Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển Thứ 331: Hội thứ nhất Phẩm Nguyện Hạnh thứ 51. Hội thứ nhất Phẩm Căng Già Thiên thứ 52. Hội thứ nhất Phẩm Khéo Học thứ 53-1

18/04/201311:28(Xem: 16570)
Quyển Thứ 331: Hội thứ nhất Phẩm Nguyện Hạnh thứ 51. Hội thứ nhất Phẩm Căng Già Thiên thứ 52. Hội thứ nhất Phẩm Khéo Học thứ 53-1

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 14

Quyển Thứ 331: Hội thứ nhất Phẩm Nguyện Hạnh thứ 51
Hội thứ nhất Phẩm Căng Già Thiên thứ 52
Hội thứ nhất Phẩm Khéo Học thứ 53-1

Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Bấy giờ, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện rằng: Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu hành bố thí Ba la mật đa, thấy các hữu tình bị đói khát ép ngặt, áo mặc rách rưới, đồ nằm thiếu thốn. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc ấy rồi, tác suy nghĩ đây: Ta phải làm sao cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến rời xan tham không bị thiếu thốn. Đã suy nghĩ rồi tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành bố thí Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, được các loại hữu tình không thiếu thốn của cải như thế. Như trời Bốn thiên vương chúng, trời Ba mươi ba, trời Dạ ma, trời Đỗ sử đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại thọ dụng đầy đủ các thứ đồ vui thượng diệu, chúng sanh trong cõi Phật ta cũng khiến thọ dụng đầy đủ các thứ đồ vui thượng diệu. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do bố thí Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu hành tịnh giới Ba la mật đa, thấy các hữu tình phiền não bừng mạnh, sát hại lẫn nhau, hành chẳng cho mà lấy, tác hạnh dục tà, nói lời dối gạt, hiện thuyết thô ác, phát hiện chia rẽ, thốt lời tạp uế, phát khởi các thứ tham giận, tà kiến. Do nhân duyên đây, chết yểu nhiều bệnh, nhan dung tiều tụy, không có oai đức; của cải thiếu thốn, sanh nhà hạ tiện, thể xấu hình tàn, thân mình hôi hám; nói ra lời gì người chẳng tin chịu, lời lẽ thô bạo, dòng họ bạn bè trái bỏ, hễ trình bày điều chi thảy đều thô tục; xan tham, ganh ghét, ác kiến phừng phực, chê bai chánh pháp, hủy nhục Hiền Thánh. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát thấy việc đây rồi tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến nó xa lìa các quả ác nghiệp. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành tịnh giới Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến cho chóng mau viên mãn Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, được các loại hữu tình không có nhiều quả ác nghiệp như thế, tất cả các hữu tình đều hành thập thiện, hưởng thắng diệu quả báo trường thọ thảy. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do tịnh giới Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu hành an nhẫn Ba la mật đa , thấy các hữu tình giận dữ hủy mạ lăng nhục lẫn nhau,dao gậy ngói đá, quyền côn khối thảy tàn hại cùng nhau cho đến mất mạng, một lòng chẳng xả. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi,tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao giúp các loại hữu tình như thế, khiến nó xa lìa cái ác như thế. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện đây: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành an nhẫn Ba la mật đa , thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề . Trong cõi phật ta, được các hữu tình không có phiền não ác nghiệp như thế. Tất cả hữu tình xoay quanh xem nhau như cha như mẹ, như anh như em, như chị như em, như nam tử như nữ nhi, như bạn bè như thân thuộc, từ tâm nhìn nhau, thay nhau làm nhiêu ích. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do an Ba la mật đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu hành tinh tiến Ba la mật đa, thấy các hữu tình lười nhác biếng trễ, chẳng siêng tinh tiến, nới bỏ Tam thừa, cũng chẳng năng tu nghiệp lành người trời. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến nó xa lìa lười nhác biếng trễ. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành tinh tiến Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, được các loại hữu tình không có lười nhác biếng trễ như thế, tất cả hữu tình tinh tiến dũng mãnh, siêng tu đường lành và nhân Tam thừa, sanh trong trời người, mau chứng giải thoát. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do tinh tiến Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu hành tĩnh lự Ba la mật đa, thấy các hữu tình tham dục, giận dữ, mờ mịt, ngủ mê, rọ rạy, ác tác, nghi che bao phủ, mất chánh niệm, buông lung, đói bốn tĩnh lự và bốn vô lượng, bốn vô sắc định hãy chẳng năng tu, huống là năng tu được định xuất thế gian. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến nó xa lìa các che, tản, động. