- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (24 tập)
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 2
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 3
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 4
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 5
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 6
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 7
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 8
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 9
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 10
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 11
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 12
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 13
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 14
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 15
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 16
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 17
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 18
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 19
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 20
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 21
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 22
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 23
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 24
- Tiểu sử dịch giả HT Thích Trí Nghiêm
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
Quyển Thứ 393: Hội thứ nhất Phẩm Thành Thục Hữu Tình thứ 71-4
Hội thứ nhất Phẩm Nghiêm Tịnh Cõi Phật thứ 72-1
Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát an trụ bố thí Ba la mật đa, thấy các hữu tình không nơi nương dựa, nhiều các khổ não, thiếu các đồ dùng, rất sanh thương xót mà an ủi rằng: tam ma địa năng vì các ngươi làm chỗ nương dữa. Các ngươi cần dùng hoặc ăn uoống, hoặc áo mặc, hoặc đồ nằm, hoặc xe cộ, hoạc nhà cửa, hoặc hương, hoặc hoa, hoặc tôi tớ, hoặc ngọc báu, hoặc kỹ nhạc, hoặc đèn sáng, hoặc đồ dùng trang nghiêm, hoặc thuốc mem chữ bệnh, hoặc những thứ cần dùng tư cụ khác, đều tùy ý đòi chớ có nghi nan . Ta se tùy ngươi đòi gì đều cho, khiến ngươi đêm dài lợi ích an vui. Khi các ngươi nhận của tam ma địa thí như lấy của mình, chớ nghĩ gì khác. Sở dĩ vì sao?
Tam ma địa ở đêm dài chứa nhóm của cải, chỉ vì các ngươi được lợi vui vậy. Các ngươi ngày đêm tâm không khó đối của cải này tùy ý nhận lấy. Lấy rồi, trước nên tự chính thọ dụng tu các pháp lành, sau đem của này thí các hữu tình cũng khiến Tướng khác thiện.
Nghĩa là khiến Tướng khác hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Cũng khiến an trụ nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.
Cũng khiến tu hành bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Cũng khiến an trụ khổ tập diệt đạo thánh đế. Cũng khiến tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Cũng khiến tu hành tám giải thoát, tám tháng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ.
Cũng khiến tu hành đà la ni môn, tam ma địa môn. Cũng khiến tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Cũng khiến tu hành Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Cũng khiến tu hành năm nhãn, sáu thần thông.
Cũng khiến tu hành Phật mười lực; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Phật bất công. Cũng khiến tu hành pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. cũng khiến Tướng khác nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này dạy dắt các hữu tình như thế rồi, tùy kia sở ưng lại khiến Tướng khác tạp các pháp vô lậu, hoạc khiến chứng được quả Dự lưu, Nhất Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát đem nguyện lực thần thông, Bất hoàn, A la hán, hoặc khiến chứng Độc giác Bồ đề. Hoặc khiến chứng vào cá bậc Bồ tát, hoặc khiến chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát Tướng khác hành bố thí Ba la mật đa phương tiện khéo léo, thành thục hữu tình khiến kia giải thoát sanh tử ác thú, như nên chứng được Tam thừa Niết bàn.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát Tướng khác hành tịnh giới Ba la mật đa và Bồ tát Ma ha tát đạo đại Bồ đề khác, phương tiện khéo léo thành thục hữu tình?
