Hoa Nghiêm. Như nước trong sẵn có trong nước đục. Rời nước đục không có nước trong. Khác nào trong hoa có rác và trong rác có hoa. Dùng tuệ giác quán chiếu sâu sắc chúng ta sẽ thấy rất rõ như thế.

 

Chính vì muốn hiển bày lý "Không Hai" nầy nên chư Tổ soạn thời khóa tụng niệm, vào đầu, chúng ta phải một lòng hướng về mười phương Chư Phật, chư Tôn Pháp, chư Bồ Tát và chư Hiền Thánh Tăng mà chí thành đảnh lễ. Đảnh lễ để cầu oai thần lực Tam bảo chứng minh gia hộ. Tuy nhiên, nếu chỉ có thế thôi, thì rõ ràng là chúng ta mê tín ở nơi sự tướng bên ngoài. Vì thế, nên cuối thời kinh thì có Tam tự quy y. Tam tự quy y là chúng ta trở về nhận lại Phật, Pháp, Tăng ở nơi chính mình. Vì mỗi chúng sanh đều sẵn có đầy đủ đức tính Tam bảo tự tâm. Cho nên, mỗi người cần phải phát triển Tam bảo tự tâm ngày càng lớn mạnh. Có thế thì mới đúng với chánh lý Phật dạy.

 

Nếu rời lìa Tam bảo tự tâm thì chúng ta sẽ bị rơi vào hố sâu tà kiến tội lỗi. Do đó, trong đạo Phật có nói đến phần lễ nghi hình thức hay sự tướng rất nhiều, nhưng cuối cùng cũng phải quy kết về ở nơi tự tâm. Bởi tất cả các pháp đều từ tâm lưu xuất. Câu nói: "Nhứt thiết duy tâm, vạn pháp duy thức" là ý đó. Không có vật gì ngoài tâm ta cả. Các pháp hữu vi được cấu tạo hình thành của lý duyên khởi. Tất cả các pháp đều do duyên sanh, đã do duyên sanh nên tự tánh của nó là "KHÔNG". Nhận được tánh không là thấy được lý duyên khởi. Như vậy, vạn pháp rốt lại cũng không ngoài tự tánh mà có. Bởi thế, nên nói đạo Phật là đạo nội quan. Nội quan là quán chiếu sâu sắc ở nội tâm. Có trở về (một cách nói thôi chớ làm gì có chỗ trở về) nhận lại tự tánh và sống được với thể tánh đó thì gọi là kiến tánh hay chứng đạt chơn lý. Cho nên Tam tự quy rất là quan trọng cho sự tu hành của chúng ta. Hiểu thế thì ta không còn vọng ngoại tìm cầu chấp trước vào sự vật nữa. Đó là hành trình của người tu, dù tu bất cứ pháp môn nào, cuối cùng cũng phải nhận lại kho báo (bảo sở) nhà mình. "Gia trung hữu bảo hưu tầm mích, đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền".  (Sơ Tổ Trúc Lâm). Trong nhà ai cũng sẵn có của báu, không cần phải đi tìm kiếm bên ngoài. Muốn nhận lại của báu vô giá đó, Tổ chỉ cho chúng ta cách tu là phải "Đối cảnh vô tâm". Vô tâm là không khởi tâm chấp trước dính mắc vào sự vật, nói rõ là sáu trần. Được thế thì nơi nào không phải là Thiền, là Bồ đề. Thế thì, chạm mắt đến đâu là có Bồ đề ở đó vậy.

 

Tóm lại, ba lạy đầu là hướng về Tam bảo bên ngoài để đảnh lễ, và ba lạy cuối của thời khóa tụng niệm là quy hướng về bên trong để nhận lại Tam bảo tự tâm. Có thế, thì mới hiểu được chủ trương đường lối tu tập của đạo Phật tất cả đều quy hướng chú trọng ở nơi tâm. Tâm nói đây là chơn tâm, nói cách khác là tánh thể của muôn loài.

 

85. Ý nghĩa tam tự tánh như thế nào?

 

Hỏi: Trong khi trao đổi với một người bạn về vấn đề Duy Thức Học, ông bạn có thắc mắc hỏi con về Tam tự tánh mà trong Duy Thức đã nói, con có trả lời đại khái, nhưng ông bạn của con không mấy hài lòng, vì cách trả lời của con còn non kém chưa giải thích được rõ, vậy kính xin thầy giải thích thêm về Ba tánh nầy cho chúng con được rõ. Kính cảm niệm ơn thầy.

 

Đáp: Ba tự tánh: Biến kế, Y tha và Viên thành thật tánh là đặc sản của Duy Thức hay Duy Biểu học. Tự tánh là đối tượng của nhận thức. Tự tánh tiếng Phạn là svabhàva, dịch nghĩa là bản chất của chính nó, tiếng Anh là the True Nature, the Self Nature.

 

- Tự tánh đầu tiên là tự tánh biến kế (Parikapita, nature of imaginery construction and discrimination). Theo sự giải thích của Hòa Tthượng Thích Nhất Hạnh: "Tự tánh nầy không phải chính nó tự có mà do vô minh, ngu muội tạo nên. Khi chúng ta buồn, nhìn mặt trăng chúng ta thấy mặt trăng buồn! Tự tánh biến kế là tạo tác của tâm ý. Khi quan niệm thế giới có sinh, có diệt, có thành, có hoại, có một, có nhiều, có đến, có đi ... là tạo tác ra những tính chất mà chính thực tại không có. Chúng ta bị giam hãm trong thế giới vô minh sinh tử, là vì chúng ta đã tạo ra một thế giới mà chúng ta tưởng là thực tại tự thân nhưng kỳ thật chỉ là biến kế chấp". Dựa trên lý giải nầy, hằng ngày chúng ta sống trong ảo giác của tính cố chấp so đo hơn thua, tất cả đều do vọng tưởng mà ra. Khác nào thấy sợi dây luộc nằm giữa đường trong đêm nhá nhem tối, ta lại tưởng lầm là con rắn. Từ nhận thức sai lầm đó, ta mới hốt hoảng sợ hãi. Hiện trạng tâm lý tri giác sai lầm nầy hầu hết chúng ta đều mắc phải. Từ đó, mới có sự tranh chấp đấu đá cấu xé gây ra cảnh chiến tranh tàn sát lẫn nhau. Mọi khổ đau có ra đều do tính biến kế nầy tạo tác cả.

 

Ngược lại với tự tánh biến kế là tự tánh viên thành thật (parinispanna, fulfilled nature). Theo Hòa thượng Nhất Hạnh cho rằng: "Thế giới của tự tánh viên thành thật là thế giới không có sự tạo tác của tâm ý, không có những khái niệm. Tự tánh viên thành thật là tự tánh đích thực của vạn pháp trong đó không có sinh, không có diệt, không có thành, không có hoại, không có một, không có nhiều, không có đến, không có đi..."

 

Đó là một thực thể viên mãn bao trùm pháp giới là bản thể uyên nguyên của vạn pháp. Sống với tự tánh viên thành thật, thì mọi hiện tượng vọng chấp sẽ không còn. Nói cách khác sạch hết vi tế vô minh phiền não, chỉ còn lại một bầu trời tâm thể trong sáng vượt ngoài những phạm trù đối đãi nhị nguyên. Đến đây là bặt dứt tất cả, không còn nói năng suy nghĩ luận bàn đến được. Theo Khởi Tín Luận nói: "Đó là như thật không và như thật bất không". Nói cách khác đó là chân không mà diệu hữu vậy.

 

Tự tánh thứ ba là tự tánh y tha khởi (Paratantra, nature of interdepenđence). Theo sự giải thích của Hòa thượng Nhất Hạnh: "Tha là khác. Y tha là nương vào những cái khác, những hiện tượng khác mà phát khởi. Tự tánh của một bông là một ví dụ của y tha khởi. Hạt giống, mặt trời, đám mây là những điều kiện khác mà bông hoa nương vào để hiện hữu.

 

Y tha khởi là tự tánh của vạn pháp. Nếu biết quán chiếu tánh y tha khởi của vạn sự, vạn vật thì chúng ta có thể chuyển vô minh thành tuệ giác. Quán chiếu tánh y tha ở đây là sử dụng vô thường quán cũng là vô ngã quán và vô ngã quán cũng là nhân duyên quán".

 

Khi nhận ra được tánh y tha (do nương những thứ khác tạo thành) là nhận ra được tánh viên thành thật. Bởi những hiện tượng tâm lý hay vật lý đều hình thành bởi tánh y tha khởi. Nhìn một bông hoa, không phải tự nhiên có ra bông hoa, mà bông hoa được hình thành là do những điều kiện khác không phải là bông hoa kết hợp lại mà thành. Buồn là một hiện tượng tâm lý, nhưng không phải tự nhiên có buồn, quán chiếu sâu vào ta thấy hiện tượng buồn phải do nhiều thứ khác tạo nên hiện trạng tâm lý buồn. Như nghe tin người thân bị tai nạn, tai nạn đó do tài xế bị buồn ngủ, đụng phải xe khác v.v... Nghĩa là do nhiều nhân tố khác gây nên. Khi quán chiếu buồn ta thấy được tánh y tha.  Như vậy buồn là do nhiều thứ không phải buồn gây nên. Do đó, ta kết luận buồn là một trạng thái không thật mà tánh y tha khởi là thật. Quán chiếu sâu như thế ta thấy mọi hiện tượng tâm lý và vật lý đều hư giả không thật.

 

86. Người tu Tịnh nghiệp có bắt buộc phải thọ Tam quy Ngũ giới không?

 

Hỏi: Kính thưa thầy, con chưa có thọ Tam quy và Ngũ giới, nhưng con rất thích niệm Phật, nhưng con không biết sau khi con chết con có được vãng sanh về cảnh giới Tây phương Cực lạc của đức Phật A Di Đà không? Kính xin thầy cho con lời khuyên.