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành tĩnh lự Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, được các loại hữu tình không có đủ che, tản, động như thế. Tất cả hữu tình tự tại dạo xuất các tĩnh lự, vô lượng, vô sắc định thảy. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do tĩnh lự Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, thấy các hữu tình ngu si, ác huệ, đối chánh kiến thế, xuất thế đều mất, bác không thiện ác nghiệp và nghiệp quả, chấp đoạn chấp thường, chấp nhất chấp dị, câu bất câu thảy lắm thứ tà pháp. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến nó xa lìa ác kiến tà chấp. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành Bát nhãBa la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, được các loại hữu tình không có ác huệ, tà chấp như thế. Tất cả hữu tình trọn nên chánh kiến các món diệu huệ, đầy đủ ba minh. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do Bát nhã Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình ba nhóm sai khác: một là nhóm tà định, hai là nhóm chánh định, ba là nhóm bất định. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao cứu giúp các loại hữu tình đây, khiến nó bỏ nhóm tà định và bất định. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, được các loại hữu tình không có nhóm tà định và bất định, cũng không có danh tiếng ba nhóm như thế, tất cả hữu tình đều nhóm chánh định. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình đoạ ba ác thú: một là địa ngục, hai là bàng sanh, ba là quỷ giới. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao cứu giúp các loại hữu tình đây, khiến nó lìa hẳn khổ ba ác thú. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, được không có địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, cũng không có danh ba ác thú như thế. Tất cả hữu tình đều thuộc thiện thú. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình do ác nghiệp chướng, chỗ ở đại địa cao thấp chẳng bằng, gò, đồi, khe, hầm, cỏ dại, cây trụi, chông gai nhọn độc, bất tịnh đầy rẫy. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến nó dứt hẳn các ác nghiệp chướng, nơi chỗ nương ở đất bằng như lòng bàn tay, không có các thứ cỏ nhớt gốc trụi thảy. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, được không có các tạp uế nghiệp cảm ra đại địa như thế. Chỗ ở hữu tình đất đai bằng phẳng, vườn rừng ao suối, các thứ hoa hương đẹp lẫn lộn trang nghiêm, rất nên yêu mến vui vẻ. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình vì phước đức mỏng nên chỗ ở đại địa không có các ngọc báu, duy có các thứ đất đá sành sỏi. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao cứu giúp các loại hữu tình tội nhiều phước ít như thế, khiến chỗ ở dồi dào của báu. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta không có các loài hữu tình tội nhiều phước ít như thế, nơi nơi đều có vàng bạc, phệ lưu ly, trân kỳ quý lạ trải khắp đất địa, hữu tình thọ dụng mà không nhiễm đắm. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn, gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình phàm chỗ nhiếp thọ sanh nhiều tham đắm, khởi các ác sự. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao cứu giúp các loại hữu tình do ác nhiếp thọ như thế, khiến nó dứt hẳn ác nghiệp tham đắm. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta được các loại hữu tình không có điều ác nhiếp thọ như thế. Tất cả hữu tình đối sắc cùng cảnh đều không nhiếp thọ, chẳng sanh tham đắm. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn, gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình có bốn chủng sắc loại quý tiện sai khác: một là Sát đế lợi, hai là Bà la môn, ba là Phệ xá, bốn là Thủ đà la. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến nó không bốn chủng sắc loại quý tiện sai khác như thế. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta được các loại hữu tình không bốn chủng sắc loại sai khác, đồng một sắc loại đều rất tôn quý, người người nhiếp thọ. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình có hạ trung thượng gia tộc sai khác. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến không còn hạ trung thượng gia tộc sai khác như thế. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, được không có hạ trung thượng gia tộc sai khác như thế, tất cả hữu tình đều đồng thượng phẩm. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình đẹp đẽ, xấu xí, hình sắc sai khác. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến không còn hình sắc sai khác như thế. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, được các loại hữu tình không có hình sắc sai khác như thế. Tất cả hữu tình đều sắc chơn kim đoan nghiêm thù diệu, được chúng ưa thấy, trọn nên đệ nhất viên mãn tịnh sắc. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Hội Thứ Nhất
