Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển Thứ 517. Phẩm Không Tướng: thứ 21-3. Phẩm Căng Già Thiên: thứ 22. Phẩm Xảo Tiện: thứ 23-1

25/04/201311:31(Xem: 18298)
Quyển Thứ 517. Phẩm Không Tướng: thứ 21-3. Phẩm Căng Già Thiên: thứ 22. Phẩm Xảo Tiện: thứ 23-1

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 21

Quyển Thứ 517
Phẩm Không Tướng: thứ 21-3
Phẩm Căng Già Thiên: thứ 22
Phẩm Xảo Tiện: thứ 23-1

Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy các hữu tình bởi ác nghiệp chướng, chỗ ở đất liền cao thấp chẳng bằng, gò đồi mưong hào hầm hố, cỏ uế cây trụi, gai độc gai táo, bất tịnh đầy rẫy. Thấy việc đây rồi, khởi suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các lọai hữu tình khiến dứt trừ hẳn các ác nghiệp chướng, với chỗ nương ở đất đai bằng thẳng như lòng bàn tay, không có những việc các cỏ uế cây trụi thảy. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa , thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta được không có các nghiệp tạp uế cảm thành đất liền như thế. Chỗ ở hữu tình nơi chỗ bằng phẳng, vườn rừng ao hồ các hoa thơm mầu nhiệm lẫn lộn trang nghiêm rất nên ưa thích. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy các hữu tình vì phước đức mỏng, nên chỗ ở đất liền không các ngọc báu, chỉ có nhiều thứ đất đá ngói sỏi. Thấy việc này rồi, khởi suy nghĩ đây: Ta phải làm sao cứu vớt các loại hữu tình tội nhiều phước ít như thế, khiến nơi chỗ ở thịnh nhiều ngọc quí. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta được các loại hữu tình không có tội nhiều phước ít như thế, cát vàng rải đất, nơi nơi đều có ngọc phệ lưu ly thảy, nhiều ngọc diệu trân kỳ quí lạ, mặc dù hằng thọ dụng mà không nhiễm đắm. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát này tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy các hữu tình thu nhận lắm nhiều rất sanh yêu đắm, phát khởi các thứ nghiệp ác bất thiện. Thấy việc này rồi, khởi suy nghĩ đây: Ta phải làm sao cứu vớt các loại hữu tình lắm nhiều thu nhận rất sanh yêu đắm như thế, khiến nó lìa hẳn thu nhận yêu đắm và phát khởi những nghiệp bất thiện. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta được các loại hữu tình không thu nhận lắm nhiều rất sanh yêu đắm gây các ác nghiệp bất thiện như thế, tất cả hữu tình đối sắc thanh thảy, không sở thu nhận, đối các của cải chẳng sanh yêu đắm. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy các hữu tình có bốn sắc loại sang hèn sai khác là vua chúa cho đến cày ruộng. Thấy việc này rồi, khởi suy nghĩ đây: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các loại hữu tình khiến không sang hèn sai khác như thế. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta được không có bốn thứ sắc loại sang hèn sai khác như thế, tất cả hữu tình đồng một sắc loại, thảy đều tôn quí, nhiếp thuộc nhân thú. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa mau được viên mãn gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy các hữu tình gia tộc có thượng trung hạ sai khác. Thấy việc này rồi, khởi suy nghĩ