 

Đáp: Xin thưa, Phật tử chớ nên lo điều nầy. Nếu Phật tử chưa có quy y Tam bảo và chưa thọ ngũ giới, nhưng Phật tử rất thích niệm Phật để cầu vãng sanh, điều nầy, theo chư Tổ Liên tông, thì Phật tử vẫn được vãng sanh. Tuy nhiên, Phật tử thích niệm Phật là điều quý tốt, nhưng Phật tử cũng nên tìm hiểu đọc kinh sách nói về pháp môn Tịnh độ để hành trì cho đúng pháp. Niệm Phật thì ai cũng có thể niệm được, vì nó rất đơn giản chỉ có sáu chữ Di Đà, nhưng niệm bằng cách nào cho đúng pháp đó mới là điều khó. Chư Tổ thường dạy, niệm Phật không khó mà khó ở bền lâu, bền lâu không khó mà khó ở nơi nhứt tâm. Niệm Phật cho được nhứt tâm bất loạn, đó là yếu chỉ của tông Tịnh độ. Niệm Phật muốn cho có kết quả tốt, theo lời Phật Tổ dạy không ngoài Ba món tư lương: "Tín, Nguyện, Hạnh". Phật tử phải có niềm tin sâu chắc vững vàng và phải có lòng tha thiết mong muốn được vãng sanh. Tin sâu, nguyện thiết là hai điều kiện tối thiết yếu của người tu pháp môn niệm Phật. Đồng thời Phật tử phải lập chí chuyên tâm niệm Phật, đó là hành chuyên. Điều nầy rải rác trong những câu hỏi trên, chúng tôi cũng có trình bày qua. Điều quan trọng cho việc vãng sanh là Phật tử phải giữ vững lập trường kiên định với pháp môn mà mình đang tu. Dù gặp bất cứ hoàn cảnh khó khăn nghịch cảnh thử thách nào, mình cũng phải cương quyết vượt qua, chỉ thành tâm một lòng niệm Phật cầu vãng sanh mà thôi. Dù Phật tử chưa có Quy y, thọ Ngũ giới mà chí thành niệm Phật như thế thì khi lâm chung Phật tử cũng được vãng sanh về thế giới Cực lạc.  

 

Tuy nhiên, nếu Phật tử còn nghi ngờ về vấn đề nầy, thì tôi thành thật khuyên Phật tử nên quy y Tam bảo và thọ trì năm giới cấm thì tốt hơn. Tuy quy y thọ giới không có bắt buộc, nhưng vì sự lợi ích lớn lao cho đời sống tâm linh, nên chúng ta cần nên quy y. Bởi sau khi quy y, thọ giới rồi, Phật tử càng có thêm tín tâm trong sự tu hành. Và nhờ quy y, thọ giới làm động lực trợ duyên giúp cho Phật tử có thêm nhiều lợi lạc trong việc niệm Phật. Nhờ giữ giới nên tâm mình được yên hơn khi niệm Phật. Nếu không, thì rất khó giữ cho tâm được yên ổn lắm. Ví như, khi sáng mình giết hại một con vật nào đó, tối lại ngồi niệm Phật cứ nhớ lại hành động sát sanh đó, thì thử hỏi làm sao tâm mình yên được? Đó là niệm hành động sát sanh chớ đâu phải niệm Phật. Nêu ra điển hình một thí dụ như thế, từ đó Phật tử có thể suy ra thì đủ biết. Bởi thế, nên tôi chân thành khuyên Phật tử nếu có dịp nên quy y và thọ giới là điều rất tốt.

 

Kính chúc Phật tử có đủ niềm tin và sáng suốt trên bước đường tu tập để chóng đạt được kết quả như ý muốn.

 

87. Năm hạng tang phục là gì?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con thường đi hộ niệm cho những người mới mất, trong lúc phát tang con nghe quý thầy xướng câu: Ngũ phục chi nhơn các thọ kỳ phục. Câu xướng nầy có ý nghĩa gì? và năm hạng tang phục là sao? Cúi xin thầy hoan hỷ giải thích cho con rõ. Thành kính cám ơn thầy.

 

Đáp: Theo "Thọ mai gia lễ", có năm hạng tang phục tùy theo quan hệ huyết thống và nghĩa tình phân biệt thân sơ.

 

1. Đại tang: Trảm thôi và tề thôi.

a. Trảm thôi:

- Quần áo có sổ gấu gọi là trảm thôi: con để tang cha.

b. Tề thôi:

- Quần áo không sổ gấu gọi là tề thôi: con để tang mẹ, vợ để tang chồng khi cha chưa mất.

- Thời hạn 3 năm, đời sau giảm bớt còn 2 năm 3 tháng (sau lễ giỗ đại tường 2 năm, thêm 3 tháng dư ai)

- Áo xô, khăn xô có giải sau lưng (gọi là khăn ngang)

Nếu cha mẹ đều đã mất thì hai giải bằng nhau, nếu còn mẹ hoặc còn cha thì hai giải dài ngắn lệch nhau.

- Con trai chống gậy: tang cha gậy tre, tang mẹ gậy vông, mũ rơm quấn đầu, dây chuối, dây đai thắt lưng.

 

Thời nay, nhiều nơi đã bãi bỏ những tang phục nầy, ở thành phố nhiều nhà dùng băng đen theo tang chế châu Âu, theo tôi, như thế có lẽ tiện hơn.

- Con trai, con gái, con dâu, đều để tang cha mẹ. (Kể cả đích mẫu, kế mẫu, dưỡng mẫu, từ mẫu và dưỡng phụ).

- Vợ để tang chồng.

- Nếu con trưởng mất trước thì cháu đích tôn để tang ông bà nội cũng đại tang thay cha.

 

2. Cơ niên. Để tang một năm. Từ niên cơ trở xuống dùng khăn tròn, vải trắng không gậy.

- Cháu nội để tang ông bà nội.

- Con riêng của vợ để tang bố dượng nếu bố dượng có công nuôi và ở cùng, nếu không ở cùng thì không tang, trước có ở cùng sau thôi thì để tang 3 tháng.

- Con để tang mẹ đẻ ra mình nhưng bị bố rẫy (xuất mẫu), hoặc cha chết, mẹ lấy chồng khác (giá mẫu).

- Chồng để tang vợ và có gậy, nếu cha mẹ còn sống thì không gậy.

- Cháu để tang bác trai bác gái, chú, thím và cô ruột.

- Anh chị em ruột để tang cho nhau (cùng cha khác mẹ cũng tang một năm, cùng mẹ khác cha thì tang 5 tháng)

- Cha mẹ để tang con trai, con gái và con dâu cả, kể cả con đi làm con nuôi nhà người.

- Chú, bác, thím cô ruột để tang cho cháu (con anh em ruột).

- Ông bà nội để tang cho cháu trưởng (đích tôn).

- Đích mẫu, kế mẫu, từ mẫu, tang các con chồng, thứ mẫu tang con mình và con chồng như nhau đều một năm. Tang con dâu cả cũng một năm.

- Con dâu để tang dì ghẻ của chồng (tức vợ lẽ cha chồng).

- Rể để tang cha mẹ vợ (vợ chết đã lấy vợ khác cũng vậy).

- Nàng hầu để tang cha mẹ chồng, vợ cả của chồng, các con chồng cũng như con mình (các họ hàng bàng thân bên nhà chồng đều không tang).

 

3. Đại công: để tang 9 tháng.

- Anh chị em con chú con bác ruột để tang cho nhau.

 

4. Tiểu công: Để tang 5 tháng.

- Ông bà cụ kỵ cũng để tang hàng cháu hàng chắt.

 

5. Ty ma phục: Để tang 3 tháng.

- Chắt để tang cụ (Hoàng tang chít khăn vàng).

- Chít để tang can (kỵ) nội (ngũ đại: Hồng tang chít khăn đỏ)

 

Đại khái đó là năm hạng để tang cho những người trong thân thuộc ruột thịt. Cần nói thêm, theo nghi lễ, nếu chưa thành phục, thì trong nhà không ai được khóc. Hàng xóm tuy có biết nhưng gia đình chưa phát tang thì chưa đến viếng, trừ thân nhân ruột thịt và những người lân cận tối lửa tắt đèn có nhau, coi như người nhà. Có những điều về tang chế ta cũng cần nên biết, cũng theo Thọ mai gia lễ, khi con chết chẳng những cha mẹ để tang con mà ông bà và cụ kỵ cũng để tang hàng cháu, hàng chắt.

 

88. Ba cha và tám mẹ là gì?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con có nghe người ta nói đến Ba cha và Tám mẹ, thú thật, con không biết Ba cha và Tám mẹ là gì? Mong thầy giải thích cho con rõ.

 

Đáp: Theo Thọ mai gia lễ giải thích:

 

Ba cha:

 1. Thân phụ: cha sinh ra mình.

 2. Kế phụ: sau khi cha chết, mẹ lấy chồng khác, chồng mới của mẹ là kế phụ hay bố dượng.

3. Dưỡng phụ: bố nuôi.

 

Tám mẹ:

1. Đích mẫu: vợ cả của bố.