Phẩm Nguyện Hạnh
Thứ 51 – 2

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình hệ thuộc chủ tể, có làm việc chi chẳng được tự tại. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu giúp các loại hữu tình khiến được tự tại. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề . Trong cõi Phật ta, các loại hữu tình được không có chủ tể, ra làm việc chi đều được tự tại, cho đến chẳng thấy hình tượng chủ tể, cũng lại chẳng nghe danh tự chủ tể. Duy có Như Lai Chánh Đẳng Giác đem pháp thống nhiếp tên là Pháp Vương. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề .

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình các thú sai khác. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu giúp các loại hữu tình khiến không các thú thiện ác sai khác. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề . Trong cõi Phật ta, được không có các thú thiện ác sai khác, cho đến không có danh tự địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, a tố lạc, người, trời. Tất cả hữu tình đều đồng một loại, cùng tu một nghiệp là đều hoà hợp tu hành bố thí Ba la mật đa; tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa .

An trụ nội không; an trụ ngoại không, nội ngoại không,không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không. An trụ chơn như; an trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới.

Tu hành bốn niệm trụ; tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. An trụ khổ thánh đế, an trụ tập diệt đạo thánh đế. Tu hành bốn tĩnh lự; tu hành bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Tu hành tám giải thoát; tu hành tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Tu hành không giải thoát môn; tu hành vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tu hành năm nhãn, tu hành sáu thần thông. Tu hành tam ma địa môn, tu hành đà la ni môn.

Tu hành Phật mười lực; tu hành bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành pháp vô vong thất, tu hành tánh hằng trụ xả. Tu hành nhất thiết trí; tu hành đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Tu hành hạnh Bồ tát Ma ha tát. Tu hành chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình bốn sanh sai khác: một là trứng sanh, hai là thai sanh, ba là ướt sanh, bốn là hoá sanh. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến không còn bốn sanh sai khác như thế. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, được các hữu tình không có bốn sanh sai khác như thế. Các loại hữu tình đều đồng hoá sanh. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình không có năm thần thông, với việc sở tác chẳng được tự tại. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu giúp hữu tình đều cho được huệ năm thần thông. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, các loại hữu tình đều được huệ năm thần thông tự tại. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình thọ dụng đoạn thực, thân có các thứ đại tiểu tiện lợi, máu mủ hôi hám, rất đáng nhàm bỏ. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu giúp các loại hữu tình thọ dụng đoạn thực như thế,khiến trong thân nó không có các tiện uế. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, các loại hữu tình đều đồng thọ dụng diệu pháp hỷ thực, nơi thân thơm thokhoong có các tiện uế. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình thân không ánh sáng, làm những việc chi phải cầu ngoài soi. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến lìa thân không ánh sáng như thế. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, các loại hữu tình thân đủ ánh sáng, chẳng nhờ ngoài soi. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình thân không có các tướng hảo. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu giúp các loại hữu tình khiến được tướng hảo. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, các loại hữu tình đủ ba mươi hai tướng đại sĩ phu, tám mười tuỳ hảo viên mãn trang nghiêm, hữu tình được thấy sanh mừng tịnh diệu. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình lìa các căn lành.Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu giúp các loại hữu tình như thế khiến đủ căn lành. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, tất cả hữu tình cá lọai đều trọn nên căn lành thắng diệu. Do căn lành năng biện các món đồ cúng thượng diệu, cúng dường chư Phật. Nhờ phước lực đây tuỳ sanh chỗ nào, lại năng cúng dường chư Phật Thế Tôn. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình thân tâm đủ bệnh. Thân bệnh có bốn: một là bệnh phong, hai là bệnh nóng, ba là bệnh đàm, bốn là bệnh phong thủy, các bệnh lẫn lộn. Tâm cũng bốn bệnh: một là bệnh tham, hai là bệnh sân, ba là bệnh si, bốn là bệnh mạn, thảy các phiền não. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu giúp các loại hữu tình thân tâm bệnh khổ như thế. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, các loại hữu tình thân tâm thanh tịnh, không có các bện khổ cho đến chẳng nghe tên bệnh phong, bệnh nóng, bệnh đàm, bệnh phong thủy lẫn lộn; cũng lại chẳng nghe tên bệnh tham, bệnh sân, bệnh si, bệnh mạn phiền não. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình nhiều ý vui muốn, hoặc có vẻ vui tới Thanh văn thừa, hoặc có kẻ vui tới Độc giác thừa, hoặc có kẻ vui tới Vô thượng thừa. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu giúp các loại hữu tình, khiến nó bỏ ý vui tới Thanh văn, Độc giác thừa, chỉ khiến vui tới Vô thượng Đại thừa. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, các loại hữu tình chỉ cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề , chẳng muốn quả Thanh văn, Độc giác thừa cho đến không có tên Nhị thừa, chỉ nghe các thứ công đức Đại thừa. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình khởi năng thượng mạn. Chưa được chơn thật lìa dứt sanh mạng, bảo ta chơn thật lìa dứt sanh mạng. Chưa được chơn thật lài chẳng cho lấy, lìa hành dục tà, bảo ta chơn thật lìa chẳng cho lấy, lìa hành dục tà. Chưa được chơn thật lìa lời dối gạt, bảo ta chơn thật lìa lời dối gạt; chưa được chơn thật lìa lời thô ác, lìa lời chia rẽ, lìa lời tạp uế, bảo ta chơn thật lìa lời, lìa lời chia rẽ, lìa lời tạp uế. Chưa được chơn thật lìa nơi tham dục, bảo ta chơn thật lìa nơi tham dục; chưa được chơn thật lìa nơi giận dữ và lìa tà kiến, bảo ta chơn thật lìa nơi giận dữ và lìa tà kiến. Chưa được sơ tĩnh lự bảo được sơ tĩnh lự; chưa được đệ nhị, đệ tam, đệ tứ tĩnh lự bảo được đệ nhị, đệ tam , đệ tứ tĩnh lự. Chưa được định không vô biên xứ , bảo được định không vô biên xứ; chưa được định thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, bảo được định thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ. Chưa được từ vô lượng, bảo được từ vô lượng; chưa được bi hỷ xả vô lượng, bảo được bi hỷ xả vô lượng. Chưa được thần cảnh trí chứng thông, bảo được thần cảnh trí chứng thông; chưa được thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc trụ, tùy niệm trí chứng thông, bảo được thần cảnh trí chứng thông, bảo được thần cảnh trí chứng thông; chưa được thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc trụ, tùy niệm trí chứng thông. Chưa được quán bất tịnh, bảo được quán bất tịnh; chưa được quán từ bi, nghĩ dứt, duyên khởi, giới sai khác, bảo được quán bất tịnh, bảo được quán bất tịnh; chưa được quán từ bi, nghĩ dứt, duyên khởi, giới sai khác. Chưa được chỉ quán địa, bảo được chỉ quán địa; chưa được chủng tánh địa, đệ bát địa, kiến địa, bạc địa, ly dục địa, dĩ biện địa, bảo được chỉ quán địa, bảo được chỉ quán địa; chưa được chủng tánh địa, đệ bát địa, kiến địa, bạc địa, ly dục địa, dĩ biện địa. Chưa được Độc giác Bồ đề, bảo Độc giác Bồ đề. Chưa được bố thí Ba la mật đa, bảo được bố thí Ba la mật đa; chưa được tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa, bảo được tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Chưa chứng nội không, bảo chứng nội không; chưa chứng ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, twh tánh không, vô tánh tự tánh không, bảo chứng ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không. Chưa chứng chơn như, bảo chứng chơn như; chưa chứng pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới, bảo chứng pháp giới cho đến bất tư nghì giới. Chưa chứng khổ thánh đế, bảo chứng khổ thánh đế; chưa chứng tập diệt đạo thánh đế, bảo chứng tập diệt đạo tánh đế. Chưa được bốn niệm trụ, bảo được bốn niệm trụ; chưa được bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, bảo được bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi. Chưa được bốn tĩnh lự , bảo được bốn tĩnh lự; chưa được bốn vô lượng, bốn vô sắc định, bảo được bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Chưa được tám giải thoát, bảo được tám giải thoát; chưa được tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, bảo được tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Chưa được không giải thoát môn, bảo được không giải thoát môn; chưa được vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, bảo được vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Chưa được Cực hỷ địa, bảo được Cực hỷ địa; chưa được Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa, bảo được Ly cấu địa cho đến Pháp vân địa. Chưa được năm nhãn, bảo được năm nhãn; chưa được sáu thần thông, bảo được sáu thần thông. Chưa