đây: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các loại hữu tình khiến gia tộc không phẩm thượng trung hạ sai khác như thế. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta được gia tộc không phẩm thượng trung hạ sai khác như thế, tất cả hữu tình đều đồng thượng phẩm. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa thấy các hữu tình hình sắc xinh đẹp xấu xí sai khác. Thấy việc này rồi, khởi suy nghĩ đây: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các loại hữu tình không hình sắc xinh đẹp xấu xí sai khác như thế. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều kuyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta được các loại hữu tình không có hình sắc xinh đẹp xấu xí sai khác như thế, tất cả hữu tình đều sắc chơn kim, đoan nghiêm đẹp lạ, chúng ưa xem thấy, trọn nên tối thắng viên mãn tịnh sắc. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy các hữu tình bị hệ thuộc chúa tể, ra làm việc gì chẳng được tự tại. Thấy việc đây rồi, khởi suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các loại hữu tình khiến được tự tại. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau chứng được nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta các loại hữu tình được không có chúa tể. Những việc ra làm đều được tự tại, cho đến chẳng thấy hình tượng chúa tể, cũng chẳng nghe danh tự chúa tể. Chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đem pháp thống nhiếp gọi là Pháp Vương. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Bát nhã Ba la mật đa, thấy các hữu tình có các thú địa ngục thảy sai khác. Thấy việc đây rồi, khởi suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các loại hữu tình khiến không các thú thiện ác sai khác. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta được không các thú thiện ác sai khác, cho đến không có danh các ác thú. Tất cả hữu tình đều đồng một loại, bình đẳng tu một nghiệp là đều hòa hiệp tu hành bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa. An trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. An trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. An trụ khổ tập diệt đạo thánh đế.

Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu hành các bậc Bồ tát Ma ha tát. Tu hành đà la ni môn, tam ma địa môn. Tu hành năm nhãn, sáu thần thông.

Tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Tu hành nhân các tướng, tùy hảo. Tu hành pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Tu hành nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Tu hành các hạnh Bồ tát Ma ha tát và chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy các hữu tình bốn sanh sai khác. Thấy việc đây rồi, khởi suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các loại hữu tình khiến không bốn sanh sai khác như thế. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta được không bốn sai khác như thế, các loại hữu tình đồng thọ hóa sanh. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy các hữu tình không năm thông huệ, ra làm việc gì chẳng được tự tại. Thấy việc đây rồi, khởi suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các loại hữu tình đều khiến chứng được năm thần thông huệ. Đã duy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta các loại hữu tình đều đủ trọn nên năm thắng thần thông. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy các hữu tình thọ dụng đoạn thực, thân có các thứ đại tiểu tiện lợi, mủ máu hôi uế rất nên chán bỏ. Thấy việc đây rồi, khởi suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các loại hữu tình khiến trong thân nó không uế ác. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta các loại hữu tình chỉ đồng thọ dụng diệu pháp hỷ thực, nơi thân thơm sạch, không các tiện uế. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy các hữu tình thiếu thốn thân quang, ra làm việc gì cần nhờ đèn đuốc. Thấy việc đây rồi, khởi suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các loại hữu tình khiến lìa thân thiếu ánh sáng như thế. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta các loại hữu tình thân đủ ánh sáng, chẳng nhờ ngoài soi. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy các hữu tình đất chỗ ở có ngày có đêm, có tháng nửa tháng, thời tiết số năm chuyển biến chẳng thường. Thấy việc ấy rồi, khởi suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các loại hữu tình khiến nơi chỗ ở không ngày đêm thảy thời tiết biến đổi. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta được không ngày đêm tháng nửa tháng thảy thời tiết và danh. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy các hữu tình thọ lượng ngắn ngủi. Thấy việc ấy rồi, khởi suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các loại hữu tình khiến lìa thọ lượng ngắn ngủi như thế. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta các loại hữu tình thọ lượng lâu dài, kiếp số khó biết. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy các hữu tình thân không tướng hảo. Thấy việc ấy rồi, khởi suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các loại hữu tình khiến được tướng hảo. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta, các loại hữu tình đủ ba mươi hai tướng Đại sĩ phu, tám mươi tùy hảo trang nghiêm, hữu tình thấy được sanh vui mừng thanh tịnh thù thắng. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy các loại hữu tình thiếu các căn lành. Thấy việc ấy rồi, khởi suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các loại hữu tình khiến đủ căn lành. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta các loại hữu tình tất cả trọn nên căn lành tịnh thắng. Nhờ căn lành đây năng sắm được các thứ đồ cúng thượng diệu cúng dường chư Phật. Nhờ phước lực đây, tùy sanh chỗ nào lại hay năng cúng dường chư Phật Thế Tôn. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy các hữu tình thân tâm đủ bệnh. Thân bệnh có bốn là gió nóng đàm và các tạp bệnh. Tâm bệnh cũng bốn là tham sân si và mạn thảy bệnh. Thấy việc ấy rồi, khởi suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các loại hữu tình thân tâm bệnh khổ. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta được các loại hữu tình thân tâm không bệnh khổ như thế, cho đến không có danh bệnh thân tâm. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật, thấy các hữu tình, nhiều thứ ý muốn Tam thừa sai khác. Thấy việc ấy rồi, khởi suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các loại hữu tình ý muốn hẹp yếu, khiến nó nới bỏ ý muốn Nhị thừa, chỉ khiến hướng tới Vô thượng Đại thừa. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta các loại hữu tình duy cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, chẳng muốn quả Thanh văn, Độc giác thừa cho đến không có danh Nhị thừa. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy các hữu tình ôm tăng thượng màn chưa xả bảo đã xả, chưa đắc bảo đã đắc. Thấy việc ấy rồi, khởi suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các loại hữu tình khiến nó mở bỏ gút tăng thượng mạn. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta được không kẻ tăng thượng mạn như thế, tất cả hữu tình như thật biết thấy điều xả điều đắc. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy các hữu tình nhiều sanh chấp trước, là chấp trước sắc uẩn, chấp trước thọ tưởng hành thức uẩn. Nói rộng cho đến chấp trước hạnh Bồ tát Ma ha tát, chấp trước Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thấy việc ấy rồi, khởi suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt các loại hữu tình khiến lìa chấp trước. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Trong cõi Phật ta các loại hữu tình không các thứ chấp trước như thế thảy. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thọ lượng quang minh, số chúng đệ tử đều có hữu hạn. Thấy việc ấy rồi, khởi suy nghĩ này: Ta phải làm sao được thọ lượng quang minh, số chúng đệ tử đều không hữu hạn. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Khi ta sở hữu thọ lượng quang minh, số chúng đệ tử đều không hữu hạn. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cõi chỗ ở chu viên hữu lượng. Thấy việc ấy rồi, khởi suy nghĩ này: Ta phải làm sao được cõi chỗ ở chu viên vô lượng, yên ổn giàu vui. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Cõi nước mười phương đều như cát Căng già hiệp làm một cõi, yên ổn giàu vui, ta ở trong đó thuyết pháp giáo hóa vô lượng vô số vô biên hữu tình. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu thứ Ba la mật đa, thấy ngằn sanh tử trước sau lâu xa, các cõi hữu tình số ấy vô biên. Thấy việc ấy rồi, khởi suy nghĩ này: Ngằn mé sanh tử và cõi hữu tình đều như hư không chân thật trôi lăn sanh tử và giải thoát ấy, mà các hữu tình hư vọng chấp đắm, lộn quanh sanh tử chịu khổ vô cùng. Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt. Đã suy nghĩ rồi, khởi lời nguyện này: Ta phải tinh siêng không điều luyến đoái, tu hành sáu thứ Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, mau năng chứng được Nhất thiết trí trí, vì các hữu tình thuyết pháp vi diệu đều khiến giải thoát sanh tử đại khổ, cũng khiến chứng biết sanh tử giải thoát đều vô sở hữu, trọn rốt ráo không. Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này nhờ sáu thứ Ba la mật đa đây mau được viên mãn, gần năng chứng được Nhất thiết trí.

Hội Thứ Ba
PHẨM CĂNG GIÀ THIÊN THỨ 22

Bấy giờ, trong hội có một vị Thiên nữ tên Căng Già Thiên, từ tòa đứng dậy, đầu lễ chân Phật, vai tả lệch che, gối hữu chấm đất chấp tay hướng lên Phật thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Tôi viên mãn được bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa và năng nhiếp thọ như nay Thế Tôn vì các đại chúng đã thuyết cõi Phật. Khi Căng Già Thiên nói lời đây rồi liền lấy các thứ hoa vàng hoa bạc, hoa sanh nước đất, các đồ trang nghiêm và cầm một cặp áo thiên y sắc vàng, cung kính chí thành dâng rải lên Phật. Vì thần lực Phật vọt lên không trung, xoay quanh bên hữu ở trên đỉnh Phật, biến thành bảo đài bốn trụ bốn góc thêu dệt trang nghiêm rất nên ưa thích. Nơi đây Thiên nữ cầm bảo đài đây cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Bấy giờ, Như Lai biết ý chí sâu xa Thiên nữ kia liền bèn mỉm cười. Lẽ thường chư Phật nếu khi mỉm cười, các thứ sắc quang từ diện môn phóng ra, Phật nay cũng vậy, từ nơi diện môn bay ra các thứ sắc quang xanh vàng đỏ trắng hồng tía bích lục khắp soi thế giới chư Phật mười phương vô lượng vô biên. Rồi quay về lại cõi đây hiện thần biến lớn vào trên đỉnh Phật.