2. Kế mẫu: khi còn nhỏ mẹ đã mất, cha lấy vợ khác để nuôi nấng mình.

3. Từ mẫu: mẹ chết từ tấm bé, cha sai người vợ lẽ nuôi mình bú mớm.

4. Dưỡng mẫu: mẹ nuôi, cha mẹ nghèo cho mình để người khác nuôi.

5. Xuất mẫu: là mẹ sinh ra mình nhưng bị cha ruồng rẫy.

6. Giá mẫu: là mẹ sinh ra mình, nhưng khi cha mất thì đi lấy chồng khác.

7. Thứ mẫu: là mẹ sinh ra mình nhưng là vợ lẽ của cha.

8. Nhũ mẫu: mẹ vú, cho mình bú mớm từ khi còn tấm bé.

 

89. Vấn đề thờ cúng người chết

 

Hỏi: kính bạch thầy, lâu nay con có những thắc mắc về vấn đề thờ cúng người chết, nhưng con chưa được ai giải thích rõ, vậy con xin thầy giải thích cho con rõ những vấn đề sau đây:

1. Cúng cơm cho người mới chết phải cúng như thế nào mới đúng?

2. Thiết lập bàn thờ cho người mới chết như thế nào?

3. Cách bày trí trên bàn thờ gồm có những gì?

 

Đáp: Việc thờ cúng cho người chết trong gia tộc, là điều rất quan trọng đối với người Việt Nam. Từ xưa, tổ tiên ta rất coi trọng về vấn đề nầy. Bởi đời người có hai lần quan trọng mà người ta quan tâm nhứt đó là: khi mới sinh ra và lúc chết đi. Theo Phong Tục Việt Nam của ông Phan Kế Bính đã viết: "Xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là thành kính. Khi còn sống ông bà cha mẹ là đại ân nhân, theo phong tục và luân lý, con cháu phải một lòng kính dưỡng hiếu thảo; lúc ông bà cha mẹ chết, con cháu cũng phải sùng bái tỏ lòng nhớ ơn đồng thời cầu mong tổ tiên phò hộ..."

 

Theo quan niệm Nho giáo cho rằng: "Sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn", nghĩa là sự chết như sự sống, sự mất như sự còn. Do đó, mà người ta coi sự chết như là còn sống, lúc còn sống đối xử với ông bà cha mẹ như thế nào, thì lúc ông bà cha mẹ mất đi, bổn phận làm con cháu cũng phải đối xử y như vậy. Ngoài ra, tục thờ cúng người chết còn mang một ý nghĩa văn hóa rất cao đẹp đó là phải giữ gìn hiếu thảo cho trọn đạo. Do sự tin tưởng đó, tục thờ cúng người chết được phát sinh trong đó sự bày biện bàn thờ là điều quan trọng hơn hết.

 

Về cách thiết lập bàn thờ những người mới mất không được thờ chung với Gia tiên, mà phải thiết lập một bàn thờ riêng bên cạnh. Bàn thờ được bài trí một cách đơn giản: lư hương, bài vị hoặc ảnh người mất, bình bông, ba chung nước, cặp đèn cầy hoặc đèn điện, đèn dầu (hoặc đèn điện bóng nhỏ). Hằng ngày, (tính từ ngày an táng xong), trước khi gia đình ăn cơm, người nhà đều thắp hương, dọn mâm cơm (thường có ba món) mời người mới mất thụ hưởng. Người Việt Nam tin rằng lúc nầy linh hồn người chết vẫn còn quyến luyến người thân. Có nơi cúng đến 49 ngày, có nơi cúng đến 100 ngày, xưa cúng đến khi xả tang. Sau đó, dẹp bàn thờ người mới mất rước lư hương lên bàn thờ Gia tiên.

 

Tóm lại, cúng lễ người chết nói chung có thể cúng mặn hay chay (tùy theo gia chủ). Nếu là người Phật tử, thường thì thiết lễ đồ cúng chay ít khi cúng mặn. Thuở xưa, khi cúng thường có các đồ lễ như: trầu cau, rượu, thuốc lá, giấy tiền vàng bạc, đèn dĩa muối gạo. Có thêm 3 chung trà, 3 chung rượu, 3 chung nước để tượng trưng cho tam tài: Thiên, Địa, Nhân nghĩa là: Trời, Đất, Người. Nay, người ta thờ cúng đơn giản hơn. Đồ cúng lễ chỉ một mâm cơm và hoa quả. Điều quan trọng không phải cúng đồ ăn uống nhiều hay ít, mà điều quan trọng là ở nơi lòng thành của người dâng cúng. Thế nên, khi cúng ta phải tỏ ra hết lòng thành kính vậy.

 

90. Tam nghiệp cúng dường như thế nào?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, trong kinh có nói đến Tam nghiệp cúng dường, nhưng con chưa hiểu Tam nghiệp cúng dường như thế nào? Kính mong thầy giải thích cho con hiểu. Cảm tạ ơn thầy.

 

Đáp:  Tam nghiệp là thân, khẩu, ý. Nói nghiệp là vì ba thứ nầy tạo thành nghiệp. Như đã nói, nghiệp là thói quen do lặp đi lặp lại nhiều lần mà thành. Thói quen thì có thói quen xấu và thói quen tốt. Thói quen tốt gọi là thiện nghiệp. Thói quen xấu gọi là ác nghiệp. Cúng dường có nghĩa là cung cấp (cúng đọc trại của chữ cung) và nuôi lớn (dường đọc trại của chữ dưỡng). Nuôi lớn cái gì? Tức nuôi lớn căn lành. Nói thân nghiệp cúng dường, có nghĩa là năm vóc (đầu mặt và tay chân) của thân thể gieo xuống đất để thành kính đảnh lễ Tam bảo. Thân phải giữ oai nghi tề chỉnh nghiêm trang không được trạo cử. Đây là nói lúc hành giả hành lễ trong khi lạy Phật thân phải đứng ngay ngắn hướng về Tam bảo mà chí thành đảnh lễ. Đồng thời, thân phải giữ ba điều cấm giới nghiêm tịnh: không sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nên dùng thân tạo các nghiệp lành. Đó gọi là dùng thân trang nghiêm cúng dường.

 

Còn nói khẩu nghiệp cúng dường có nghĩa là dùng lời hay tiếng đẹp để tán dương công đức Tam bảo. Trong khi lễ tụng ta không nên tụng niệm lớn tiếng làm áp đảo đại chúng. Ta phải lưu ý điều chỉnh âm thanh của mình để hòa âm cùng một cung bậc với đại chúng. Có người ỷ mình có âm thanh tốt tụng niệm lớn tiếng làm áp đảo tiếng của đại chúng, do đó đại chúng sanh lòng phiền thế là ta mang tội. Vì thế ta phải cẩn thận vấn đề nầy. Ngoài việc tụng niệm ra, khi giao tiếp với mọi người ta cũng phải nói lời hòa nhã êm dịu, luôn sử dụng ái ngữ trong khi hành xử. Đó là ta khéo biết dùng khẩu nghiệp cúng dường, nghĩa là làm cho căn lành của ta ngày tăng trưởng thêm lên.

 

Còn nói ý nghiệp cúng dường là trong khi lễ tụng tâm ý ta phải chú ý đến lời kinh tiếng kệ mà ta đang trì tụng. Tâm ta phải luôn thanh tịnh sáng suốt, không suy nghĩ lung tung. Đó là ta khéo biết dùng ý nghiệp cúng dường. Ngoài việc lễ tụng ra, ta hằng để tâm nhớ nghĩ đến sắc tướng trang nghiêm của chư Phật, Bồ tát, và nhớ nghĩ đến những pháp lành để hằng ngày dụng công tu tập phát triển hạnh lành hướng đời mình về đạo lý giác ngộ và giải thoát. Ta luôn nhiếp tâm thành ý để niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Được thế, thì mới thực sự là ý nghiệp cúng dường vậy.

 

91. Vấn đề cúng chay và cúng mặn

 

Hỏi: Kính bạch thầy, mỗi khi cúng giỗ cho mẹ con, thì trong gia đình lại có những ý kiến bất đồng xung đột lẫn nhau. Có người thì bảo nên cúng chay, có người thì bảo nên cúng mặn. Vậy cúi xin thầy cho con lời khuyên nên cúng như thế nào mới đúng?

 

Đáp: Vấn đề cúng chay hay cúng mặn đó là tùy theo quan niệm nhận thức của mỗi người. Nhất là chủ trương của mỗi tôn giáo khác nhau. Trong câu hỏi của Phật tử, Phật tử không có nói rõ là những thành viên trong gia đình có cùng một tôn giáo hay có khác tôn giáo. Nếu có khác tôn giáo thì việc xảy ra bất đồng quan điểm gây nên chuyện xung đột, đó cũng là chuyện thường tình. Thậm chí có gia đình cùng theo đạo Phật, nhưng trình độ hiểu biết về đạo Phật của mỗi người khác nhau, nên cũng dễ gây ra tình trạng xung đột bất hòa về việc cúng chay mặn. Vấn đề cúng kỵ cho ông bà cha mẹ là một truyền thống lâu đời của người Việt Nam. Đó là một hình thức nhắc nhở con cháu phải nhớ đến cội nguồn. Cho nên dù cúng chay hay cúng mặn, cũng chỉ là cốt để bày tỏ tấm lòng hiếu thảo của người còn sống đối với những người đã khuất bóng. Nếu chỉ vì việc cúng chay, cúng mặn mà những thân nhân trong gia đình gây nên cảnh xào xáo xung đột bất hòa, như thế, thì đâu còn ý nghĩa gì của việc tưởng niệm cúng kỵ đó.

