Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tựa Hội thứ mười hai Phần Tịnh Giới ba La Mật Đa thứ 1. Quyển thứ 584. Hội thứ mười hai Phần Tịnh Giới Ba La Mật Đa thứ 1

25/04/201318:34(Xem: 16369)
Tựa Hội thứ mười hai Phần Tịnh Giới ba La Mật Đa thứ 1. Quyển thứ 584. Hội thứ mười hai Phần Tịnh Giới Ba La Mật Đa thứ 1

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 24

Tựa Hội thứ mười hai Phần Tịnh Giới ba La Mật Đa thứ 1
Quyển thứ 584
Hội thứ mười hai Phần Tịnh Giới Ba La Mật Đa thứ 1

Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Tôi nghe như vầy:

Một thưở, Đức Bạc Già Phạm Thế Tôn trụ rừng Thệ Đa vườn Cấp Cô Độc, tại thành Thất La Phiệt, đồng cùng ngàn hai trăm năm mươi người chúng Đại Bí sô.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo cụ thọ Xá Lợi Tử : Ngươi nay nên vì các Bồ tát Ma ha tát muốn chứng Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề tuyên nói tịnh giới Ba la mật đa.

Khi ấy, Xá Lợi Tử nhờ Phật giáo sắc, nương thần lực Phật, trước đem tịnh giới Ba la mật đa dạy răn dạy trao các Bồ tát Ma ha tát.

Khi đó, Mãn Từ Tử bèn hỏi cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Làm sao biết được Bồ tát trì giới? Làm sao biết được Bồ tát phạm giới? Sao là Bồ tát chỗ nên hành xứ? Sao là Bồ tát chỗ phi hành xứ?

Khi đó cụ thọ Xá Lợi Tử bèn đáp cụ thọ Mãn Từ Tử rằng: Nếu các Bồ tát an trụ tác ý Thanh văn Độc giác, đấy gọi là Bồ tát chỗ phi hành xứ. Nếu các Bồ tát an trụ chỗ ấy, nên biết đấy là Bồ tát phạm giới. Nếu các Bồ tát hành nơi phi xứ, các Bồ tát này quyết định chẳng thể nhiếp thọ được tịnh giới Ba la mật đa. Nếu các Bồ tát quyết định chẳng thể nhiếp thọ tịnh giới Ba la mật đa , các Bồ tát này bỏ thệ nguyện xưa. Nếu các Bồ tát bỏ thệ nguyện xưa, nên biết đấy là Bồ tát phạm giới.

Lại, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ tát tu hành bố thí hồi hướng Thanh văn hoặc bậc Độc giác, đấy gọi Bồ tát hành nơi phi xứ. Nếu Bồ tát hành nơi phi xứ, nên biết đấy là Bồ tát phạm giới. Nếu các Bồ tát an trụ cư gia hưởng năm diệu dục, phải biết chẳng là Bồ tát phạm giới. Nếu các Bồ tát khi hành bố thí hồi hướng Thanh văn hoặc bậc Độc giác, chẳng cầu Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phải biết đấy là Bồ tát phạm giới.

Ví như Vương tử nên thọ bao nhiêu giáo lệnh của Phụ vương, nên học những pháp mà Vương tử cần phải học. Nghĩa là các Vương tử đều nên học giỏi các chỗ công xảo và chỗ sự nghiệp, sở vi cưỡi voi, cưỡi ngựa, cưỡi xe và giỏi cầm cương ngựa, cái cung, cái nỏ, chiếc mâu nhọn, con dao, mâu dài cán, chiếc câu tròn; chạy vội, chạy thẳng, chạy quanh, nhảy vọt, trụ vững, thơ bút, ấn kiếm, toán số, học luận lý thanh minh, nhân minh thảy, và các thứ công xảo sự nghiệp khác nữa. Nếu các Vương tử năng siêng tập học các loại như thế thảy thuận ích phép vua, dù hưởng năm dục các thứ chơi giỡn mà chẳng bị vua cha quở trách. Như vậy, Bồ tát siêng cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tuy còn ở cư gia hưởng năm diệu dục các thứ vui chơi mà chẳng trái nghịch Nhất thiết trí trí.