Phật bảo: Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát tu hành tịnh giới Ba la mật đa phương tiện khéo léo, thấy các hữu tình thiếu thốn tư cụ, phiền não, xí thịnh chẳng Tướng khác thiện được, thương xót bảo rằng: Các ngươi nếu vì thiếu thốn đồ tư duyên chẳng Tướng khác lành được, tam ma địa sẽ cho ngươi ăn uống, áo mặc và đồ nằm thảy các thứ tư duyên. Các ngươi chớ khởi phiền não ác nghiệp, nên chính Tướng khác tập bố thí thảy các pháp lành.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này an trụ tịnh giới Ba la mật đa, nên nhiếp thọ các loại hữu tình. Như các kẻ xan tham khiến tu bố thí, đối thân mạng của cải không chút đoái tiếc. Các kẻ phá giới khiến Tướng khác Tướng khác tịnh giới, năng chính thọ hành mười thiện nghiệp đạo, trụ luật nghi giới, chẳng phá chảng thủng, không tạp không uế, cũng không chấp lấy. Các kẻ giận dữ khiến Tướng khác an nhẫn, hủy mạ gia hại tâm không biến đổi. Các kẻ lười nhác khiến tu tinh tiến, tu các pháp lành như cứu đầu cháy. Các kẻ tán loạn khiến Tướng khác tĩnh lự. Các kẻ ngu si khiến Tướng khác trí huệ. Kẻ chấp các pháp khiến quán pháp không. Kẻ không có ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, dạy kia tu hành Bồ đề phần pháp. Với kẻ đối bốn thánh đế chưa thể quán được, dạy tu chánh quán. Kẻ không có định tĩnh lự, vô lượng, vô sắc, dạy kia Tướng khác tập. Kẻ không giải thoát thắng xứ thảy cho đến biến xứ, khiến kia tu hành. Kẻ chưa được đà la ni môn, tam ma địa môn khiến chứng được. Kẻ chưa được không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, dạy kia tu chứng. Kẻ chưa vào bậc Bồ tát, khiến kia tới vào năng mau viên mãn. Kẻ chưa được năm nhãn, sáu thần thông, dạy lần tu chứng. Kẻ chưa được Phật mười lực; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Phật bất công, dạy lần tu chứng. Kẻ chưa được pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, dạy lần tu chứng. Kẻ chưa được nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, dạy lần tu chứng.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này an trụ tịnh giới Ba la mật đa, thành thục hữu tình, phương tiện khéo léo, hoặc khiến giải thoát các khổ ác thú, hoặc khiến chứng được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc khiến chứng được Độc giác Bồ đề, hoặc khiến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha tát tu hành tịnh giới Ba la mật đa phương tiện khéo léo thành thục hữu tình, khiến kia giải thoát sanh tử ác thú, như nên chứng được Tam thừa Niết bàn.
Thiện Hiện phải biết: Có Bồ tát Ma ha tát Tướng khác hành bốn Ba la mật đa khác và đạo đại Bồ đề Bồ tát Ma ha tát khác, mỗi mỗi đều năng phương tiện khéo léo, đem tất cả pháp lành thành thục hữu tình, khiến kia giải thoát sanh tử ác thú. Hoặc khiến chứng được Thanh văn Bồ đề tịch diệt an vui, hoặc khiến chứng được Độc giác Bồ đề tịch diệt an vui, hoặc khiến chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, năng tận đời vị lai lợi ích an vui các loại hữu tình thường không gián đoạn.
Hội Thứ Nhất
Phẩm Nghiêm Tịnh Cõi Phật
Thứ 72 - 1
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện khởi nghĩ này rằng: Pháp nào gọi là đạo Bồ tát Ma ha tát, các Bồ tát Ma ha tát an trụ đạo đây năng mặc các thứ áo giáp đại công đức, lợi ích an vui tất cả hữu tình?
Phật biết kia nghĩ, bảo Thiện Hiện rằng: Thiện Hiện phải biết: bố thí Ba la mật đa là đạo các Bồ tát Ma ha tát; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa là đạo các Bồ tát Ma ha tát, bốn niệm trụ là đạo các Bồ tát Ma ha tát , bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi là đạo các Bồ tát Ma ha tát.
Nội không là đạo các Bồ tát Ma ha tát; ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. là đạo các Bồ tát Ma ha tát, tập diệt đạo thánh đế là đạo các Bồ tát Ma ha tát.
Bốn tĩnh lự là đạo các Bồ tát Ma ha tát , bốn vô lượng, bốn vô sắc định là đạo các Bồ tát Ma ha tát. Tám giải thoát là đạo các Bồ tát Ma ha tát , tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ là đạo các Bồ tát Ma ha tát. Tất cả đà la ni môn là đạo các Bồ tát Ma ha tát, tất cả đà la ni môn là đạo các Bồ tát Ma ha tát , tam ma địa môn là đạo các Bồ tát Ma ha tát. Không giải thoát môn là đạo các Bồ tát Ma ha tát; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn là đạo các Bồ tát Ma ha tát.
Cực hỷ địa là đạo các Bồ tát Ma ha tát , Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa là đạo các Bồ tát Ma ha tát. Năm nhãn là đạo các Bồ tát Ma ha tát , sáu thần thông là đạo các Bồ tát Ma ha tát.
Phật mười lực là đạo các Bồ tát Ma ha tát; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là đạo các Bồ tát Ma ha tát. Pháp vô vong thất là đạo các Bồ tát Ma ha tát, tánh hằng trụ xả là đạo các Bồ tát Ma ha tát; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí là đạo các Bồ tát Ma ha tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tổng tất cả pháp đều là đạo các Bồ tát Ma ha tát.