được tam ma địa môn, bảo được tam ma địa môn; chưa được đà la ni môn, bảo được đà la ni môn. Chưa được Phật mười lực, bảo được Phật mười lực; chưa được bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ , đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, bảo được bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Chưa được pháp vô vong thất, bảo được pháp vo vong thất; chưa được tánh hằng trụ xả, bảo được tánh hằng trụ xả. Chưa được nhất thiết trí, bảo được nhất thiết trí; chưa được đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, bảo được đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Chưa nghiêm tịnh cõi Phật, bảo nghiêm tịnh cõi Phật; chưa thành thục hữu tình, bảo thành thục hữu tình. Chưa hiểu khéo công kỹ nghệ thế gian, bảo hiểu khéo công kỹ nghệ thế gian. Chưa tu hạnh Bồ tát Ma ha tát, bảo tu hạnh Bồ tát Ma ha tát. Chưa được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, bảo được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến nó xa lài gút tăng thượng mạn. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, được không có kẻ tăng thượng mạn như thế, tất cả hữu tình lìa tăng thượng mạn. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình chấp đắm các pháp. Nghĩa là chấp đắm sắc, chấp đắm thọ tưởng hành thức. Chấp đắm nhãn xứ, chấp đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Chấp đắm sắc xứ, chấp đắm thanh hương vị xúc pháp xứ. Chấp đắm nhãn giới, chấp đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Chấp đắm sắc giới, chấp đắm thanh hương vị xúc pháp giới. Chấp đắm nhãn thức giới, chấp đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Chấp đắm nhãn xúc, chấp đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Chấp đắm nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, chấp đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chấp đắm địa giới, chấp đắm thủy hỏa phong không thức giới. Chấp đắm tánh nhân duyên; chấp đắm tánh đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Chấp đắm vô minh; chấp đắm hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái,thủ, hữu, sanh, lão tử. Chấp đắm ngã; chấp đắm hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả. Chấp dắm bố thí Ba la mật đa; chấp đắm tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa. Chấp đắm nội không; chấp dắm ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bốn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Chấp đắm chơn như; chấp đắm pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Chấp đắm khổ thánh đế, chấp đắm tập diệt đạo thánh đế. Chấp đắm bốn niệm trụ; chấp đắm bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Chấp đắm bốn tĩnh lự; chấp đắm bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Chấp đắm tám giải thoát; chấp dắm tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Chấp đắm không giải thoát môn; chấp đắm vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Chấp đắm Cực hỷ địa; chấp đắm Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Chấp đắm năm nhãn, chấp đắm sáu thần thông. Chấp đắm tam ma địa môn, chấp dắm đà la ni môn. Chấp đắm Phật mười lực; chấp đắm bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Chấp đắm pháp vô vong thất, chấp đắm tánh hằng trụ xả. Chấp đắm nhất thiết trí; chấp đắm đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Chấp đắm quả Dự lưu; chấp đắm quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Chấp đắm Độc giác Bồ đề. Chấp đắm hạnh Bồ tát Ma ha tát. Chấp đắm Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao phương tiện cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến lìa chấp đắm. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Trong cõi Phật ta, các loại hữu tình không có các thứ chấp đắm như thế thảy. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quang minh có lượng, thọ mạng có lượng, các chúng đệ tử số có chừng ngằn. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao được quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng, các chúng đệ tử số không chừng ngằn. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Bấy giờ quang minh nơi thân ta vô lượng, thọ mạng vô lượng, các chúng đệ tử số không chừng ngằn. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cõi Phật chỗ ở chu vi hữu lượng. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ta phải làm sao được cõi Phật chỗ ở chu vi vô lượng. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Đại thiên thệ với mười phương đều như số cát Căng già hợp làm một cõi, Ta ở nơi trong thuyết pháp giáo hoá vô lượng vô số vô biên hữu tình. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu đủ sáu Ba la mật đa, thấy các hữu tình sanh tử dài xa, ác cõi hữu tình số ấy vô biên. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, tác suy nghĩ này: Ngằn mé sanh tử in như hư không, các cõi hữu tình cũng lại như thế. Tuy không chơn thật các loại hữu tình trôi lăn sanh tử hoặc được Niết bàn, mà các hữu tình vọng chấp là có, xoay quanh sanh tử, chịu khổ vô biên. Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật đa, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho chóng mau viên mãn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vì các hữu tình thuyết Vô thượng pháp, đều khiến giải thoát đại khổ sanh tử, cũng khiến chứng biết sanh tử, giải thoát đều vô sở hữu, đều rốt ráo không. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này do sáu Ba la mật đa đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Hội thứ nhất Phẩm Khéo Học thứ 53-1

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, làm thế nào tập gần Tam-ma-địa Không, làm thế nào nhập Tam-ma-địa Không? Làm thế nào tập gần Tam-ma-địa Vô tướng, làm thế nào nhập Tam-ma-địa Vô tướng? Làm thế nào tập gần Tam-ma-địa Vô nguyện, làm thế nào nhập Tam-ma-địa Vô nguyện? Làm thế nào tập gần bốn niệm trụ, làm thế nào tu bốn niệm trụ? Làm thế nào tập gần bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, làm thế nào tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo? Làm thế nào tập gần mười lực Phật, làm thế nào tu mười lực Phật? Làm thế nào tập gần bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, làm thế nào tu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa nên quán sắc là không, nên quán thọ, tưởng, hành, thức là không; nên quán nhãn xứ là không, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không; nên quán sắc xứ là không, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không; nên quán nhãn giới là không, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là không; nên quán sắc giới là không, nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là không; nên quán nhãn thức giới là không, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, thức giới là không; nên quán nhãn xúc là không, nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là không; nên quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, nên quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra là không; nên quán địa giới là không, nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không; nên quán vô minh là không, nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử là không; nên quán bố thí Ba-la-mật-đa là không, nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không; nên quán pháp không nội là không, nên quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng có thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là không; nên quán chơn như là không, nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là không; nên quán Thánh đế khổ là không, nên quán Thánh đế tập, diệt, đạo là không; nên quán bốn tịnh lự là không, nên quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không; nên quán tám giải thoát là không, nên quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không; nên quán bốn niệm trụ là không, nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là không; nên quán pháp môn giải thoát không là không, nên quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không; nên quán mười địa Bồ-tát của Ba thừa là không; nên quán năm loại mắt là không, nên quán sáu phép thần thông là không; nên quán mười lực Phật là không, nên quán bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là không; nên quán pháp không quên mất là không, nên quán tánh luôn luôn xả là không; nên quán trí nhất thiết là không, nên quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không; nên quán tất cả pháp môn Đà-la-ni là không, nên quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không; nên quán quả Dự-lưu là không, nên quán quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán là không; nên quán quả vị Độc-giác là không; nên quán tất cả hạnh đại Bồ-tát là không; nên quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là không; nên quán pháp hữu lậu là không, nên quán pháp vô lậu pháp là không; nên quán pháp thế gian là không, nên quán pháp xuất thế gian là không; nên quán pháp hữu vi là không, nên quán pháp vô vi là không; nên quán pháp quá khứ là không, nên quán pháp vị lai, hiện tại là không; nên quán pháp thiện là không, nên quán pháp bất thiện, vô ký là không; nên quán pháp Dục giới là không, nên quán pháp Sắc, Vô sắc giới là không.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, khi quán như vậy, khiến tâm chẳng loạn; nếu tâm chẳng loạn thì chẳng thấy pháp; nếu chẳng thấy pháp thì chẳng chứng đắc. Vì sao?