Nếu các Bồ tát khi hành bố thí hồi hướng Thanh văn hoặc bậc Độc giác, các Bồ tát này hành nơi phi xứ, đối Nhất thiết trí bèn chẳng phải là đám ruộng. Hoặc thời hoặc lúc đối Nhất thiết trí đã thành chẳng ruộng, bấy giờ khi đó chẳng thể nhiếp thọ Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa được. Hoặc thời hoặc lúc chẳng thể nhiếp thọ Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, bấy giờ khi đó xa lìa sở cầu Nhất thiết trí trí. Hoặc thời hoặc lúc xa lìa sở cầu Nhất thiết trí trí, bấy giờ khi đó hành nơi phi xứ. Hoặc thời hoặc lúc hành nơi phi xứ, bấy giờ khi đó phạm giới Bồ tát.

Lại, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ tát tuy lại xuất gia thọ trì tịnh giới mà chẳng hồi hướng Vô thượng Bồ đề, các Bồ tát định chẳng thành tựu Bồ tát tịnh giới, các Bồ tát này chỉ có hư danh, trọn không thật nghĩa, nên biết loại kia chẳng được gọi Bồ tát.

Nếu các Bồ tát tuy ở cư gia mà thọ Tam quy thâm tín Tam Bảo, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, các Bồ tát này tuy lại thọ dụng đồ vui năm dục mà đối Bồ tát sở hành tịnh giới Ba la mật đa thường chẳng xa lìa, cũng được gọi kẻ chơn thật trì tịnh giới, cũng gọi an trụ Bồ tát tịnh giới.

Nếu các Bồ tát trụ Bồ tát giới, các Bồ tát này thường chẳng xa lìa Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa. Nếu các Bồ tát thường chẳng xa lìa Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, các Bồ tát này thường chẳng xa lìa Nhất thiết trí trí.

Nếu các Bồ tát tuy nhiều phát khởi phi lý tác ý tương ưng năm dục, mà khởi một niệm tâm tương ưng Vô thượng Bồ đề tức năng xô diệt, như chứa nhóm nhiều ngọc ca giá mạc ni, một phệ lưu ly năng tổng chói cướp. Ngọc báu phệ lưu ly giá trị vẻ sáng chói cướp tất cả ca giá mạt ni. Như vậy, Bồ tát tuy phát khởi nhiều tác ý phi lý tương ưng năm dục, nếu khởi một niệm tâm tương ưng Vô thượng Bồ đề khắp năng xô diệt được. Như đống ca giá mạt ni, một phệ lưu ly khắp năng chói cướp khiến mất vẻ sáng.

Lại, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ tát chấp trước các tướng mà hành bố thí, các Bồ tát này hành nơi phi xứ. Nếu các Bồ tát hành nơi phi xứ, các Bồ tát này phải biết gọi là phạm Bồ tát giới.

Bồ tát chẳng nên chấp trước các tướng mà hành bố thí, cũng lại chẳng nên chấp trước Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề mà hành bố thí. Vì cớ sao?

Mãn Từ Tử! Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề xa lìa các tướng. Sở dĩ vì sao? Vì Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng thảy, vô lượng vô biên chư Phật diệu pháp đều lìa các tướng.

Như vậy, Bồ tát đối sở hành thí chẳng nên chấp trước. Nếu các Bồ tát đối hành thí năng không chấp trước, các Bồ tát này thời năng nhiếp thọ được Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa , mau năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Khi ấy, Mãn Từ Tử bèn hỏi cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Nếu các Bồ tát cầu Nhất thiết trí trí mà tu bố thí, các Bồ tát này đâu chẳng chấp trước Nhất thiết trí trí? Nếu các Bồ tát khởi tâm chấp trước Nhất thiết trí trí, thành giới cấm thủ, làm sao gọi là trì Bồ tát giới?