Bấy giờ, A Nan Đà thấy nghe việc ấy rồi, từ tòa đứng dậy đảnh lễ chân Phật, vai tả lệch che, gối hữu chấm đất, chấp tay hướng Phật thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Nhân nào duyên gì hiện mỉm cười ấy? Phật hiện mỉm cười chẳng phải không nhân duyên!

Bấy giờ, Phật bảo Khánh Hỷ rằng: Nay Thiên nữ đây ở đời vị lai sẽ thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nói rộng cho đến Phật Thế Tôn, kiếp tên Tinh Dụ, Phật hiệu Tinh Hoa. Khánh Hỷ phải biết: Nay Thiên nữ đây tức là đã thọ nữ thân cuối cùng. Xả thân đây rồi, chuyển thọ nam thân, tận đời vị lai chẳng làm nữ nữa. Từ đây chết rồi sanh ở trong thế giới Phật Bất Động Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác rất nên ưa muốn. Ở chỗ Phật kia siêng tu phạm hạnh. Nữ nay cõi kia tên chữ Kim Hoa, tu các hạnh Bồ tát Ma ha tát. Khánh Hỷ phải biết: Kim Hoa Bồ tát từ thế giới Phật Bất Động chết rồi sanh đi phương khác, từ một nước Phật tới một nước Phật, chỗ sanh đời đời thường chẳng lìa Phật, như vua Chuyển Luân từ một bảo điện ngự tới bảo điện, hưởng thọ vui khoái, cho đến mạng chung chân chẳng bén đất. Bồ tát Kim Hoa cũng lại như thế, từ một cõi Phật qua một cõi Phật, cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, sanh đời chỗ nào thường thấy chư Phật, hằng nghe chánh pháp, tu hạnh Bồ tát.

Khi ấy, A Nan Đà thầm khởi nghĩ này: Kim Hoa Bồ tát khi sẽ làm Phật cũng nên tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, hội kia chúng Bồ tát Ma ha tát số ấy nhiều ít lẽ như chúng hội Bồ tát Phật nay.

Phật biết kia nghĩ, bảo Khánh Hỷ rằng: Như vậy, như vậy. Như người đã nghĩ. Kim Hoa Bồ tát khi sẽ làm Phật cũng vì chúng hội tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế. Hội kia chúng Bồ tát Ma ha tát số ấy nhiều ít cũng như chúng hội Bồ tát Phật nay.

Khánh Hỷ phải biết: Kim Hoa Bồ tát khi sẽ làm Phật, đệ tử xuất gia số ấy rất nhiều, chẳng thể xưng tính được, nghĩa là chẳng thể đếm hoặc trăm hoặc ngàn hoặc trăm ức thảy được. Chỉ có thể nói tổng vô lượng vô biên.

Khánh Hỷ phải biết: Kim Hoa Bồ tát khi sẽ làm Phật, cõi ấy không có các thứ tội lỗi như trong kinh Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đây mà Ta đã tuyên nói.

Bấy giờ, Khánh Hỷ lại thưa Phật rằng: Nay Thiên nữ đây trước đối Phật nào đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, trồng các căn lành, hồi hướng phát nguyện, nay được gặp Phật cúng dường cung kính bèn được nhận nơi ký Bất thối chuyển?