 

Để dung hòa những ý kiến bất đồng đó, theo tôi, thì những người thân trong gia đình nên làm theo ý kiến chung của đa số. Và đồng thời tìm một phương cách giải quyết thích hợp nhứt. Nếu người mất đã có lời di chúc, sau khi mất bảo con cháu phải cúng chay, thì tất cả con cháu phải nên tuân thủ làm theo tôn ý của lời di chúc đó. Như thế, mới thật là có hiếu. Vì không làm chống trái với ý nguyện của người thân đã mất. Cho nên, đúng ngày cúng kỵ thì con cháu trong gia đình nên cúng chay. Đó là thuận theo ý người mất. Riêng đối với việc xã giao bạn bè, thì con cháu có thể làm cỗ mặn để thiết đãi bạn bè thân thuộc. Tuy nhiên, để tránh sát hại sinh vật quả báo bất lợi cho người đã mất và người còn sống, thì chúng ta nên mua những sinh vật đã được làm sẵn bày bán ở thị trường. Đó là chúng ta dùng theo cách "Tam tịnh nhục", tức thịt của những con vật không thấy, không nghe, và không nghi. Không thấy người giết nó, không nghe tiếng kêu la giãy giụa của nó trước khi chết và cũng không nghi ngờ ai giết nó. Tam tịnh nhục này thời Phật còn tại thế Ngài đã cho các vị khất sĩ xuất gia được dùng loại thịt nầy. Như vậy, ta có thể dung hòa được, vừa không chống trái lời di chúc ý nguyện của người đã mất và cũng vừa thiết tiệc đãi bạn bè, thân thuộc trong thâm tình xã giao chòm xóm. Và như thế, cũng không đến đỗi mang tội lỗi nhiều. Trên đây, chỉ là ý kiến lời khuyên chân thành của chúng tôi, rồi tùy đó mà Phật tử suy xét. Mục đích là làm sao tránh gây ra sự xung đột bất hòa trong gia đình và cũng đừng gây thêm nghiệp quả cho người mất. Đồng thời cũng thể hiện tuân theo ý nguyện của người đã khuất.

 

Kính chúc Phật tử có nhiều sáng suốt trong việc cư xử tu thân tề gia và hành thiện mang nhiều lợi lạc thiết thực trong đời sống.

 

92. Ý nghĩa của lục tức Phật

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con có nghe nói đến lục tức Phật, nhưng con không hiểu Lục tức Phật ý nghĩa như thế nào? Vậy kính mong thầy giải đáp cho con hiểu. Cảm niệm ơn thầy.

 

Đáp: Theo tông Thiên Thai, Ngài Trí Giả Đại Sư có nêu ra Lục tức Phật. Thành phần của Lục tức Phật gồm có: 1. Lý tức Phật. 2. Danh tự tức Phật. 3. Quán hạnh tức Phật. 4. Tương tợ tức Phật. 5. Phần chứng tức Phật. 6. Cứu cánh tức Phật.

 

1. Lý tức Phật: Lý tức là lý thể, nghĩa là đứng trên lý thể mà nói, thì tất cả chúng sinh đều sẵn có Phật tánh (nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh - Kinh Đại Bát Niết Bàn). Trong Kinh Viên Giác nói: "Phàm có tâm tất nhiên có Phật". Đó là Phật trong lý thể, nên gọi là lý tức Phật. Như nói, tất cả những đồ nữ trang đều sẵn có chất vàng ròng. Đồ nữ trang tuy nhiều thứ có khác nhau, nhưng thể vàng ròng thì không có khác. Nếu không có chất vàng ròng, thì làm sao có thể tạo ra các đồ nữ trang cho những người phụ nữ trang sức. Cũng thế, vàng là dụ cho lý thể, tức Phật tánh đều sẵn có tiềm tàng trong tâm thức của mỗi chúng sanh. Nhưng đó chỉ là phần lý tánh mà thôi. Dù người đó có hung dữ đến đâu, nhưng họ cũng vẫn có tánh Phật giống như người hiền từ. Nếu như không có tánh Phật, thì họ không thể nào biết hồi tâm hướng thiện. Thực tế có lắm người trước kia họ là kẻ hung dữ sát nhơn, nhưng sau họ trở thành một con người rất hiền hòa lương thiện. Nếu không có chất Phật trong người họ thì làm gì họ biết hồi đầu cải ác tùng thiện? Nhưng chất Phật đó vẫn luôn có mặt trong mọi hành động hung ác của họ. Thậm chí những chúng sinh bị sa đọa trong địa ngục, họ vẫn có tánh Phật. Nhưng tánh Phật đó chỉ là lý mà thôi. Cho nên nói: Lý tức Phật vậy.

 

2. Danh tự tức Phật: Nghĩa là Phật mà Phật chỉ có trên mặt danh tự mà thôi. Như chúng ta xưng "Nam mô Phật" thì danh xưng đó chỉ là danh tự. Nhờ biết danh tự Phật mà ta mới có thể làm lành lánh dữ theo lời Phật dạy, đó gọi là Danh tự tức Phật. Giai đoạn nầy, có khác hơn giai đoạn trên, vì giai đoạn trên chỉ có lý tức Phật thôi. Tuy nhiên, nếu không có lý tức Phật thì làm sao có danh tự tức Phật? Nhờ nương vào danh tự tức Phật mà chúng ta mới có thể đạt được Lý tức Phật vậy.

 

3. Quán hạnh tức Phật: những hành giả nào khéo biết đi sâu vào lĩnh vực thiền quán, tư duy và thật hành đúng theo những lời Phật dạy, thì được gọi Quán hạnh tức Phật. Quán hạnh tức Phật nầy từ địa vị thập tín, thập trụ, thập hạnh đến thập hồi hướng. Không như danh tự tức Phật đến đây hành giả phải thật hành phép quán thật sâu sắc. Có hai pháp tu là quán và hạnh. Tu quán tức là thiền định, còn tu hạnh là bố thí, trì giới, nhẫn nhục ... Theo cố Hòa thượng Thiện Siêu cho rằng: "Quán là hành nghiệp thuộc về tâm linh, trí tuệ tức thuộc về ý. Hành là các hành nghiệp thuộc về thân và miệng. Tu tập bằng cách hành và quán. Phật ở trong hành quán ấy thì gọi là Quán hạnh tức Phật".

 

4. Tương tợ tức Phật: Đến đây hành giả đã đạt được sơ địa kiến đạo. Vì thấy rõ được Phật tánh của mình chớ không có lầm, tức ở phần khai, thị và ngộ. Ngộ là chính mình nhận ra chớ không phải mơ hồ theo văn tự. Tuy nhiên, vẫn chỉ là tương tợ chớ chưa phải là nhận ra Phật tánh một cách hoàn toàn. Giống như người thấy cha mình qua tấm hình chớ chưa phải thấy người cha qua hình hài thật bằng da bằng thịt. Nhưng tấm hình đó cũng đầy đủ hình dạng bóng dáng của người cha. Nếu như đem tấm hình đó đối chiếu với người cha thì cũng giống hệt không khác. Còn nếu đưa qua người khác thì không giống nên gọi là tương tợ.

 

Khi chưa tu quán hạnh, thì hành giả chưa nhận ra Phật tánh của mình. Phật tánh là tánh sáng suốt tuy vô hình nhưng bao trùm khắp cả muôn vật. Nhờ tu quán hạnh mà hành giả mới nhận ra được Phật tánh một cách gián tiếp nên gọi là tương tợ tức Phật.

 

5. Phần chứng tức Phật: Ở địa vị nầy là hành giả phải từ bậc sơ địa trở lên. Nghĩa là sau khi hành giả nhận ra được Phật tánh rồi, y cứ vào đó mà thật hành chứng đạt từng phần nên gọi là phần chứng tức Phật. Nói cách khác, hành giả phá trừ một phần vô minh tất chứng được một phần pháp thân. Dụ như thấy người cha qua từng phần bằng xương bằng thịt, chớ không phải thấy qua hình ảnh bóng dáng của người cha nữa.

 

6. Cứu cánh tức Phật: Đến đây hành giả đã đoạn trừ hết vô minh vọng hoặc và chứng ngộ trọn vẹn chơn như thật tánh, giác ngộ hoàn toàn gọi là cứu cánh thành Phật. Thế là hành giả đã được quả vị Phật quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đến đây không còn là Phật ở trong lý tánh nữa mà thể hiện hoàn toàn đầy đủ Ba đức: Trí đức, Đoạn đức, và Ân đức. Nói cách khác là đầy đủ Pháp thân, Bát nhã và Giải thoát vậy.

 

93. Có mấy loại mạn trong Phật giáo?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con thường nghe quý thầy giảng pháp hay đề cập đến vấn đề ngã mạn. Ý nghĩa của hai chữ ngã mạn thì con biết sơ qua, nhưng ngoài ra, con không biết còn có những loại mạn nào khác nữa không? Nếu có, thì xin thầy hoan hỷ nêu ra và giải thích cho con được hiểu. Con kính trọng ơn thầy.

 

Đáp: Trong kinh điển Phật giáo thường nêu ra có bảy loại mạn: 1. Mạn, 2. Quá mạn. 3. Mạn quá mạn. 4. Tăng thượng mạn. 5. Tà mạn.  6. Ty liệt mạn. 7. Ngã mạn.

 

Trong quyển Hán Việt Tự Điển của cụ Thiều Chửu giải thích chữ mạn có nghĩa là tràn đầy, luông tuồng không tự kiềm chế, gọi là tản mạn.

 

1. Mạn: Mình bằng người mà cho mình hơn người. Hoặc người hơn mình mà mình cho người đó thua mình. Tâm lý nầy đều gọi là mạn.

 

2. Quá mạn: Mình thua kém người ta ở một phương diện nào đó, nhưng mình vẫn không chịu thua và còn cho mình là bằng người. Hoặc giả trình độ hiểu biết của mình ngang hàng người ta mà mình vẫn tự hào cho rằng mình hiểu biết hơn người ta. Nghĩa là lúc nào mình cũng nâng cao mình lên hơn người một bậc, đó gọi là Quá mạn.

 

3. Mạn quá mạn: Hạng người nầy lúc nào cũng tự cho mình là hơn người. Tự cho mình tài giỏi hơn người đến hai bậc. Do ỷ mình như thế nên sanh tâm khinh thường kẻ khác. Hạng người nầy gọi là Mạn quá mạn.

 

4. Tăng thượng mạn: Hạng người nầy mới được một ít cho là đủ. Họ là hạng người luôn luôn tự mãn không bao giờ chịu học hỏi với ai. Thậm chí họ tu hành chẳng ra chi, mà cứ tự hào khoe khoang với mọi người là họ đã ngộ như thế nầy và chứng quả như thế kia. Họ chỉ là một kẻ phàm phu tục tử vậy mà dám cả gan tự xưng mình là chứng Thánh. Đây là hạng người Tăng thượng mạn vậy.