Xá Lợi Tử nói: Nhất thiết trí trí xa lìa các tướng, chẳng nhiếp phương chỗ. Nhất thiết trí trí chẳng phải sắc uẩn, chẳng lìa sắc uẩn; chẳng phải thọ tưởng hành thức uẩn, chẳng lìa thọ tưởng hành thức uẩn.

Nhất thiết trí trí chẳng phải nhãn xứ, chẳng lìa nhãn xứ; chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, chẳng lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ.

Nhất thiết trí trí chẳng phải sắc xứ, chẳng lìa sắc xứ; chẳng phải thanh hương vị xúc pháp xứ, chẳng lìa thanh hương vị xúc pháp xứ.

Nhất thiết trí trí chẳng phải nhãn giới, chẳng lìa nhãn giới; chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý giới, chẳng lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý giới.

Nhất thiết trí trí chẳng phải sắc giới, chẳng lìa sắc giới; chẳng phải thanh hương vị xúc pháp giới, chẳng lìa thanh hương vị xúc pháp giới.

Nhất thiết trí trí chẳng phải nhãn thức giới, chẳng lìa nhãn thức giới; chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới, chẳng lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới.

Nhất thiết trí trí chẳng phải nhãn xúc, chẳng lìa nhãn xúc; chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc, chẳng lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc.

Nhất thiết trí trí chẳng phải nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, chẳng lìa nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, chẳng lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.

Nhất thiết trí trí chẳng phải địa giới, chẳng lìa địa giới; chẳng phải thủy hỏa phong không thức giới, chẳng lìa thủy hỏa phong không thức giới.

Nhất thiết trí trí chẳng phải nhân duyên, chẳng lìa nhân duyên. Chẳng phải đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; chẳng lìa đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.

Nhất thiết trí trí chẳng phải vô minh, chẳng lìa vô minh. Chẳng phải hành, thức, danh sắc, sáu chỗ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử; chẳng lìa hành, thức, danh sắc, sáu chỗ, xúc, thọ, ái thủ, hữu, sanh, lão tử.

Nhất thiết trí trí chẳng phải bố thí Ba la mật đa, chẳng lìa bố thí Ba la mật đa. Chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa; chẳng lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa.

Nhất thiết trí trí chẳng phải nội không, chẳng lìa nội không. Chẳng phải ngoại không, nội ngoại không , không không, đại không, thắng nghĩa không , hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không; chẳng lìa ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không , hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.

Nhất thiết trí trí chẳng phải chơn như, chẳng lìa chơn như. Chẳng phải pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới; chẳng lìa pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới.

Nhất thiết trí trí chẳng phải khổ thánh đế, chẳng lìa khổ thánh đế; chẳng phải tập diệt đạo thánh đế, chẳng lìa tập diệt đạo thánh đế.

Nhất thiết trí trí chẳng phải bốn tĩnh lự, chẳng lìa bốn tĩnh lự. Chẳng phải bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Nhất thiết trí trí chẳng phải bốn niệm trụ, chẳng lìa bốn niệm trụ. Chẳng phải bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; chẳng lìa bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi.

Nhất thiết trí trí chẳng phải không giải thoát, chẳng lìa không giải thoát môn. Chẳng phải vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; chẳng lìa vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.

Nhất thiết trí trí chẳng phải tám giải thoát, chẳng lìa tám giải thoát. Chẳng phải tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ; chẳng lìa tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ.

Nhất thiết trí trí chẳng phải đà la ni môn, chẳng lìa đà la ni môn; chẳng phải tam ma địa môn, chẳng lìa tam ma địa môn.

Nhất thiết trí trí chẳng phải tịnh quán địa, chẳng lìa Tịnh quán địa. Chẳng phải Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ tát địa, Như Lai địa; chẳng lìa Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ tát địa, Như Lai địa.

Nhất thiết trí trí chẳng phải Cực hỷ địa, chẳng lìa Cực hỷ địa. Chẳng phải Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa; chẳng lìa Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa.

Nhất thiết trí trí chẳng phải năm nhãn, chẳng lìa năm nhãn; chẳng phải sáu thần thông, chẳng lìa sáu thần thông.