Này Thiện Hiện! Vì Đại Bồ-tát ấy, khéo học tự tướng các pháp đều là không, không có pháp nào có thể tăng, không có pháp nào có thể giảm, cho nên đối với chẳng thấy, chẳng chứng. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ở trong thắng nghĩa đế của tất cả pháp, năng chứng, sở chứng, chỗ chứng, thời gian chứng và do pháp đó được chứng, hoặc hiệp, hoặc ly đều chẳng thể nắm bắt được, chẳng thể thấy được.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như Phật đã dạy, các đại Bồ-tát đối với cái không của các pháp, chẳng nên chứng đắc. Bạch Thế Tôn! Vì sao các đại Bồ-tát an trụ cái không của các pháp mà chẳng chứng đắc?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát khi quán cái không của pháp thì trước hết nghĩ thế này: Ta nên quán các tướng của pháp đều không, chẳng nên chứng đắc. Ta vì học nên quán cái không của các pháp chứ chẳng vì chứng đắc mà quán cái không của các pháp. Nay là lúc học chứ chẳng phải là lúc chứng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, chưa nhập định vị, buộc tâm ở sở duyên; khi đã nhập định thì chẳng để tâm nơi cảnh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, ở trong lúc này, chẳng từ bỏ bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ pháp không nội, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng có thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ chơn như, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ Thánh đế khổ, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ Thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ bốn tịnh lự, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ tám giải thoát, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ bốn niệm trụ, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát không, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ năm loại mắt, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ sáu phép thần thông, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ mười lực Phật, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ pháp không quên mất, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ tánh luôn luôn xả, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ trí nhất thiết, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng chứng lậu tận, chẳng từ bỏ tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ hạnh đại Bồ-tát, chẳng chứng lậu tận; chẳng từ bỏ quả vị giác ngộ cao tột, chẳng chứng lậu tận. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại Bồ-tát ấy thành tựu đại trí vi diệu như thế, khéo an trụ pháp không và tất cả pháp Bồ-đề phần, nghĩ thế này: Bây giờ nên học chẳng phải là lúc chứng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy tu hành sâu sắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa nên nghĩ thế này: Ta đối với bố thí Ba-la-mật-đa, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với pháp không nội, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng có thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với chơn như, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với Thánh đế khổ, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với bốn tịnh lự, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với tám giải thoát, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với bốn niệm trụ, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với pháp môn giải thoát không, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với năm loại mắt, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với sáu phép thần thông, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với mười lực Phật, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với pháp không quên mất, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với tánh luôn luôn xả, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với trí nhất thiết, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, bây giờ nên học, chẳng nên chứng; ta đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với tất cả hạnh đại Bồ-tát, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta đối với quả vị giác ngộ cao tột, bây giờ nên học, chẳng nên chứng. Ta nay nên học trí nhất thiết trí, chẳng nên chứng quả Dự-lưu. Ta nay nên học trí nhất thiết trí, chẳng nên chứng quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán. Ta nay nên học trí nhất thiết trí, chẳng nên chứng quả vị Độc-giác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567