 

5. Tà mạn: Những hạng người mang nặng hạt giống ngoại đạo, hành theo tà đạo rồi chấp vào định kiến của mình mà chê bai kích bác người khác, dù người đó đang thật hành đúng theo chánh lý. Do bảo thủ tư kiến của mình mà họ rơi vào con đường tà kiến khi nào không hay biết. Họ tự cho họ là người sống đúng theo chơn lý, nhưng thực tế họ là người đang thật hành theo tà đạo. Họ chấp chặt vào tà nhơn, tà quả, rồi tự thị vào tà nhơn, tà quả đó mà khinh thường những người khác. Đó là hạng người tà mạn vậy.

 

6. Ty liệt mạn: Hạng người nầy dù thua thấp kém hơn người rất nhiều, nhưng họ vẫn tự thị cho họ là thua kém chút ít thôi. Có đôi khi họ tự biết là mình thấp hèn, nhưng vẫn cứ bảo thủ không chịu phục tùng học hỏi với bất cứ ai. Hạng người nầy thật là đáng thương hơn đáng trách.

 

7. Ngã mạn: Tâm lý ngã mạn nầy hầu hết không một ai tránh khỏi. Chỉ có thể khác nhau trên cường độ bảo thủ chấp ngã và ngã sở nặng hay nhẹ mà thôi. Mọi sự khổ đau của nhơn loại, gốc cũng từ nơi chấp ngã nầy mà ra. Vì chấp ngã nên không chịu khuất phục thua sút ai. Từ đó gây ra biết bao thảm trạng chiến tranh sát hại lẫn nhau không chút gớm tay. Dù ở địa vị nào, ở trình độ nào, con người luôn luôn là bảo thủ chấp ngã. Ai cũng thấy mình là cái rốn của vũ trụ nên không cho ai có quyền vượt trội hơn mình. Kẻ nào hơn mình là kẻ đó phải chết. Ai cũng tự cao tự đại như thế, cho nên cái ngã nầy phải đụng với ngã kia. Vì mãi đụng nhau như thế thì thử hỏi nhơn loại làm sao có thể sống chung hòa bình cho được? Do vì không hiểu được chơn lý vô ngã nên nhơn loại mới gây ra biết bao thù hận đấu đá chém giết lẫn nhau. Tranh chấp sát hại, hẹp thì từ cá nhân với cá nhân, rộng hơn một chút, thì từ đoàn thể với đoàn thể và rộng ra là cả thế giới, tất cả cũng chỉ vì chấp ngã mà ra. Cho nên cái tâm lý ngã mạn nầy rất là độc hại. Người có chí thiết tu hành thì diệt trừ được lòng ngã mạn chút ít. Bởi do vô minh si mê nên mới chấp ngã, chấp pháp. Thế gian bị điên đảo đại loạn bất an và con người luôn bị khổ đau trong vòng sanh tử, tất cả cũng bởi do hai thứ chấp ngã nầy mà ra.

 

Khi biết rõ tai hại của bảy loại mạn nói trên để từ đó chúng ta cố gắng quán chiếu thật sâu biết rõ hành tướng của mỗi loại tâm lý nầy hầu để tìm cách chuyển hóa chúng. Có thế thì đời ta mới hết khổ đau vậy.

 

94. Vì chuyện thị phi làm thối Bồ đề tâm

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con là một Phật tử quy y và đi chùa đã lâu, nhưng mỗi khi con vô chùa, con lại nghe lắm chuyện thị phi. Họ phê bình nói xấu người nầy, người kia đủ thứ chuyện. Thấy vậy, thú thật con rất là bất mãn và tự hỏi tại sao họ biết đi chùa mà còn nhiều chuyện như vậy? Thế thì đâu có khác gì người đời, xin lỗi, còn hơn người đời nữa không chừng. Từ đó Bồ đề tâm của con lại bị thối thất chán nản không còn muốn đi chùa nữa. Vậy xin thầy có cách nào chỉ dạy cho con để con đừng bị thối thất Bồ đề tâm không? Con cảm ơn thầy nhiều.

 

Đáp:  Qua câu hỏi trên, tôi rất thông cảm cho tâm trạng và trình độ hiểu biết về Phật pháp của Phật tử. Mặc dù Phật tử quy y và đi chùa đã lâu, nhưng sự tu học của Phật tử vẫn chưa được vững vàng cho lắm. Chính vì thế, nên Phật tử mới đâm ra chán nản thối thất Bồ đề tâm và không muốn đi chùa nữa. Phật tử nên biết rằng, không phải ai quy y và đi chùa lâu năm cũng đều là người tốt có phẩm chất đạo đức hết đâu. Bởi quy y và đi chùa chưa phải là tu. Đó chỉ là hình thức bề ngoài, còn tu là phải hằng quán chiếu gạn lọc phiền não có thực chất đạo đức bên trong. Quy y và đi chùa suông như thế thì thử hỏi làm sao có lợi ích?!

 

Vì không chịu học hỏi để biết rõ đường lối tu hành, nên mới sanh ra có lắm chuyện tranh chấp nhân ngã thị phi. Người biết tu là người thường thấy lỗi lầm của mình mà không thấy lỗi lầm của người khác. Có thấy lỗi lầm của mình để sửa đổi chừa bỏ thì, đó mới thật là người khéo biết tu hành. Phật tử nên biết rằng, mỗi người có mỗi chủng tánh biệt nghiệp khác nhau. Nghiệp lực nặng hay nhẹ là tùy theo nghiệp nhân mà họ đã gây tạo. Có người thì nghiệp chướng quá nặng nề, có người thì tương đối nhẹ hơn. Do đó, nên trình độ tu tập và nhận thức của mỗi người mỗi khác. Phật tử đến chùa cùng sinh hoạt tu tập chung trong một môi trường, đó là cộng nghiệp. Tuy nhiên, trong cái cộng nghiệp đó, dĩ nhiên, là có nhiều cái biệt nghiệp khác nhau. Biệt nghiệp có ra là do mỗi người huân tập ảnh hưởng hấp thụ bởi môi trường sống chung quanh. Sự tác động ảnh hưởng trở thành quán tính nặng, nhẹ điều đó không sao tránh khỏi. Quán tính đó là nghiệp. Nghiệp là thói quen, là tập khí, là chủng tử do mỗi người huân tập mà thành. Thói quen, tất nhiên là có thói quen xấu và thói quen tốt. Nói cách khác, nghiệp có nghiệp lành và nghiệp dữ.

 

Người hay bươi móc những lỗi lầm của kẻ khác, chuyên vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết, đó là hạng người vướng phải thói quen rất xấu. Đó là hạng người ăn cơm nhà hay nói chuyện người ta. Thói quen nầy, do vì họ không biết tu tập để chuyển hóa nó. Chẳng những không có chuyển hóa mà ngày càng làm cho nó tác tệ phát triển mạnh hơn. Chùa là môi trường để tu tập, để chuyển hóa những hạt giống xấu thành những hạt giống tốt. Môi trường tốt là do từ mỗi cá nhân khéo biết tạo thành. Chùa cũng là nơi hội tụ đủ mọi thành phần, mọi giới và mọi trình độ nhận thức khác nhau. Không phải ai tới chùa cũng để luận bàn chuyện thiên hạ sự. Có người đến chùa cốt để nghe pháp và tìm hiểu học hỏi giáo lý Phật dạy. Họ luôn cố gắng nỗ lực thiết tha trong sự tu tập. Tùy theo hoàn cảnh của mỗi chùa mà có những cách hướng dẫn sinh hoạt tu học khác nhau. Tuy nhiên, dù hướng dẫn cách nào, mục đích chính nhắm tới vẫn là hướng dẫn mọi người tu tập đúng theo con đường giác ngộ và giải thoát. Đó là hướng dẫn đúng theo lộ trình chánh pháp Phật dạy. Vì thế, người Phật tử có quyền chọn lựa cho mình một nơi tu học thích hợp. Sự chọn lựa nầy không ai có quyền ngăn cản cả. Vì đó là lợi ích riêng cho cá nhân mình. Nếu xét thấy, nơi nào không thích hợp cho việc tu học của mình thì mình không đến. Nhưng thưa thật với Phật tử, trên thế gian nầy, Phật tử đi tìm một nơi hoàn toàn hợp theo lý tưởng ý muốn của mình thì chắc đốt đuốc cũng khó tìm ra. Tâm lý đứng núi nầy trông núi nọ, rốt lại chỉ chạy lòng vòng mà không đi tới đâu. Vì đến nơi nào cũng cảm thấy bất mãn không như ý mình cả.

 

Điều Phật tử nói, đến chùa nghe người ta đàm tiếu nhiều chuyện thị phi, phê bình, chỉ trích, nói xấu, chê bai, khen tặng v.v... việc nầy chùa nào mà lại không có?! Chẳng qua có ít hay nhiều đó thôi. Ở trong chùa, nơi thường xảy ra bàn tán chuyện thị phi nhiều nhất, phải thành thật mà nói là ở khu vực nhà bếp. Vì nơi đây là khu đặc biệt chuyên nghiệp của phái nữ. Người ta gọi khu nầy là khu nhiều chuyện nhất. Ai muốn biết chuyện gì xảy ra ở ngoài đời thì hãy đến khu vực nầy. Bởi khi làm việc xắt gọt, nấu nướng, xào chiên v.v... họ thường chụm ba, chụm bảy tất nhiên, khi đó là phải đem chuyện thiên hạ ra nói. Cho nên có lắm người đến chùa họ rất sợ bước chân đến khu vực nầy. Sở trường của đa số phái nữ là hay bươi móc nói xấu phê bình chê bai sau lưng người khác. Đó là nghiệp nặng của phái nữ. Nói thế, không phải là phái nam không có. Những nơi tụ họp bàn tròn, bàn vuông, bàn dài, tán hưu, tán vượn, tán ngẫu, tán dóc toàn nói chuyện bù khú thế gian, bình luận thiên hạ sự, hết chuyện ngoài đời tới chuyện trong đạo, đó cũng là sở trường của mấy ông nhiều chuyện lắm mồm lắm mép. Nơi đâu mà lại không có những chuyện nầy xảy ra! Vì đó là vô minh nghiệp hoặc sâu nặng của chúng sinh. Bởi vậy, nên mới có xảy ra nhiều việc đôi chối và làm mất hết tình cảm thân thiết với nhau. 