Nhất thiết trí trí chẳng phải Phật mười lực, chẳng lìa Phật mười lực. Chẳng phải bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng lìa bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Nhất thiết trí trí chẳng phải ba mươi hai tướng Đại Sĩ, chẳng lìa ba mươi hai tướng Đại Sĩ; chẳng phải tám mươi tùy hảo, chẳng lìa tám mươi tùy hảo.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp vô vong thất, chẳng lìa pháp vô vong thất; chẳng phải tánh hằng trụ xả, chẳng lìa tánh hằng trụ xả.

Nhất thiết trí trí chẳng phải nhất thiết trí, chẳng lìa nhất thiết trí; chẳng phải đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, chẳng lìa đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.

Nhất thiết trí trí chẳng phải quả Dự lưu, chẳng lìa quả Dự lưu. Chẳng phải quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A la hán, Độc giác Bồ đề; chẳng lìa quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A la hán, Độc giác Bồ đề.

Nhất thiết trí trí chẳng phải các hạnh Bồ tát Ma ha tát, chẳng lìa các hạnh Bồ tát Ma ha tát; chẳng phải chư Phật Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chẳng lìa chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp hữu sắc, chẳng lìa pháp hữu sắc; chẳng phải pháp vô sắc, chẳng lìa pháp vô sắc.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp hữu kiến, chẳng lìa pháp hữu kiến; chẳng phải pháp vô kiến, chẳng lìa pháp vô kiến.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp hữu đối, chẳng lìa pháp hữu đối; chẳng phải pháp vô đối, chẳng lìa pháp vô đối.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp hữu lậu, chẳng lìa pháp hữu lậu; chẳng phải pháp vô lậu, chẳng lìa pháp vô lậu.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp hữu vi, chẳng lìa pháp hữu vi; chẳng phải pháp vô vi, chẳng lìa pháp vô vi. Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp hữu lượng, chẳng lìa pháp hữu lượng; chẳng phải pháp vô lượng, chẳng lìa pháp vô lượng.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp quá khứ, chẳng lìa pháp quá khứ; chẳng phải pháp vị lai hiện tại, chẳng lìa pháp vị lai hiện tại.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp thiện, chẳng lìa pháp thiện; chẳng phải pháp bất thiện vô ký, chẳng lìa pháp bất thiện vô ký.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp buộc cõi Dục, chẳng lìa pháp buộc cõi Dục; chẳng phải pháp buộc cõi Sắc Vô Sắc, chẳng lìa pháp buộc cõi Sắc Vô Sắc.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp thấy bị dứt, chẳng lìa pháp thấy bị dứt. Chẳng phải pháp tu bị không dứt; chẳng lìa pháp tu bị dứt,không dứt.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp học, chẳng lìa pháp học; chẳng phải pháp không học, chẳng học chẳng không học; chẳng lìa pháp không học, chẳng học chẳng không học. Vì Nhất thiết trí trí xa lìa các pháp như thế nên chẳng thể chấp lấy. Vì Nhất thiết trí trí xa lìa các tướng không pháp khá được, không sở đắc nên chẳng thể chấp lấy.

Nhất thiết trí trí đã chẳng phải có pháp, cũng chẳng phải không pháp, bởi nhân duyên đây nên chẳng thể chấp lấy.Vậy nên, Bồ tát tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới hồi hướng Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mặc dù cầu chứng được Nhất thiết trí trí mà chẳng gọi là nhiếp vào giới cấm thủ được. Nếu các Bồ tát tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, hồi hướng Thanh văn hoặc bậc Độc giác, chấp lấy tịnh giới, các Bồ tát này mất Bồ tát giới, phải biết gọi là phạm giới Bồ tát.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử hỏi Xá Lợi Tử rằng: Nếu các Bồ tát tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới hồi hướng Thanh văn hoặc bậc Độc giác, trái phạm giới Bồ tát đã thọ, các Bồ tát này vì có nhân duyên có thể hoàn lại tịnh chăng?