Thiện Hiện! Nơi ý ngươi hiểu sao? Vả có pháp nào các Bồ tát Ma ha tát chỗ chẳng cần học? Các Bồ tát Ma ha tát chẳng học pháp này năng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chăng?
Thiện Hiện đáp rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng có. Bạch Thiện Thệ! Chẳng có.
Phật nói: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như lời ngươi đáp. Thiện Hiện! Nhất định không có pháp các Bồ tát Ma ha tát chỗ chẳng học. Các Bồ tát Ma ha tát chẳng học pháp này, tất chẳng năng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát chẳng học tất cả pháp, quyết chẳng nang được Nhất thiết trí trí.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp tự tánh đều không, Bồ tát Ma ha tát làm sao học tất cả pháp. Hầu không lẽ Thế Tôn đối pháp vô hý luận mà tác lên hý luận rằng có các pháp: là đây là kia, do đây là đây, đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian, đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu, đây là pháp vô vi, đây là pháp dị sanh, đây là pháp Dự lưu, đây là pháp Nhất Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát đem nguyện lực thần thông, đây là pháp Bất hoàn, đây là pháp A la hán, đây là pháp Độc giác, đây là pháp Bồ tát, đây là pháp Như Lại nữa, Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Các pháp bị có đều tự tánh không. Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp tự tánh chẳng không, thời lẽ các Bồ tát Ma ha tát chẳng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Vì tất cả pháp tự tánh đều không, vậy nên các Bồ tát Ma ha tát năng đắc Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Như ngươi vừa nói: Nếu tất cả pháp tự tánh đều không, Bồ tát Ma ha tát làm sao học tất cả pháp. Hầu không lẽ Thế Tôn đối pháp vô hý luận mà tác lên hý luận rằng có các pháp là đây là kia, do đây là đây, đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian, cho đến đây là pháp Bồ tát, đây là pháp Như Lại ấy.
Thiện Hiện! Nếu các hữu tình biết tất cả pháp tự tánh đều không, thời các Bồ tát Ma ha tát chẳng cần học tất cả pháp, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, vì các hữu tình an lập tuyên thuyết làm gì.
Thiện Hiện! Vì các hữu tình chẳng biết các pháp tự tánh đều không, nên các Bồ tát Ma ha tát học tất cả pháp, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, vì các hữu an lập tuyên nói.
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát đối đạo Bồ tát, khi khởi đầu tu học, cần quan sát kỹ tự tánh các pháp đều chẳng khá được, chỉ có chấp trước hòa hợp gây ra, tam ma địa phải xét kỹ tự tánh các pháp đều rốt ráo không, chẳng nên với trong có chỗ chấp trước.
Nghĩa là chẳng nên chấp trước sắc, chẳng nên chấp trước thọ tưởng hành thức. Chẳng nên chấp trước nhãn xứ, chẳng nên chấp trước nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Chẳng nên chấp trước sắc xứ, chẳng nên chấp trước thanh hương vị xúc pháp xứ. Chẳng nên chấp trước nhãn giới, chẳng nên chấp trước nhĩ tỷ thiệt thân ý giới.
Chẳng nên chấp trước sắc giới, chẳng nên chấp trước thanh hương vị xúc pháp giới. Chẳng nên chấp trước nhãn thức giới, chẳng nên chấp trước trước nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Chẳng nên chấp trước nhãn xúc, chẳng nên chấp trước nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Chẳng nên chấp trước nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, chẳng nên chấp trước nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Chẳng nên chấp trước địa giới, chẳng nên chấp trước thủy hỏa phong không thức giới. Chẳng nên chấp trước nhân duyên; chẳng nên chấp trước đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Chẳng nên chấp trước các pháp theo duyên sanh ra.
Chẳng nên chấp trước vô minh; chẳng nên chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não. Chẳng nên chấp trước bố thí Ba la mật đa; chẳng nên chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng nên chấp trước nội không; chẳng nên chấp trước ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.
Chẳng nên chấp trước bốn niệm trụ; chẳng nên chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Chẳng nên chấp trước khổ thánh đế, chẳng nên chấp trước tập diệt đạo thánh đế. Chẳng nên chấp trước bốn tĩnh lự; chẳng nên chấp trước bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Chẳng nên chấp trước tám giải thoát, chẳng nên chấp trước tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ.