Khánh Hỷ phải biết: Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng quá khứ, đem năm cọng hoa dâng rải Phật kia hồi hướng phát nguyện. Nhiên Đăng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết căn Ta chín, trao ký cho Ta: Ngươi ở sau sẽ được làm Phật hiệu là Năng Tịch, cõi tên Kham Nhẫn, kiếp hiệu là Hiền. Thiên nữ bấy giờ nghe Phật trao ký Đại Bồ đề cho Ta vui mừng nhảy nhót, liền đem kim hoa dâng rải lên Phật, bèn phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, trồng các căn lành, hồi hướng phát nguyện rằng: "Khiến tôi đời sau đối Bồ tát đây khi sẽ làm Phật, cũng như Phật nay hiện tiền trao cho tôi ký Đại Bồ đề". Nên Ta ngày nay trao ký cho kia.

Phật bảo Khánh Hỷ! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói, kia căn lành chín Ta trao ký cho.



Hội Thứ Ba

PHẨM XẢO TIỆN

THỨ 23 - 1

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, làm sao tập không, vô tướng, vô nguyện tam ma địa? Làm sao vào không, vô tướng, vô nguyện tam ma địa? Làm sao tập bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi? Làm sao tu bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi? Làm sao tập các Bồ đề phần pháp khác? Làm sao tu các Bồ đề phần pháp khác?

Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, nên quán sắc uẩn cho đến thức uẩn không. Nên quán nhãn xứ cho đến ý xứ không. Nên quán sắc xứ cho đến pháp xứ không. Nên quán nhãn giới cho đến ý giới không. Nên quán sắc giới cho đến pháp giới không. Nên quán nhãn thức giới cho đến ý thức giới không. Nên quán nhãn xúc cho đến ý xúc không. Nên quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không.

Nên quán địa giới cho đến thức giới không. Nên quán nhân duyên cho đến tăng thượng duyên không. Nên quán vô minh cho đến lão tử không. Nên quán bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa không.

Nên quán nội không cho đến vô tánh tự tánh không không. Nên quán chơn như cho đến bất tư nghì giới không. Nên quán khổ tập diệt đạo thánh đế không.

Nên quán bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi không. Nên quán bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định không. Nên quán tám giải thoát cho đến mười biến xứ không. Nên quán không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn không.

Nên quán Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa không. Nên quán Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa không. Nên quán tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn không. Nên quán năm nhãn, sáu thần thông không.

Nên quán Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không. Nên quán đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả không. Nên quán ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hảo không. Nên quán pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả không. Nên quán nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí không.

Nên quán quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề không. Nên quán tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát, chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề không.

Nên quán pháp hữu lậu vô lậu không. Nên quán pháp thế gian xuất thế gian không. Nên quán pháp hữu vi vô vi không. Nên quán pháp quá khứ vị lai hiện tại không. Nên quán pháp thiện bất thiện vô ký không. Nên quán pháp cõi Dục cõi Sắc cõi Vô sắc không.

Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này khi tu quán đây chẳng cho tâm loạn. Nếu tâm chẳng loạn thời chẳng thấy pháp. Nếu chẳng thấy pháp thời chẳng tác chứng. Sở dĩ vì sao? Bồ tát Ma ha tát này khéo học các pháp tự tướng đều không. Không pháp khá tăng không pháp khá giảm, nên đối các pháp chẳng thấy chẳng chứng. Vì cớ sao? Vì đối trong thắng nghĩa đế tất cả pháp năng chứng, sở chứng, xứ chứng, thời chứng và do đây chứng, hoặc tổng hoặc biệt đều bất khả đắc, vì chẳng thể thấy vậy.

Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Như Thế Tôn nói, các Bồ tát Ma ha tát nên quán pháp không mà chẳng tác chứng, Bồ tát Ma ha tát làm sao nên quán pháp không mà chẳng tác chứng?

Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi quán pháp không, trước khởi nghĩ này: Ta nên quán pháp các tướng đều không, chẳng nên tác chứng. Ta vì học nên quán các pháp không, chẳng vì chứng nên quán các pháp không, nay là thời học, chẳng phải thời chứng. Bồ tát Ma ha tát này khi chưa vào định buộc tâm nơi cảnh. Bồ tát Ma ha tát này đối khi như thế chẳng lui tất cả phần pháp Bồ đề, chẳng chứng lậu tận. Sở dĩ vì sao? Bồ tát Ma ha tát này trọn nên trí huệ rộng lớn như thế khéo trụ pháp không, và tát cả phần pháp Bồ đề, hằng khởi nghĩ này: Thời nay nên học chẳng nên tác chứng. Bồ tát Ma ha tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm thường khởi nghĩ này: Ta đối bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa thời nay nên học chẳng nên tác chứng. Ta đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không thời nay nên học chẳng nên tác chứng. Ta đối chơn như cho đến bất tư nghì giới thời nay nên học chẳng nên tác chứng. Ta đối khổ tập diệt đạo thánh đế thời nay nên học chẳng nên tác chứng.

Ta đối bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi thời nay nên học chẳng nên tác chứng. Ta đối bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định thời nay nên học chẳng nên tác chứng. Ta đối tám giải thoát cho đến mười biến xứ thời nay nên học chẳng nên tác chứng. Ta đối không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn thời nay nên học chẳng nên tác chứng.

Ta đối Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa thời nay nên học chẳng nên tác chứng. Ta đối Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa thời nay nên học chẳng nên tác chứng. Ta đối tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn thời nay nên học chẳng nên tác chứng. Ta đối năm nhãn, sáu thần thông thời nay nên học chẳng nên tác chứng.

Ta đối Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng thời nay nên học chẳng nên tác chứng. Ta đối đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả thời nay nên học chẳng nên tác chứng. Ta đối pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả thời nay nên học chẳng nên tác chứng. Ta đối nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí thời nay nên học chẳng nên tác chứng. Ta đối tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát thời nay nên học chẳng nên tác chứng. Ta đối chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề thời nay nên học chẳng nên tác chứng. Ta nay vì học Nhất thiết trí trí nên học quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề, đều khiến khéo léo chẳng nên tác chứng.

Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm nên tập không, vô tướng, vô nguyện tam ma địa. Nên trụ không, vô tướng, vô nguyện tam ma địa. Nên tu không, vô tướng, vô nguyện tam ma địa, mà đối thật tế chẳng nên tác chứng.

Nên tập bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Nên trụ bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Nên tu bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi, mà đối thật tế chẳng nên tác chứng.

Nên tập các phần pháp Bồ dề khác. Nên trụ các phần pháp Bồ đề khác. Nên tu các phần pháp Bồ đề khác, mà đối thật tế chẳng nên tác chứng.

Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này tuy tập không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; cũng trụ không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; cũng tu không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn mà chẳng chứng quả Dự lưu cho đến chẳng chứng Độc giác Bồ đề.

Tuy tập bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi, cũng trụ bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi, cũng tu bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi, mà chẳng chứng quả Dự lưu cho đến chẳng chứng Độc giác Bồ đề.

Tuy tập các phần pháp Bồ đề khác, cũng trụ các phần pháp Bồ đề khác, cũng tu các phần pháp Bồ đề khác, mà chẳng chứng quả Dự lưu cho đến chẳng chứng Độc giác Bồ đề.

Bởi nhân duyên đây Bồ tát Ma ha tát này chẳng rơi Thanh văn và bậc Độc giác, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện phải biết: Ví như tráng sĩ hình vóc đoan nghiêm uy mãnh mạnh mẽ kẻ thấy vui mừng, đầy đủ thắng thế viên mãn, dòng họ trong sạch. Đối các binh pháp học đến rốt ráo, giỏi cầm khí giới gậy gộc, vững vàng chẳng lay, sáu mươi bốn tài năng, mười tám minh xứ, tất cả kỹ thuật không thứ nào chẳng tuyệt giỏi, được đông người ngưỡng mộ, thảy đều kính phục. Vì sự nghiệp giỏi, nên thi công thì ít mà thu lợi thì nhiều. Do đây các người cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen không lúc tạm bỏ. Kia với bấy giờ vui mừng hớn hở tăng bội, đối các dòng họ tự âm thầm mừng. Vì có nhân duyên nên phải đem cha mẹ vợ con dòng họ đi tới phương khác, giữa đường trải qua đồng nội hiểm nạn, trong ấy có nhiều ác thú giặc cướp oan gia ẩn núp những việc đáng sợ khá nhiều, bà con lớn nhỏ không ai chẳng kinh hoàng! Người ấy tự ỷ có nhiều tài giỏi, uy mãnh mạnh mẽ, thân ý thư thới, an ủi cha mẹ và các bà con rằng: Chớ có lo sợ, tất không khổ đâu! Người kia nơi ấy dùng tài năng giỏi đem các bà con đi đến chỗ yên ổn, đã khỏi nguy nan vui mừng sung sướng hưởng lạc. Nhưng tráng sĩ kia khi ở giữa đồng nội không có ý gia hại ác thú oán tặc. Sở dĩ vì sao? Vì tự ỷ uy mãnh đủ các tài nghệ không sợ gì vậy.