Xá Lợi Tử đáp: Nếu Bồ tát kia đã hồi hướng Thanh văn hoặc bậc Độc giác rồi mà chưa thấy Thánh đế, chưa chứng thật tế, hoặc có nhân duyên dễ có thể hoàn tịnh. Nếu thấy Thánh đế, chứng thật tế rồi, dị kiến sâu nặng khó hoàn tịnh được.

Khi ấy, Mãn Từ Tử lại hỏi cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Nếu các Bồ tát cầu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng nên cho kia chứng thật tế ư?

Xá Lợi Tử đáp: Như vậy, như vậy. Nếu các Bồ tát cầu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, chẳng nên cho kia chứng nơi thật tế.

Mãn Từ Tử nói: Vì nhân duyên nào nếu các Bồ tát cầu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, chẳng nên cho kia chứng nơi thật tế ?

Xá Lợi Tử nói: Có các Bồ tát cầu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, nếu mau cho kia chứng nơi thật tế, các Bồ tát này hoặc gặp nhân duyên trụ ở Thanh văn hoặc bậc Độc giác, khó nổi khiến khởi tâm Nhất thiết trí. Hoặc gặp Chánh pháp Như Lai ẩn mất, chẳng cầu chứng được Nhất thiết trí trí, bấy giờ bèn chứng Độc giác Bồ đề, vào cõi Vô dư y Niết bàn, rốt ráo chẳng chứng được Vô thượng Bồ đề.

Bởi nhân duyên đây, nếu các Bồ tát cầu tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng nên cho kia mau chứng thực tế, cho đến chưa ngồi tòa diệu Bồ đề chẳng nên cho kia chứng nơi thật tế. Nếu khi đã ngồi tòa Bồ đề, mới nên cho kia chứng nơi thật tế để dứt tất cả chướng, chứng Đại Bồ đề.

Lại, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ tát tu hành tịnh giới Ba la mật đa, chẳng nên thọ trì tịnh giới Nhị thừa, bởi tịnh giới kia chẳng thể nhiếp thọ được Nhất thiết trí trí, chẳng thể dẫn phát được Nhất thiết trí trí, chẳng thể nhiếp thọ được Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn được Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa.

Lại, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ tát tâm làm phân hạn nhiêu ích hữu tình, tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, các Bồ tát này chẳng thể nhiếp thọ Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa được, chẳng thể viên mãn Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa được. Vì cớ sao? Mãn Từ Tử! Vì Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa không phân hạn vậy.

Nếu các Bồ tát tâm không phân hạn nhiêư ích hữu tình, tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, các Bồ tát này mơí năng nhiếp thọ được Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, cũng năng viên mãn được Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa. Các Bồ tát này Độc giác nhân duyên đây gọi là thành tựu Bồ tát tịnh giới.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử hỏi Xá Lợi Tử rằng: Vì sao gọi là Bồ tát trì giới ?

Xá Lợi Tử đáp: Nếu các Bồ tát tùy chỗ thi hành, tất cả hồi hướng Vô thượng Bồ đề, cùng các hữu tình làm nhiêu ích lớn, tận đời vị lai không gián không đoạn. Phải biết đấy là Bồ tát trì giới.

Nếu các Bồ tát tùy chỗ hộ giới, tất cả hồi hướng Vô thượng Bồ đề, cùng các hữu tình làm nhiêu ích lớn, tận đời vị lai không gián không đoạn. Phải biết đấy là Bồ tát trì giới.

Nếu các Bồ tát dù lâu đại kiếp số cát Căng già tu hành tịnh giới khiến được viên mãn, mà chẳng hồi hướng Vô thượng Bồ đề, cùng các hữu tình làm nhiêu ích lớn, tận đời vị lai không gián không đoạn, các Bồ tát này chẳng thể nhiếp thọ được Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa , chẳng thể viên mãn được Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa .

Nếu các Bồ tát dù lâu đại kiếp số cát Căng già tu hành tịnh giới khiến được viên mãn, mà tâm hồi hướng Thanh văn Độc giác, các Bồ tát này chẳng thể nhiếp thọ được Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, chẳng thể viên mãn được Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa.