Chẳng nên chấp trước đà la ni môn, chẳng nên chấp trước tam ma địa môn. Chẳng nên chấp trước không giải thoát môn; chẳng nên chấp trước vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Chẳng nên chấp trước Cực hỷ địa; chẳng nên chấp trước Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Chẳng nên chấp trước năm nhãn, chẳng nên chấp trước sáu thần thông.
Chẳng nên chấp trước Phật mười lực; chẳng nên chấp trước bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng nên chấp trước pháp vô vong thất, chẳng nên chấp trước tánh hằng trụ xả. Chẳng nên chấp trước nhất thiết trí; chẳng nên chấp trước đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Chẳng nên chấp trước quả Dự lưu; chẳng nên chấp trước quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Chẳng nên chấp trước tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Chẳng nên chấp trước chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vì cớ sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều không. Không tánh chẳng nên chấp trước không tánh. Không tánh trong không hãy chẳng khá được, huống có không tánh năng chấp trước không.
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi quan sát tất cả pháp như thế,đối các pháp tánh tuy không chấp trước mà đối các pháp thường học không mỏi.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này trụ trong học đây quán tâm hành sai khác các hữu tình. Nghĩa là quán sát kỹ các hữu tình này tâm hành chỗ nào. Đã quán kỹ rồi như thật biết rõ tâm kia chỉ hành sở chấp hư dối. Bồ tát bấy giờ liền khởi nghĩ này: Tâm kia đã hành sở chấp hư dối, tam ma địa khiến giải thoát tất chẳng là khó.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này khởi nghĩ đây rồi an trụ Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo, dạy trao dạy bảo các hữu tình ràng: Ngày nay các ngươi đều nên xa lìa sở chấp hư dối, tới vào chánh tánh tu các thiện hành.
Lại khởi lời này: Các ngươi ngày nay nên hành nội không, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây không việc chắc thật vậy. Các ngươi ngày nay nên hành ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? vì trong đây đều không việc chắc thật vậy.
Các ngươi ngày nay nên hành bốn niệm trụ, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy. Các ngươi ngày nay nên hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy.
Các ngươi ngày nay nên hành khổ thánh đế, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy. Các ngươi ngày nay nên hành tập diệt đạo thánh đế, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy.
Các ngươi ngày nay nên hành bốn tĩnh lự, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy. các ngươi ngày nay nên hành bốn vô lượng bốn vô sác định, nhưng chơ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy.
Các ngươi ngày nay nên hành tám giải thoát, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy. Các ngươi ngày nay nên hành tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy.
Các ngươi ngày nay nên hành đà la ni môn, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy. Các ngươi ngày nay nên hành tam ma địa môn, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy.
Các ngươi ngày nay nên hành không giải thoát môn, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy. Các ngươi ngày nay nên hành vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy.
Các ngươi ngày nay nên hành Cực hỷ địa, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy. Các ngươi ngày nay nên hành Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy.
Các ngươi ngày nay nên hành năm nhãn, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy. Các ngươi ngày nay nên hành sáu thần thông, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy.
Các ngươi ngày nay nên hành Phật mười lực, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung . Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy. Các ngươi ngày nay nên hành bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy.
Các ngươi ngày nay nên hành pháp vô vong thất, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy. Các ngươi ngày nay nên hành tánh hằng trụ xả, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy.
Các ngươi ngày nay nên hành nhất thiết trí, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy. Các ngươi ngày nay nên hành đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy.
Các ngươi ngày nay nên hành quả Dự lưu nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy. Các ngươi ngày nay nên hành quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy.
Các ngươi ngày nay nên hành tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát , nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy. Các ngươi ngày nay nên hành Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, nhưng chớ ỷ đây mà sanh kiêu lung. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này an trụ Bát nhã Ba la mật đa, phương tiện khéo léo, khi dạy trao dạy bảo các hữu tình, hành đạo Bồ đề không chỗ chấp trước. Vì cớ sao? Vì tất cả pháp tánh chẳng nên chấp trước; hoặc năng chấp trước, hoặc sở chấp trước đều vô tự tánh, vì tất cả pháp tự tánh không vậy.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này khi Tướng khác hành đạo Bồ đề như thế, đối tất cả pháp đều vô sở trụ.
Đem vô sở trụ mà làm phương tiện, ty hành bố thí Ba la mật đa mà với trong ấy đều vô sở trụ; tuy hành tịnh giới, anh nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa với trong ấy đều vô sở trụ. Vì cớ sao? Vì trong đây đều không việc chắc thật vậy.