Thiện Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như thế, vì thương xót khổ sanh tử các loại hữu tình phát tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Duyên khắp hữu tình, khởi tâm trụ bốn vô lượng, cùng hành bốn vô lượng, siêng tu bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa khiến mau viên mãn. Bồ tát Ma ha tát này đối sáu thứ Ba la mật đa đây ngôi chưa viên mãn, vì muốn tu học Nhất thiết trí trí chẳng chứng lậu tận. Mặc dù trụ không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn nhưng chẳng theo thế lực kia mà chuyển, cũng chẳng bị chướng kia làm dắt cướp, đối môn giải thoát cùng chẳng tác chứng. Do chẳng chứng nên chẳng rơi Thanh văn và bậc Độc giác, tốc tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện phải biết: Như chim kim xí bay bổng hư không, tự tại quanh liệng lâu chẳng rơi rớt. tuy nương không bay giỡn mà chẳng chống không, cũng chẳng bị không làm câu ngại.

Thiện Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như thế, tuy đối không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hằng tập trụ tu, mà với trong ấy năng chẳng tác chứng. Do chẳng chứng nên chẳng rơi Thanh văn và bậc Độc giác. Tu Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng thảy vô lượng Phật pháp. Nếu chưa viên mãn, trọn chẳng nương không, vô tướng, vô nguyện mà chứng lậu tận.

Thiện Hiện phải biết: Ví như tráng phu thạo giỏi nghề bắn, muốn hiển tài mình bắn ngửa hư không. Muốn làm cho tên giữa không chẳng rơi đất, lại lấy tên sau bắn đuôi tên trước. Bắn mãi như thế qua đã nhiều thời tên tên nối nhau chẳng cho rơi xuống. Nếu muốn cho rơi, bèn thôi bắn tên sau, bấy giờ các tên mới rơi gấp xuống.

Thiện Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như thế, hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo đã nhiếp thọ, nên cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tu nhân căn lành chưa đều thành chín, quyết chẳng giữa đường chứng nơi thật tế. Nếu được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tu nhân căn lành tất cả thành chín, bấy giờ Bồ tát mới chứng thật tế, bèn được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Vậy nên, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đều nên quán sát kỹ chắc như thế, như trước đã nói thật tướng các pháp, tu các hạnh Bồ tát Ma ha tát mà tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Các Bồ tát Ma ha tát rất là hiếm có, năng làm việc khó. Tuy thường tu học thật tướng các pháp, tuy thường tu học chơn như, pháp giới, pháp tánh cho đến bất tư nghì giới; tuy thường tu học nội không cho đến vô tánh tự tánh không, tuy thường tu học khổ tập diệt đạo thánh đế, tuy thường tu học bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi, tuy thường tu học ba môn giải thoát và tất cả các phần pháp Bồ đề khác mà với giữa đường chẳng rơi Thanh văn và bậc Độc giác, chẳng lui mất Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề?

Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát đối các hữu tình thề chẳng nới bỏ. Nghĩa là khởi nguyện này: Nếu các hữu tình chưa được giải thoát sanh lão bệnh tử, ta quyết chẳng bỏ tu thêm căn lành.

Thiện Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát nguyện lực thù thắng thường khởi nghĩ này: Tất cả hữu tình nếu chưa giải thoát, ta quyết chẳng bỏ. Do bởi tâm rộng lớn như thế nên ở giữa đường kia tất chẳng lui rơi.