Nếu các Bồ tát dù chẳng thọ trì tịnh giới Nhị thừa, mà chẳng gọi là kẻ phạm tịnh giới. Nếu các Bồ tát hồi hướng Thanh văn Độc giác, dù thọ trì nhiều tịnh giới Nhị thừa mà đáng gọi là kẻ phạm tịnh giới. Vì cớ sao? Mãn Từ Tử! nếu các Bồ tát hồi hướng Thanh văn hoặc bậc Độc giác, phải biết đấy gọi hành nơi phi xứ. Nói phi xứ ấy tức bậc Nhị thừa, vì chẳng phải chỗ sở hành các Bồ tát vậy.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử hỏi Xá Lợi Tử rằng: Vì sao gọi là Bồ tát hành xứ ?

Xá Lợi Tử đáp: Tác ý tương ưng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa; phải biết đấy là chỗ hành của Bồ tát.

Lại, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng nội không, ngoại không, nội ngoại không , không không, đại không, thắng nghĩa không , hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không; phải biết đấy là chỗ hành Bồ tát.

Lại, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng chơn như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới; phải biết đấy là chỗ hành Bồ tát .

Lại, Mãn Từ Tử! Bồ tát tác ý tương ưng sở học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; phải biết đấy là chỗ hành Bồ tát.

Lại, Mãn Từ Tử! Bồ tát tác ý tương ưng sở học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; phải biết đấy là chỗ hành Bồ tát.

Lại, Mãn Từ Tử! Bồ tát tác ý tương ưng sở học không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; phải biết đấy là chỗ hành Bồ tát.

Lại, Mãn Từ Tử! Bồ tát tác ý tương ưng sở học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ; phải biết đấy là chỗ hành Bồ tát.

Lại, Mãn Từ Tử! Bồ tát tác ý tương ưng sở học Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa; phải biết đấy là chỗ hành Bồ tát.

Lại, Mãn Từ Tử! Bồ tát tác ý tương ưng sở học đà la ni môn, tất cả tam ma địa môn; phải biết đấy là chỗ hành Bồ tát.

Lại, Mãn Từ Tử! Bồ tát tác ý tương ưng sở học năm nhãn, sáu thần thông; phải biết đấy là chỗ hành Bồ tát.

Lại, Mãn Từ Tử! Bồ tát tác ý tương ưng sở học

Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cho đến Nhất thiết trí trí; phải biết đấy là chỗ hành Bồ tát.

Nếu các Bồ tát chắc vậy, trụ vậy, hành chỗ hành xứ đây, nên biết đấy là Bồ tát trì giới.

Lại, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ tát tuy ở nơi cu gia lâu đại kiếp số cát Căng già hưởng năm diệu dục, mà chẳng phát khởi tâm hướng tới bậc Thanh văn Độc giác, các Bồ tát này nên biết chẳng gọi phạm Bồ tát giới. Vì cớ sao?

Mãn Từ Tử! Các Bồ tát ấy ý vui tăng thượng, vì không lui hoại vậy. Những gì gọi là ý vui tăng thượng? Nghĩa là định tới cầu Nhất thiết trí trí. Ví như có người đối của cải kẻ kjác thật chẳng cướp trộm, oan uổng bị cầm tù, tuy lâu nhiều thời mà vui thắng ý thường không lui hoại. Đối củ cải của người khác không tâm cướp trộm, mặc dù cùng người ác đồng bị tù cấm mà chẳng gọi lá giặc. Như vậy, Bồ tát tuy ở cư gia lâu đến đại kiếp số cát Căng già hưởng năm diệu dục, mà vui thắng ý thường chẳng lui hoại, nghĩa là thường tới cầu Nhất thiết trí trí, thường chẳng phát khởi tâm Nhị thừa, vậy nên chẳng gọi phạm Bồ tát giới.

Nếu cá Bồ tát tuy lâu đại kiếp số cát Căng già tu hạnh phạm hạNhị thừa mà khởi tâm hồi hướng bậc Nhị thừa, nên biết chẳng gọi kẻ trì tịnh giới.