Tuy hành nội không mà với trong ấy đều vô sở trụ; tuy hành ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không mà với trong ấy đều vô sở trụ. Vì cớ sao? Tự tánh như thế, kẻ hành, tướng hành, tất cả không vậy.
Tuy hành bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi mà với trong ấy đều vô sở trụ. Vì cớ sao? Tự tánh như thế, kẻ hành, tướng hành, tất cả không vậy.
Tuy hành khổ thánh đế mà với trong ấy đều vô sở trụ, tuy hành tập diệt đạo thánh đế mà với trong ấy đều vô sở trụ. Vì cớ sao? Tự tánh như thế, kẻ hành, tướng hành, tất cả không vậy.
Tuy hành bốn tĩnh lự mà với trong ấy đều vô sở trụ; tuy hành bốn vô lượng, bốn vô sắc định mà với trong ấy đều vô sở trụ. Vì cớ sao? Tự tánh như thế, kẻ hành, tướng hành, tất cả không vậy.
Tuy hành tám giải thoát mà với trong ấy đều vô sở trụ, tuy hành tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ mà đối trong ấy đều vô sở trụ. Vì cớ sao? Tự tánh như thế, kẻ hành, tướng hành, tất cả không vậy.
Tuy hành đà la ni môn mà với trong ấy đều vô sở trụ, Tuy hành tam ma địa môn mà với trong ấy đều vô sở trụ. Vì cớ sao? Tự tánh như thế, kẻ hành, tướng hành, tất cả không vậy.
Tuy hành không giải thoát môn mà với trong ấy đều vô sở trụ; tuy hành vô tướng, vô nguyện giải thoát môn mà với trong ấy đều vô sở trụ. Vì cớ sao? Tự tánh như thế, kẻ hành, tướng hành, tất cả không vậy.
Tuy hành Cực hỷ địa mà với trong ấy đều vô sở trụ; tuy hành Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa mà với trong ấy đều vô sở trụ. Vì cớ sao? Tự tánh như thế, kẻ hành, tướng hành, tất cả không vậy.
Tuy hành năm nhãn mà với trong ấy đều vô sở trụ, tuy hành sáu thần thông mà với trong ấy đều vô sở trụ. Vì cớ sao? Tự tánh như thế, kẻ hành, tướng hành, tất cả không vậy.
Tuy hành Phật mười lực mà với trong ấy đều vô sở trụ; tuy hành bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Phật bất công mà với trong ấy đều vô sở trụ. Vì cớ sao? Tự tánh như thế, kẻ hành, tướng hành, tất cả không vậy.
Tuy hành pháp vô vong thất mà với trong ấy đều vô sở trụ, tuy hành tánh hằng trụ xả, mà với trong ấy đều vô sở trụ. Vì cớ sao? Tự tánh như thế, kẻ hành, tướng hành, tất cả không vậy.
Tuy hành nhất thiết trí mà với trong ấy đều vô sở trụ; tuy hành đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí mà với trong ấy đều vô sở trụ. Vì cớ sao? Tự tánh như thế, kẻ hành, tướng hành, tất cả không vậy.
Tuy hành quả Dự lưu mà với trong ấy đều vô sở trụ, tuy hành quảNhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề mà với trong ấy đều vô sở trụ. Vì cớ sao? Tự tánh như thế, kẻ hành, tướng hành, tất cả không vậy.
Tuy hành tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát mà với trong ấy đều vô sở trụ. Tuy hành chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề mà với trong ấy đều vô sở trụ. Vì cớ sao? Tự tánh như thế, kẻ hành, tướng hành, tất cả không vậy.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này tuy năng được quả Dự lưu mà chẳng trụ nơi trong; tuy năng được quảNhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề mà chẳng trụ nơi trong.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên nào Bồ tát Ma ha tát này tuy năng được quả Dự lưu mà chẳng trụ nơi trong, tuy năng được quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề mà chẳng trụ nơi trong?
Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này có hai nhân duyên, tuy năng được quả Dự lưu mà chẳng trụ nơi trong; tuy năng được quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề mà chẳng trụ nơi trong. Những gì là hai?