Thiện Hiện phải biết: Các Bồ tát Ma ha tát hằng khởi nghĩ này: Ta chẳng nên bỏ tất cả hữu tình quyết làm cho giải thoát. Nhưng các hữu tình hành pháp bất chính, ta vì độ kia nên hằng dẫn phát vắng lặng không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, tuy hằng dẫn phát mà chẳng lấy chứng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát đối chỗ sâu thẳm thường muốn quán sát là muốn quán sát nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, rốt ráo không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.

Cũng muốn quán sát bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, và không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn thảy đều tự tướng không.

Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này làm quán đây rồi, khởi nghĩ như vầy: Các loại hữu tình bởi sức bạn ác khởi tưởng chấp ngã, nói rộng cho đến tướng chấp kiến giả. Do tưởng chấp đây hành hữu sở đắc, trôi lăn sanh tử, chịu các thứ khổ. Vì dứt hữu tình tưởng chấp như thế, nên tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, vì các hữu tình nói pháp thẳm sâu mầu nhiệm, khiến dứt tướng chấp, lìa khổ sanh tử.

Bồ tát Ma ha tát này bấy giờ tuy học ba môn giải thoát mà chẳng nương đây chứng nơi thật tế. Vì đối thật tế chẳng chứng lấy nên chẳng rơi quả Dự lưu, Nhất Lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Bồ tát Ma ha tát này do nghĩ như thế, hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm trọn nên căn lành chẳng chứng thật tế.

Tuy đối thật tế chưa liền tác chứng mà chẳng lui mất bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Cũng chẳng lui mất bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Cũng chẳng lui mất không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Cũng chẳng lui mất tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Cũng chẳng lui mất nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Cũng chẳng lui mất chơn như cho đến bất tư nghì giới. Cũng chẳng lui mất khổ tập diệt đạo thánh đế.

Cũng chẳng lui mất bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa. Cũng chẳng lui mất các bậc Bồ tát. Cũng chẳng lui mất đà la ni môn, tam ma địa môn. Cũng chẳng lui mất năm nhãn, sáu thần thông. Cũng chẳng lui mất Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng chẳng lui mất đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Cũng chẳng lui mất nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Cũng chẳng lui mất các Phật pháp khác vô lượng vô biên.

Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này bấy giờ trọn nên tất cả phần pháp Bồ đề, cho đến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, đối các công đức ấy trọn chẳng suy giảm. Bồ tát Ma ha tát này hành Bát nhà Ba la mật đa sâu thẳm, phương tiện khéo léo được nhiếp thọ nên mỗi sát na sát na bạch pháp tăng trưởng, các căn bén sướt, tất cả Thanh văn và Độc giác thảy chỗ chẳng năng kịp được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát hằng khởi nghĩ này: Các loại hữu tình ở trong đêm dài, nơi tâm thường hành bốn thứ trái ngược là: Thường tưởng ngược tâm ngược thấy ngược, hoặc lạc tưởng ngược tâm ngược, thấy ngược, hoặc ngã tưởng ngược tâm ngược, thấy ngược, hoặc ngã tưởng ngược tâm ngược thấy ngược, hoặc tịnh tưởng ngược tâm ngược thấy ngược. Ta vì các hữu tình như thế nên cầu tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, tu các hạnh Bồ tát Ma ha tát khi chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, vì các hữu tình thuyết pháp không trái ngược là thuyết sanh tử vô thường vô lạc vô ngã vô tịnh, chỉ có Niết bàn vắng lặng nhiệm mầu, đầy đủ các thứ công đức chơn thật Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này trọn nên nghĩ đây hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo được nhiếp thọ vậy. Nếu chưa viên mãn Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng và các Phật pháp khác vô lượng vô biên, trọn chẳng chứng vào thắng định chư Phật.

Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này bấy giờ mặc dù học ba môn giải thoát vào ra tự tại mà đối thực tế chưa liền tác chứng, cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, nhân hành công đức chưa khéo viên mãn chẳng chứng thật tế và các công đức khác. Nếu khi được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề mới có thể chứng được.

Thiện Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này bấy giờ tuy đối các công đức khác tu chưa viên mãn mà đối môn vô nguyện tam ma địa tu đã viên mãn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com