Vì cớ sao? Vì kia bỏ tịnh giới Ba la mật đa, an trụ giới Thanh văn Độc giác thừa. Nếu cá Bồ tát an trụ giới Thanh văn Độc giác thừa, chẳng gọi Bồ tát. Sở dĩ vì sao? Vì các Bồ tát này Xá Lợi Tử lìa tịnh giới Ba la mật đa, không tâm tới cầu Nhất thiết trí trí, định chẳng thể chứng được Vô thượng Bồ đề.

Lại, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ tát khởi tâm như vầy: Ta phải tinh siêng lâu bấy nhiêu kiếp trôi lăn sanh tử, định sẽ dẫn khởi Nhất thiết trí trí. Cá Bồ tát đây do khởi tâm này chẳng thể chứng được Nhất thiết trí trí.

Khi ấy, Mãn Từ Tử bèn hỏi cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Nếu các Bồ tát tâm khởi làm phân hạn rằng: “ Ta phải tinh siêng lâu bấy nhiêu kiếp định sẽ chứng được Nhất thiết trí trí “, tâm mong cầu như thế có lầm lỗi gì mà chẳng thể được Nhất thiết trí trí?

Xá Lợi Tử đáp: Các Bồ tát ấy chán sợ sanh tử, mau cầu Bồ đề. Do tâm mau nên bèn làm phân hạn. Bởi làm phân hạn, chẳng thể thành xong được căn lành thù thắng. Bởi sợ sanh tử, hoặc cầu quả Thanh văn, Độc giác thừa. Chẳng phải làm phân hạn, mà năng nhiếu ích được vô lượng hữu tình. Chẳng phải làm phân hạn mà năng viên mãn được vô lượng bố thí Ba la mật đa. Chẳng phải chẳng viên mãn vô lượng bố thí Ba la mật đa mà năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Nếu các Bồ tát làm phân hạn, dù cho trải qua đại kiếp số cát Căng già tu hành bố thí Ba la mật đa, mà cũng chẳng thể viên mãn được bố thí Ba la mật đa. Bồ tát bố thí Ba la mật đa không ngằn mé, nên Nhất thiết trí trí cũng không ngằn mé. Nếu chẳng viên mãn Bồ tát bố thí Ba la mật đa mà năng chứng được Nhất thiết trí trí, không có lẽ ấy. Vậy nên, Bồ tát muốn cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng nên khởi tâm làm phân hạn mau cầu chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ tát cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, các Bồ tát này quyết đình tâm chẳng nên làm phân hạn tu hành bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa. Hoặc thời hoặc lúc ở lâu sanh tử tu hạnh Bồ tát, bấy giờ khi đó sở tu bố thí cho đến bát nhã Ba la mật đa dần khéo thành thục, kham năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Như đồ đất mới đựng đầy nước trong để phơi nắng giữa ngày, như như nhiều thời được thấm nhuần, như vậy như vậy đồ ấy càng thêm bền chắc. Như vậy, Bồ tát hoặc thời hoặc lúc ở lâu sanh tử tu hạnh Bồ tát, bấy giờ khi đó sở tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đa dần khéo thành thục, kham năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Lại, Mãn Từ Tử! Như chiếc bình sứ mới đựng đầy dầu tô như như lâu ngày, như vậy như vậy mỡ dầu thấm dần, do đây bền kín có sức kham năng. Như vậy, Bồ tát hoặc thời hoặc lúc ở lâu sanh tử tu hạnh Bồ tát, bấy giờ khi đó dần gặp nhiều Phật và đệ tử Phật tin kính cúng dường.

Hoặc thời hoặc lúc dần gặp nhiều Phật và đệ tử Phật tin kính cúng dường, bấy giờ khi đó dần nhờ nhiều Phật và đệ tử Phật dạy răn dạy trao.

Hoặc thời hoặc lúc dần gặp nhiều Phật và đệ tử Phật dạy răn dạy trao, bấy giờ khi đó được nghe thuyết bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa.