Một là quả kia đều không tự tánh, năng trụ sở trụ đều chẳng khà được. Hai là đối kia chẳng sanh vui đủ, vậy nên chẳng trụ. Nghĩa là Bồ tát kia hằng thời nghĩ này: tam ma địa quyết định nên được quả Dự lưu, chẳng nên chẳng được, nhung chẳng nên trụ nơi đó. Tam ma địa quyết định nên được quả Nhất Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát đem nguyện lực thần thông, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề mà chẳng trụ nơi trong. Những gì là hai?
Một là quả kia đều không tự tánh, năng trụ sở trụ đều chẳng khá được. Hai là đối kia chẳng sanh vui đủ, vậy nên chẳng trụ. Nghĩa là Bồ tát kia hằng thời nghĩ này: tam ma địa quyết định nên được quả Dự lưu, chẳng nên chẳng được, nhưng chẳng nên trụ nơi đó. Ta quyết định nên được quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng nên chẳng được, nhưng chẳng nên trụ nơi đó. Sở dĩ vì sao? Tam ma địa từ sơ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, nhưng tam ma địa quyết định sẽ chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, lẽ đâu ở trung gian mà trụ các quả khác!
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này từ sơ phát tâm cho đến tới vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh từng không tưởng khác, chỉ cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này từ được sơ địa cho đến được đệ thập địa từng không tưởng khác, chỉ cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này chuyên cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, ở tất cả thời tâm không tán loạn, có khởi bao nhiêu nghiệp thân, ngữ, ý không chẳng đều cùng hợp tâm Bồ đề, khởi đạo Bồ đề, chẳng bị các cảnh khác làm rối loạn nơi tâm.
Bấy gờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều chẳng sanh ấy, Bồ tát Ma ha tát làm sao khởi đạo Bồ đề?
Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Tất cả pháp đều chẳng sanh. Đây lại những kẻ vô sở tác, vô sở thú làm sao biết tất cả pháp đều chẳng sanh vậy?
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Đâu chẳng Như Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát đem nguyện lực thần thông xuất thế hoặc chẳng xuất thế, các pháp pháp giới, pháp vậy thường trú?
Phật nói: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát đem nguyện lực thần thông xuất thế hoặc chẳng xuất thế, các pháp pháp giới, pháp vậy thường trú. Nhưng các hữu tình chẳng thể hiểu rõ các pháp pháp giới, pháp vậy thường trú, nên các Bồ tát Ma ha tát vì nhiều ích nên khởi đạo Bồ đề, do đạo Bồ đề cứu vớt hữu tình, khiến giải thoát hẳn các khổ sanh tử.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát Ma ha tát vì dùng sanh đạo được Bồ đề ư? Phật nói: Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì dùng bất sanh đạo được Bồ đề ư? Phật nói: Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì dùng bất sanh đạo được Bồ đề ư? Phật nói: Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì dùng sanh bất sanh đạo được Bồ đề ư? Phật nói: Chẳng phải.
Bạch Thế Tôn! Vì dùng chẳng sanh chẳng bất sanh đạo được Bồ đề ư? Phật nói: Chẳng phải.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát làm sao sẽ được Bồ đề?
Phật bảo: Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát làm sao sẽ được Bồ đề?
Phật bảo: Thiện Hiện! Chẳng dùng đạo được Bồ đề. Cũng chẳng dùng chẳng đạo được Bồ đề. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Bồ đề tức là đạo, đạo tức là Bồ đề vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ đề tức là đạo, đạo tức là Bồ đề ấy, đâu chẳng các Bồ tát Ma ha tát đã được đạo Bồ đề, nên đã được đạo Bồ đề, nên đã được đạo Bồ đề. Nếu vậy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì sao lại vì kia thuyết ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo, và Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Phật bất cộng thảy vô lượng Phật pháp, khiến kia tu chứng?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Ngươi đâu bảo Phật được Bồ đề ư?
Thiện Hiện! đáp rrằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng bảo. Bạch Thiện Thệ! Chẳng bảo> Vì cớ sao? Bạch Thế Tôn! Phật tức là Bồ đề, Bồ đề tức là Phật, nên chảng nên bảo Phật được Bồ đề.
Phật nói: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Nhưng ngươi đã hỏi: Đâu chẳng Bồ tát Ma ha tát đã được đạo Bồ đề ấy. Thiện Hiện! các Bồ tát Ma ha tát tu đạo Bồ đề chưa được viên mãn làm sao khá nói đã được Bồ đề?