 

Có người hay nói xấu sau lưng người khác, nói xong họ không chịu trách nhiệm lời nói của mình. Khi nói, họ không chịu kiểm soát lời nói của họ. Lời nói của họ toàn chứa đựng những vị chua cay độc ác làm cho đối phương phải nếm mùi buồn khổ. Họ phun ra lời nói độc ác mà họ không hề hay biết.  Tuy họ không chịu trách nhiệm những gì họ nói, nhưng họ đâu có biết rằng, khi thốt ra thành lời rồi tất nhiên, đều phải có quả báo. Đã có nhân thì làm sao tránh khỏi quả báo?  Dù muốn hay không họ cũng phải trả quả báo theo luật nhân quả. Họ tưởng lời nói giống như gió thoảng mây bay không có quả báo. Nghĩ thế là họ đã sai lầm to. Nếu không có quả báo thì, tại sao Phật Tổ đều khuyên người Phật tử nên tu cái khẩu nghiệp? Dù họ tạo ra bao nhiêu phước đức cuối cùng, họ cũng bị cái khẩu nghiệp của họ đốt phá thiêu hủy hết. Thật là đáng thương xót lắm thay! Thế nên, cùng là đi chùa mà người đi chùa thì có phước, còn người đi chùa thì lại gây thêm tội lỗi. Nói rõ hơn, cùng một việc làm mà người làm có phước còn người làm lại có tội. Có phước là vì họ làm bằng cái tâm hoan hỷ buông xả và họ không bao giờ dùng lời nói nặng nhẹ sai khiến hay nói xấu bất cứ ai. Họ luôn ý thức và gìn giữ chánh niệm. Đó là người khéo biết tu tạo tài bồi phước đức cho mình. Ngược lại, có tội là vì họ làm bằng cái tâm tham, sân, si, đố kỵ ganh tỵ, hết hại người nầy tới hại người kia, vì bản ngã mà họ tạo ra rất nhiều tội lỗi bởi cái khẩu nghiệp của họ. Hạng người nầy họ chỉ biết đến chùa làm chút ít công quả, nhưng thực tế thì họ không biết tu hành gì cả. Người khéo biết tu là phải tu ở nơi ba nghiệp. Trong ba nghiệp, cái khẩu nghiệp làm cho mình và người đau khổ nhiều nhất. Thế nên, người biết tu hành và sợ quả báo thì phải nên tránh cái khẩu nghiệp nầy.

 

Hơn nữa, có người đi chùa lâu năm mà họ không có chút tiến bộ nào trên đường tu tập. Tại sao như thế? Bởi vì họ chỉ biết đi chùa cầu khẩn van xin cúng bái thôi, chớ họ không có cái tâm tha thiết trong việc tu học. Vấn đề nầy, chúng tôi cũng đã có nói qua rải rác trong những câu hỏi có liên quan đến việc đi chùa của người Phật tử, trong hai quyển: 100 Câu Hỏi Phật Pháp tập 1 và 2. Như trong tập 2, ở trang 339, câu hỏi số 98: "Một người thường đi chùa nhưng tánh tình vẫn không thay đổi". Thiết nghĩ, Phật tử nên đọc lại câu hỏi nầy thì sẽ biết rõ hơn.

 

Trở lại câu hỏi của Phật tử, Phật tử nói vì chuyện thị phi mà làm cho Phật tử muốn thối thất Bồ đề tâm. Đây là một tâm lý rất thường tình của con người không sao tránh khỏi. Đa số Phật tử đi chùa chỉ thích làm công quả để có phước, chớ ít khi chịu nghiên cứu học hỏi tu tập. Do đó, nên khi đụng chuyện khó khăn không như ý mình thì liền thối thất Bồ đề tâm. Đó chỉ là thiệt hại cho mình mà thôi. Trường hợp của Phật tử, nếu xét thấy mình chưa đủ bản lãnh hay không thể nhập cuộc với họ, thì tốt nhứt là nên tránh duyên. Nghĩa là không nên lân la gần gũi những nơi hay nhiều chuyện. Nhất là đối với những người hay lắm chuyện nhiều lời, thường nói xấu sau lưng kẻ khác, thì mình nên tránh xa không giao du thân thiện với họ. Phật tử nên khéo léo uyển chuyển linh động tạo cho mình có được cái tâm an lạc trong khi đến chùa tu học. Phật tử nên theo sự hướng dẫn của chư Tăng, Ni mà chuyên cần tu tập. Nếu là ngày thọ bát thì Phật tử chỉ một bề quyết chí tu học thôi, còn ai có nói gì thì Phật tử cũng đừng quan tâm nghĩ đến. Bởi Phật tử tu cho mình chớ không phải tu cho họ. Khi Phật tử chịu khó tu tập vững vàng rồi, dù cho ai có nói ngửa nói nghiêng, nói gì đi chăng nữa, thì tâm của Phật tử vẫn giữ vững chắc như kiềng ba chân. Nếu chưa được như vậy, thì tôi thành thật khuyên Phật tử không nên tiếp xúc gần gũi với những hạng người đó. Vì kẻ hay nói xấu sau lưng người khác, đó là hạng tiểu nhơn mình nên lánh xa. Gần họ chỉ chuốc thêm phiền não mà thôi. Tránh nhân thì không có quả. Phật tử không nên vì họ mà thối tâm bồ đề. Mình phải có lập trường vững chắc trong sự tu học. Không phải vì người nầy, người nọ không tốt mà mình phải thối tâm. Con đường tu học để được giác ngô giải thoát, tất nhiên, chúng ta phải gặp nhiều chướng duyên khó khăn trở ngại. Gương xưa của các bậc Hiền Thánh đã cho ta thấy rất rõ điều đó. Không có sự thành công tốt đẹp nào mà không trải qua những chướng ngại gian lao thử thách. Muốn trở thành một con dao sắc bén, tất nhiên, con dao đó phải trải qua một quá trình rèn luyện. Một tượng Phật được tướng hảo quang minh mà chúng ta tôn thờ lễ bái, tất nhiên, tượng Phật đó cũng phải trải qua một quá trình tạc tạo tô đắp, điêu khắc v.v... của những bàn tay nghệ nhân đầy nghệ thuật. Trước khi trở thành con dao hay tượng Phật, Bồ tát, thì tất cả những vật tạo nên chỉ là một thanh sắt vụn hay những bao xi măng cốt sắt hoặc là những khúc gỗ ở ngoài rừng. Thử hỏi có ai sử dụng hay tôn thờ chiêm bái những thứ đó không? Cũng thế, muốn trở thành một con người hoàn thiện, tất nhiên, chúng ta cũng phải trải qua những chướng duyên khó khăn trong tiến trình tu tập. Nghĩa là phải chịu sự rèn luyện lâu ngày mới thành tựu tốt đẹp được. Nghĩ thế, dù gặp bất cứ nghịch cảnh nào, chúng ta cũng phải bền tâm kiên nhẫn để vượt qua. Có thế, thì chúng ta mới thành công trong sự nghiệp tu học vậy.

 

Kính chúc Phật tử luôn có đầy đủ nghị lực và trí tuệ sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn thử thách trên bước đường tu tập cho đến ngày thành công viên mãn Phật quả.

 

95. Bốn thứ quả báo

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con thấy trong kinh có nói đến bốn thứ quả báo, nhưng con không hiểu bốn thứ quả báo đó là gì? Kính mong thầy hoan hỷ giải thích cho con rõ.

 

Đáp: Trong Pháp Uyển Châu Lâm 69, có nói đến bốn thứ quả báo như sau:

 

1. Người trước khổ sau vui: Có người trước sanh vào nhà nghèo nàn, cơm không đủ no, áo không đủ mặc, chịu nhiều điều khốn khổ, nhưng tâm không tà kiến, tự nghĩ rằng, đời trước ta không biết bố thí, không tu phước đức cho nên phải chịu nghèo nàn, liền sám hối sửa đổi những việc làm hằng ngày trước và tu các hạnh lành, đời sau sanh trong loài người thì có nhiều tài sản của báu không thiếu gì, đó gọi là người trước khổ sau vui.

 

2. Người trước vui sau khổ: Có người trước sanh vào nhà giàu sang, cơm áo đầy đủ và hưởng nhiều khoái lạc, nhưng trong tâm tà kiến, không biết bố thí tu phước lại tạo nhiều nghiệp ác, sau đọa vào địa ngục, chịu nhiều thống khổ; nếu sanh trong loài người thì nghèo nàn, xấu xí, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, đó gọi là người trước vui sau khổ.

 

3. Người trước khổ sau khổ: Có người trước sanh vào nhà nghèo nàn, ăn thiếu, mặc rách và chịu nhiều bức bách, tâm lại tà kiến gây tạo nhiều việc ác, sau đọa vào địa ngục chịu nhiều thống khổ; nếu sanh trong loài người cũng rất nghèo nàn thiếu thốn, đó là người trước khổ sau khổ.

 

4. Người trước vui sau vui: Có người trước sanh vào nhà giàu sang, có nhiều tài sản của báu và được hưởng nhiều khoái lạc, lại kính trọng Tam bảo, bố thí tu phước, sau sanh trong loài người, cõi trời, hưởng sự giàu sang và có nhiều tài sản của báu, tự tại như ý, đó gọi là người trước vui sau vui (Tự Điển Phật Học Huệ Quang tập 8 trang 7095).