Thiện Hiện! các Bồ tát Ma ha tát nếu đã viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Nếu đã viên mãn nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Nếu đã viên mãn bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Nếu đã viên mãn khổ thánh đế, tập diệt đạo thánh đế. Nếu đã viên mãn bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Nếu đã viên mãn tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Nếu đã viên mãn đà la ni môn, tam ma địa môn. Nếu đã viên mãn không giải thoát môn, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Nếu đã viên mãn Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Nếu đã viên mãn năm nhãn, sáu thần thông. Nếu đã viên mãn Phật mười lực; hoặc khiến tu hành bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Phật bất công. Nếu đã viên mãn ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Nếu đã viên mãn pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Nếu đã viên mãn nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Nếu đã viên mãn tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Nếu đã viên mãn quán sát thuận nghịch mười hai nhánh duyên khởi. Nếu đã viên mãn tất cả Bồ tát thần thông tự tại. Nếu đã viên mãn thắng xa-mạnh mẽ, tự tu-tha, tỳ-bát-xa-na. Nếu đã viên mãn tất cả tư lương phước đức trí huệ. Nếu đã viên mãn thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Nếu đã viên mãn diệu pháp của chư Phật vô lượng vô biên bất khả tư nghì, từ đây trở đi không còn gián đoạn. Dùng định Kim cương dụ một sát na ngắn tương ưng diệu huệ, dứt hẳn tất cả hai chướng phiền não sở tri và tập khí thô trọng nối nhau, mới chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, mới gọi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Đối tất cả pháp được đại tự tại, tận đời vị lai lợi ích an vui tất cả hữu tình.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát nghiêm tịnh cõi Phật là sao?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát từ sơ phát tâm cho đến rốt ráo, thường tự thanh tịnh thân thô trọng, ngữ thô trọng, ý thô trọng. Cũng thanh tịnh người thân thô trọng, ngữ thô trọng, ý thô trọng. Bồ tát Ma ha tát này thanh tịnh mình người ba thô trọng, vậy thời năng thanh tịnh cõi Phật sở cầu.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Sao gọi Bồ tát Ma ha tát thân ngữ ý thô trọng?
Phật bảo: Thiện Hiện! Như hại sanh mạng, như lấy của chẳng cho, như dục tà hàng; các ác hành nơi thân bất thiện như thế, đấy gọi thân thô trọng Bồ tát Ma ha tát. Như lời hư dối, như lời chia rẽ, như lời thô ác, như lời tạp uế; các ác hành nơi ngữ bất thiện như thế, đấy gọi ngữ thô trọng Bồ tát Ma ha tát. Như tham dục, như giận dữ, như tà kiến; các ác hành nơi ý bất thiện như thế, đấy gọi ý thô trọng Bồ tát Ma ha tát.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát, nhóm giới, nhóm định, nhóm huệ, nhóm giải thoát, nhóm giải thoát tri kiến đều chẳng thanh tịnh cũng gọi thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tâm xan tham, tâm phạm giới, tâm giận dữ, tâm lười nhác, tâm tán loạn, tâm ác huệ, cũng gọi thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát xa lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, cũng gọi thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát xa lìa nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không, cũng gọi thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát xa lìa khổ tập diệt đạo thánh đế, cũng gọi thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát xa lìa bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, cũng gọi thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát xa lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, cũng gọi thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát xa lìa đà la ni môn, tam ma địa môn, cũng gọi thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát xa lìa không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, cũng gọi thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát xa lìa Bồ tát Ma ha tát địa, cũng gọi thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát xa lìa năm nhãn, sáu thần thông, cũng gọi thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát xa lìa Phật mười lực; hoặc khiến tu hành bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám Phật bất cộng, cũng gọi thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát xa lìa pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, cũng gọi thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát xa lìa nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, cũng gọi thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát xa lìa hạnh Bồ tát Ma ha tát, chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cũng gọi thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tham chứng quả Dự lưu, hoặc chứng quả Nhất lai, hoặc chứng quảBất hoàn, hoặc chứng quả A la hán, hoặc chứng quảĐộc giác Bồ đề, cũng gọi thô trọng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khởi tưởng sắc, khởi tưởng thọ tưởng hành thức, cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng nhãn xứ, khởi tưởng nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng sắc xứ, khởi tưởng thanh hương vị xúc pháp xứ, cũng gọi thô trọng.
Khởi tưởng nhãn giới, khởi tưởng nhĩ tỷ thiệt thân ý giới, cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng sắc giới, khởi tưởng thanh hương vị xúc pháp giới, cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng nhãn thức giới, khởi tưởng nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới, cũng gọi thô trọng.
Khởi tưởng nhãn xúc, khởi tưởng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc, cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, khởi tưởng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng gọi thô trọng.
Khởi tưởng địa giới, khởi tưởng thủy hỏa phong không thức giới, cũng gọi thô trọng.
Khởi tưởng nhân duyên; khởi tưởng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng các pháp theo duyên sanh ra, cũng gọi thô trọng.
Khởi tưởng vô minh; khởi tưởng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ,ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não, cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng bố thí Ba la mật đa; khởi tưởng tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa, cũng gọi thô trọng.
Khởi tưởng nội không; khởi tưởng ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. cũng gọi thô trọng.
Khởi tưởng bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng khổ thánh đế, khởi tưởng tập diệt đạo thánh đế, cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng bốn tĩnh lự; khởi tưởng bốn vô lượng, bốn vô sắc định, cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng tám giải thoát; khởi tưởng tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, cũng gọi thô trọng.
Khởi tưởng đà la ni môn, tam ma địa môn, khởi tưởng tam ma địa môn, cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng Cực hỷ địa; khởi tưởng Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa, cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng năm nhãn, sáu thần thông, cũng gọi thô trọng.
Khởi tưởng Phật mười lực; khởi tưởng hoặc khiến tu hành bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám Phật bất cộng, cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng ba mươi hai tướng Đại sĩ, khởi tưởng tám mươi tùy hảo, cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng pháp vô vong thất, khởi tưởng tánh hằng trụ xả, cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng nhất thiết trí, khởi tưởng đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, cũng gọi thô trọng.
Khởi tưởng quả Dự lưu, khởi tưởng Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát, khởi tưởng chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cũng gọi thô trọng.
Khởi tưởng dị sanh, khởi tưởng Thanh văn, tưởng Độc giác, tưởng Bồ đề, tưởng Như Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát đem nguyện lực thần thông, cũng gọi thô trọng. Khởi tưởng địa ngục, khởi tưởng bàng sanh, tưởng quỷ giới, tưởng trời, tưởng người, tưởng nam, tưởng nữ cũng gọi thô trọng.
Khởi tưởng cõi Dục, tưởng cõi Sác, tưởng cõi Vô sắc; khởi tưởng thiện, tưởng bất thiện, tưởng vô ký; khởi tưởng thế gian, tưởng xuất thế gian; khởi tưởng hữu lậu, tưởng vô lậu; khởi tưởng hữu vi, tưởng vô vi, cũng gọi thô trọng.
Thiện Hiện! Các như thế thảy vô lượng vô biên chấp trước các pháp, bổ đặc già la hư vọng phân biệt và sở đẳng khởi nghiệp thân ngữ ý và chủng loại kia, tánh không kham nổi đều gọi thô trọng.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này xa lìa những thô trọng đã nói như trên, tự hành bố thí Ba la mật đa, cũng dạy người hành bố thí Ba la mật đa. nếu các hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần áo mặc cho áo mặc, cần xe cộ cho xe cộ, cần nhà cửa cho nhà cửa, cần tôi tớ cho tôi tớ, cần hầu vệ cho hầu vệ, cần hoa hương cho hoa hương, cần nghiêm cụ cho nghiêm cụ, cần phan lọng cho phan lọng, cần kỹ nhạc cho kỹ nhạc, cần đồ nằm cho đồ nằm, cần đèn sáng cho đèn sáng, cần giường tòa cho giường tòa, tùy các thứ cần dùng món món tư cụ, tùy thời tùy xứ thảy đều thí cho. Như tự đã làm, dạy người cũng vậy. Thí như thế rồi, đem căn lành đây cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng sở cầu nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn lợi vui hữu tình.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này tự hành tịnh giới Ba la mật đa, cũng dạy người hành tịnh giới Ba la mật đa. Tự hành an nhẫn Ba la mật đa, cũng dạy người hành an nhẫn Ba la mật đa. Tự hành tinh tiến Ba la mật đa, cũng dạy người hành tinh tiến Ba la mật đa. Tự hành tĩnh lự Ba la mật đa, cũng dạy người hành tĩnh lự Ba la mật đa. Tự hành bát nhã Ba la mật đa, cũng dạy người hành bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát này làm việc đây rồi, đem căn lành này cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng sở cầu nghiêm tịnh cõi Phật khiến mau viên mãn, lợi vui hữu tình.