 

Đó là bốn thứ quả báo mà chính do con người tạo ra. Theo luật nhân quả, tạo nhân gì thì sẽ gặt hái quả đó. Gây tạo nhân lành tất nhiên là chúng ta sẽ hưởng quả lành. Ngược lại, gieo nhân ác thì phải gặt hái quả ác. Muốn cho hiện đời và đời sau được an vui, thì chúng ta nên cố gắng tạo điều lành. Nhờ tạo nhiều nghiệp lành mà hiện đời ta được an vui và đời sau cũng được an vui. Đó là hạng người trước vui sau vui vậy.

 

96. Bốn thứ quán hạnh là gì?

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con có nghe nói đến bốn thứ quán hạnh, nhưng con chưa hiểu bốn thứ quán hạnh là gì? Kính xin thầy từ bi giảng giải cho con rõ.

 

Đáp: Bốn quán hạnh mà người tu hành sám hối thực hiện để làm phương tiện diệt tội. Trong kinh có nêu ra bốn thứ quán hạnh như sau:

 

1. Quán nhân duyên: Tức quán nhân duyên tạo tội. Hành giả phải hằng quán sát mọi tội lỗi có ra đều do vô minh chủ động thúc đẩy ba nghiệp: thân, ngữ, ý tạo thành tội. Vì thiếu năng lực chánh quán, chánh niệm, không biết tội lỗi, xa lìa thiện tri thức, tạo những điều bất thiện, vì nhân duyên đó nên bị trôi lăn trong sanh tử, chịu nhiều nỗi thống khổ không biết bao giờ mới được thoát ra.

 

2. Quán quả báo: Tức quán quả báo của việc tạo tội. Hành giả hằng tư duy quán chiếu như thế nầy: Cái quả báo hiện ta đang phải trả đây, không phải ngẫu nhiên mà có. Tất nhiên, phải có cái nguyên nhân sâu xa của nó. Cái nguyên nhân sâu xa đó là do vô minh nghiệp thức bất giác gây ra. Từ đó mà ta phải chịu luân chuyển nổi trôi trải qua nhiều đời thọ quả khổ không cùng tận, đắm chìm trong biển sanh tử, mịt mờ không bờ mé, khác nào như ôm tảng đá nặng nhảy xuống vực sâu, khó bề ra khỏi.

 

3. Quán tự thân: Quán thân mình tuy có Phật tánh nhưng bị bao thứ phiền não che lấp, nếu không nhờ công đức quán chiếu sâu sắc của trí huệ thì không thể nào hiển lộ được Phật tánh. Hành giả cần phải phát khởi cái tâm thù thắng để chuyển hóa sạch hết vô minh phiền não, hiển bày tánh giác, chứng đắc diệu quả Vô Thượng Bồ Đề. Đó là hằng quán chiếu nơi tự thân.

 

4. Quán thân Như Lai: Quán thân Như Lai đầy đủ các công đức, vắng lặng thường trụ, tùy phương tiện thị hiện Niết bàn nhưng tâm từ bi cứu độ chúng sanh không hề tạm bỏ.

 

Đó là bốn thứ quán hạnh mà mỗi hành giả cần nên quán chiếu tu tập. Có quán chiếu sâu sắc như thế, thì mới có thể biết rõ nguyên nhân tạo tội và cái quả báo mà chúng ta phải trải qua nhiều đời thọ khổ. Muốn chấm dứt vòng sanh tử khổ đau là chúng ta phải nỗ lực tiến tu nhận diện và chuyển hóa hết vô minh phiền não, có thế thì mới mong thành tựu được Phật quả vậy.

 

97. Vấn đề kinh điển ngụy tạo

 

Hỏi:  Kính bạch thầy, gần đây dư luận cho rằng, các kinh điển thuộc hệ thống Đại thừa hay Phát triển, không phải là kinh "gốc" vì không tìm thấy văn kinh bằng tiếng Pali hay Sanskrit, do đó nên họ cho là kinh ngụy tạo, đây là kinh do người Trung Hoa tự tạo, sau khi Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang. Việc nầy con rất thắc mắc không biết quan niệm đó có đúng không? Kính mong thầy giải thích cho con hiểu.

 

Đáp: Vấn đề nầy đã có nhiều bài viết luận giải tường tận đăng trên các trang mạng cũng như có những buổi hội thảo của chư Tăng, Ni qua hình thức vấn đáp để làm sáng tỏ vấn đề. Tuy nhiên, ở đây Phật tử đã hỏi, thì tôi cũng xin mạo muội góp chút ngu ý theo thiển kiến của chúng tôi. Vì phạm vi trả lời câu hỏi có giới hạn, nên chúng tôi chỉ xin được giải bày một cách ngắn gọn vắn tắt mà thôi. Nếu Phật tử muốn tìm hiểu rõ vấn đề hơn thì, xin đọc trên các trang mạng nói về kinh Ngụy tạo hay Tân kinh.

 

Theo các học giả Tây phương cũng như một số người khi nghiên cứu về các hệ thống kinh điển Phật giáo, thì họ cho rằng các kinh điển Đại thừa, như Kinh Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Kim Cang, Bát Nhã, Phạm Võng, Địa Tạng, Lăng Già, Duy Ma Cật v.v... không phải là kinh gốc xuất phát từ thời Phật qua văn tự Pali và Sanskrit, tất nhiên, họ cho rằng, những kinh điển nầy đã được trứ tác sau thời gian Phật nhập diệt và do các vị tổ sư Trung Hoa " Ngụy tạo", còn gọi là Tân kinh. Một nhóm người còn cho rằng, các loại kinh nầy mang màu sắc chính trị do người Trung Hoa có tư tưởng bá quyền tự tạo. Những luận điệu nầy họ dựa vào một vài chứng tích khảo cổ để suy luận quyết đoán. Dĩ nhiên, có lắm người nghiên cứu kinh điển Phật giáo, không phải với tư cách là một học giả thôi mà là qua kinh nghiệm của một hành giả, đương nhiên là họ không thể chấp nhận được. Từ ngữ Apocrypha trong tiếng Anh có nghĩa là chỉ cho các văn bản không phải là bản gốc, ta có thể hiểu đó là những "kinh sau thời đức Phật", "kinh phát triển" hay "Tân kinh..." chứ không phải mang một nghĩa "xấu" như khi chuyển tải qua tiếng Việt thành từ "Ngụy tạo". Đây là một từ ngữ Hán Việt diễn tả khá nặng nề mang tính bất hảo trong ngôn ngữ. Nói "Ngụy tạo" có nghĩa là "kinh xảo trá", "kinh lường gạt"  "kinh sai sự thật" hay là "kinh ngụy biện v.v...". 

 

Những kinh điển Đại thừa đã nêu trên, theo chỗ học hỏi hiểu biết nông cạn của chúng tôi, đây là những bộ kinh lớn do sau khi đức Phật thành đạo nói ra. Không phải vì không thấy trong văn hệ Pali hay Sanskrit mà vội cho là các kinh đó Ngụy tạo. Thử hỏi các nhà học giả Tây phương có phải họ là những bậc chứng Thánh hết chưa? Hay họ cũng chỉ là những nhà nghiên cứu mò mẫm dò dẫm dựa vào thế trí biện thông hay một vài chứng tích nào đó mà cho rằng, đó là những kinh điển Ngụy tạo sau thời Phật. Tệ hơn nữa, là trong giới Tăng sĩ, có những người đã từng ăn cơm của Đàn na tín thí, tu học theo các kinh điển Đại thừa mà được trưởng thành trong Phật giáo lại biểu đồng tình với một số các học giả Tây phương rồi phán quyết một câu "xanh rờn" là: "các kinh điển Đại thừa đều do mấy ông tổ Trung Hoa Ngụy tạo". Đây là những vị có học vị văn bằng cao, nghiên cứu sâu rộng, lẽ ra nên sử dụng sở học của mình mà tìm cách phủ bác và làm sáng tỏ vấn đề để cho một số học giả Tây phương thấy rằng, "kinh điển Đại thừa không phải là những kinh điển "Bịa đặt" như các ông đã ngộ nhận lầm tưởng". Như thế, mới xứng đáng là chúng trung tôn của Đấng Điều Ngự, là đầu tàu của lịch sử, là trưởng nam của lịch sử truyền thừa, là tồi tà phụ chánh. Thế nhưng, điều đáng tiếc và đáng nói ở đây thì trái ngược lại.

 

Sao quý ngài không noi theo tấm gương của Hòa thượng Tuyên Hóa, là một bậc cao tăng cận đại đã lớn tiếng khẳng quyết rằng: "Có một số tự cho mình là học giả có hạng, chưa hề nghiên cứu sâu rộng về Đạo Phật, đã tự nhận mình là chuyên gia Phật học, tự nhận mình có đủ uy tín mà sự thực không hiểu Phật giáo cho đến ngành ngọn, khinh suất cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là một kinh ngụy tạo. Từ đó, lại có một số, có dụng ý khác ùa theo phụ họa. Đúng là kẻ mù dắt kẻ mù, thật đáng thương xót!"

 

Chúng tôi chỉ trích dẫn một đoạn ngắn nói về "Kinh Lăng Nghiêm Là Kinh Ngụy Tạo Chăng" của cố Hòa thượng Tuyên Hóa để chúng ta thấy rõ việc nghiên cứu của một số người Tây phương tự nhận mình là học giả rồi muốn nói sao cũng được.

 

Cần nói rõ thêm, có những quyển kinh không phải do chính kim khẩu đức Phật nói ra, mà do các đệ tử của Ngài trình bày thuật lại. Điển hình như Kinh Duy Ma Cật chẳng hạn. Kinh nầy hoàn toàn không phải Phật nói. Thế nhưng, phải được sự xác chứng của Phật. Đó là nói khi Phật còn tại thế. Sau khi Phật nhập diệt, đời sau, cũng có một vài quyển kinh do các vị tổ sư chứng đạo nói ra. Điển hình như Kinh Pháp Bảo Đàn là do đức Lục Tổ Huệ Năng thuyết giảng. Đúng ra, không được gọi là kinh mà chỉ có thể gọi là Ngữ lục. Nghĩa là ghi chép lại những gì Tổ nói. Nhưng ở đây sở dĩ được gọi là kinh, lý do là vì nội dung xứng hợp với chân lý giống như lời Phật dạy, nên được mọi người trân kính tôn xưng là kinh.

 

Kinh nói cho đủ phải nói là khế kinh. Chữ khế nghĩa là xứng hợp, phải đủ hai nghĩa:  khế lý và khế cơ. Khế lý là hợp với chân lý muôn đời bất di bất dịch. Khế cơ là hợp với mọi trình độ căn cơ và mỗi thời đại. Nghĩa là phải phù hợp với trào lưu tư tưởng của nhơn loại trải qua mỗi thời đại. Nếu thiếu một trong hai nghĩa nói trên thì không thể gọi là kinh. Thế thì, bất luận kinh nào mà xứng hợp với hai nghĩa nói trên đều cũng có thể gọi là kinh cả. Nói xứng hợp với chân lý, thì không ngoài: "Tam pháp ấn, Tứ pháp ấn và Nhất thật tướng ấn". Tam pháp ấn: "Chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, niết bàn tịch tịnh". Tứ pháp ấn: "Khổ, không, vô thường, vô ngã". "Nhất thật tướng ấn là một thực thể bất sinh bất diệt vượt ngoài đối đãi nhị nguyên". Bất luận kinh nào cũng không ngoài những chân lý đó. Nếu ra ngoài những tiêu chuẩn chân lý nêu trên thì không thể gọi là kinh Phật được. Thế thì, muốn biết kinh nào ngụy tạo hay không ngụy tạo thì thiết nghĩ, chúng ta cũng phải dựa vào những tiêu chuẩn đó để mà xác định. Dựa vào khế cơ, mà các bậc tổ sư ngộ đạo, chứng đạt chân lý, những vị đó cũng có thể sáng tác cho phù hợp với căn cơ thời đại, nhưng vẫn không lệch ngoài khế lý. Thế thì có gọi là kinh cũng chẳng có sao. Nói ngụy tạo là kinh đó hoàn toàn không xứng hợp với khế lý và khế cơ, Đó phải nói là những quyển kinh của ngoại đạo, tuy nội dung họ có nêu ra những danh hiệu Phật hay Bồ tát, chẳng qua là với hình thức giả dối lộng giả thành chơn, tráo trở đánh lận con đen đó thôi.

 

Nói tóm lại, không phải vì các kinh điển không hệ thuộc vào văn bản Pali hay Sanskrit mà kết luận cho rằng đó là những kinh điển ngụy tạo. Những ai tuyên truyền bài bác các kinh điển Đại thừa như thế, nói theo Hòa Tuyên Hóa thì, đó chỉ là những người mù dắt dẫn những người mù đi trong đêm tối vô minh mà thôi. Và cũng xin ai đó chớ có ùa theo mà bôi bác kinh điển Đại thừa để phải mang tội nặng là phỉ báng kinh vậy.

 

98. Bốn loại Thanh Văn

 

Hỏi: Kính bạch thầy, đọc trong kinh thấy có nêu ra bốn loại Thanh Văn, nhưng con chưa hiểu bốn loại Thanh văn gồm những loại Thanh Văn nào? Kính mong thầy giải thích cho con hiểu.

 

Đáp: Theo Luận Pháp Hoa, hạ, Luận Du Già Sư Địa 80, Thanh Văn có 4 loại:

 

1. Thuyết Định Thanh Văn (còn gọi: Nhất Hướng Thú Tịch Thanh Văn, Chủng Tánh Thanh Văn): Những vị nầy tu học theo pháp Tiểu thừa và nhờ nghe pháp Tiểu thừa mà được chứng quả, sau khi chứng Tiểu quả thì không còn tiến lên cầu pháp Đại thừa. Đó là vì còn chấp vào quả vị chứng đắc ( Niết bàn ) nên họ không thể hướng đến Đại thừa.

 

2. Thoái Bồ đề Thanh Văn (còn gọi là Hồi Hướng Bồ đề Thanh Văn)

Những vị Thanh Văn nầy vốn là Bồ tát, từng phát tâm bồ đề nhiều kiếp tu tập, chợt do chán mỏi sanh tử, thoái thất tâm đại đạo mà chứng Tiểu quả.

 

3. Ứng Hóa Thanh Văn (còn gọi Biến Hóa Thanh Văn): Các vị Thanh Văn nầy vốn là chư Phật, Bồ tát, trong ẩn hạnh chơn thật, ngoài hiện thân Thanh Văn có khả năng dẫn dắt hai loại Thanh Văn nói trên trở về Đại thừa và hóa độ tất cả chúng sanh được vào Phật đạo.

 

4. Tăng Thượng Mạn Thanh Văn: Những vị tự xưng mình đã được pháp tăng thượng, khinh mạn chê bai người khác, loại Thanh Văn nầy chán ghét sanh tử , ưa thích niết bàn, nhờ tu tập giới, định, huệ hơi có sở đắc liền cho là chứng quả, đó là hạng người chưa được mà nói đã được, chưa chứng mà nói đã chứng, nên gọi là Tăng Thượng Mạn Thanh Văn.

 

99. Bốn thứ đồ vật của chúng tăng.

 

Hỏi:  Kính thưa thầy, con có đọc một đoạn văn kinh, trong đó có nói đến bốn thứ đồ vật ở trong chùa mà chúng tăng thường dùng. Tuy nhiên, đoạn kinh đó không có giải thích nên con không hiểu bốn thứ đó như thế nào? Vậy xin thầy hoan hỷ giải thích cho chúng con được rõ. Kính cám ơn thầy.

 

Đáp: Tứ chúng tăng vật, còn gọi là Tứ chủng thường trụ. Theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang trang 7104 giải thích như sau:

 

Bốn loại tăng vật được phân biệt theo tính chất thường trụ hoặc hiện tiền của chúng.

 

1. Thường trụ thường trụ vật: Chỉ cho bếp kho, tư xá, các vật, hoa trái, cây cối ruộng vườn ... mà đại chúng dùng chung. Thể của các vật nầy là chung cho chư tăng mười phương, không thể chia dùng nếu thuộc về thường trụ vật.

 

2. Thập phương thường trụ vật: Chỉ cho những vật như cơm bánh... thường cúng dường cho đại chúng. Thể của các vật nầy là chung cho chư tăng mười phương, nhưng chỉ có chư tăng ở bản xứ được thọ dụng.

 

3. Hiện tiền hiện tiền vật: Vật riêng của các Tỳ kheo, như y phục, thuốc men là vật hiện tiền của hiện tiền tăng.

 

4. Thập phương hiện tiền vật: Như kinh sách đồ vật của vị tăng qua đời để lại được chia cho mười phương tăng, là vật sở thuộc của các Tỳ kheo hiện tiền khi chia nên gọi là thập phương hiện tiền vật.

 

100. Tứ chủng vãng sanh

 

Hỏi: Kính bạch thầy, con nghe nói có bốn loại vãng sanh, nhưng con không biết bốn loại vãng sanh đó như thế nào? Kính mong thầy hoan hỷ giải thích cho con rõ.

 

Đáp:  Theo Tây Phương chỉ Nam Sao, hạ, phần cuối nói về niệm Phật đắc thất nghĩa có nêu ra bốn loại vãng sanh như sau:

 

1. Noi theo tướng trạng vãng sanh Tịnh độ Di Đà thì có thể chia làm 4 thứ là:

 

a. Chánh niệm vãng sanh: Người nầy lúc bình thường niệm Phật, lúc lâm chung cũng giữ chánh niệm mà vãng sanh.

 

b. Cuồng loạn vãng sanh: Người một đời tạo tác ác nghiệp, lúc lâm chung bị lửa mạnh ở địa ngục đến đốt cháy mà cuồng loạn, nhưng nhờ sự chỉ dạy của thiện tri thức nên trong lúc cuồng loạn niệm Phật được 1 tiếng hay 10 tiếng liền được vãng sanh về Tịnh độ Cực lạc.

 

c. Vô ký vãng sanh: Người nầy lúc bình sanh đã phát tín tâm quy mạng, lúc lâm chung tuy do tâm thần suy nhược mà trở thành vô ký (chẳng phải thiện, chẳng phải ác) nên không thể niệm Phật, nhưng do nghiệp nhân niệm Phật ở quá khứ cũng được vãng sanh.

 

d. Ý niệm vãng sanh: Khi hành giả lâm chung, tuy không niệm Phật ra tiếng nhưng trong tâm niệm Phật A Di Đà cũng được vãng sanh.

 

2. Y cứ vào hạnh khẩu xưng niệm Phật lúc bình sanh, phẩm loại quyết định vãng sanh được chia làm 4 thứ là: Tha lực niệm Phật vãng sanh, Chân thật niệm Phật vãng sanh, Chánh kiến niệm Phật vãng sanh và Trực tâm niệm Phật vãng sanh, hành giả thực hành bốn thứ nầy thì nhất định vãng sanh. Trái lại, hành giả tự lực niệm Phật, giả danh niệm Phật, ác kiến niệm Phật, mạn tâm niệm Phật, thì không chắc chắn vãng sanh (Từ Điển Phật Học Huệ Quang, trang 7116)

***

Chân thành cảm tạ Thầy Phước Thái & Thầy Phước Viên đã gởi tặng Trang Nhà Quảng Đức phiên bản điện tử tập sách này (T.Nguyên Tạng, 1-7-2015)


Kính mời xem bài cùng tác giả

 


Thich_Phuoc_Thai

Ý kiến bạn đọc
10/11/201503:08
Khách
xin hỏi : câu 52 ?!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com