Hoặc thời hoặc lúc dần được nghe thuyết bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa, bấy giờ khi đó dần năng tu tập được bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa.

Hoặc thời hoặc lúc khéo năng tu tập được bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa, bấy giờ khi đó dần viên mãn nữa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa.

Hoặc thời hoặc lúc dần viên mãn nữa bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa, bấy giờ khi đó dần được gần kề Nhất thiết trí trí.

Hoặc thời hoặc lúc dần được gần kề Nhất thiết trí trí, bấy giờ khi đó dần dứt các chướng, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Lại, Mãn Từ Tử! Các Bồ tát Ma ha tát hoặc thời hoặc lúc khởi tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, bấy giờ khi đó không cho tâm xen khởi duyên cảnh khác. Hoặc thời hoặc lúc không cho tâm xen khởi cảnh khác, bấy giờ khi đó bố thí, tịnh giới an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa nối nhau thấm nơi tâm dần được viên mãn. Vì nhờ tâm nối nhau viên mãn dần, nên gọi tâm năng dẫn phát Nhất thiết trí. Tâm đây nồi nhau không hở không dứt, cho đến chứng được Nhất thiết trí trí.

Như bình chứa dầu tô như như lâu ngày, như vậy như vậy khí tô thấm nhiễm khắp bình, chẳng chịu khí nào đến huân nhiễm được. Như vậy, chúng Bồ tát Ma ha tát khởi tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, tâm duyên cảnh khác chẳng thể xen tạp được. Do không xen tạp, bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa huân tập viên mãn. Các ác ma quân muốn rình làm rối, quyết chẳng thể được. Vì cớ sao?

Mãn Từ Tử! Nếu đối cảnh đây ma rình làm rối, các Bồ tát này tức thì khởi tâm tương ưng Nhất thiết trí trí đối cảnh đây, do đấy ác ma chẳng làm gì được. Như vậy, Bồ tát hoặc thời hoặc lúc ở lâu sanh tử tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đa, bấy giờ khi đó dần thờ nhiều Phật và các đệ tử.

Hoặc thời hoặc lúc dần thờ nhiều Phật và các đệ tử, bấy giờ khi đó nghe thuyết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đa .

Hoặc thời hoặc lúc thuyết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đa, bấy giờ khi đó năng siêng tinh tiến suy gẫm đúng lý đã thuyết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đa.

Hoặc thời hoặc lúc năng siêng tinh tiến suy gẫm đúng lý đã thuyết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đa, bấy giờ khi đó năng siêng tinh tiến không trái tu tập đã thuyết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đa.

Hoặc thời hoặc lúc năng siêng tinh tiến không trái tu tập đã thuyết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đa, bấy giờ khi đó nơi tâm nối nhau bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa dần được viên mãn.

Hoặc thời hoặc lúc tâm nối nhau bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa dần được viên mãn, bấy giờ khi đó dần được gần kề Nhất thiết trí trí. Nhờ đây mau chứng Vô thượng Bồ đề, cùng các hữu tình làm nhiêu ích lớn.

Lại, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ tát muốn khuyên dẫn người thọ trì tịnh giới, các Bồ tát này trước nên tự khởi pháp tâm tâm sở tương ưng tịnh giới, nhiên hậu khuyên người thọ trì tịnh giới. Đã khuyên dẫn người thọ trì tịnh giới rồi, lại khiến hồi hướng Nhất thiết trí trí. Như vậy, Bồ tát tự tu căn lành hồi hướng sở cầu Nhất thiết trí trí, lại năng khuyên dẫn các hữu tình khác khởi tâm thanh tịnh thọ trì tịnh giới. Thọ trì giới rồi, lại khiến hồi hướng Nhất thiết trí trí, mới có thể gọi là đối các thiện nam tử thiện nữ nhân thảy năng khéo hóa đạo.

Nếu các Bồ tát dạy răn dạy trao kẻ tới Thanh văn thừa khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí, các Bồ tát này hơn kẻ Thanh văn thừa.

Nếu người Thanh văn dạy răn dạy trao kẻ tới Bồ tát thừa khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí, người Thanh văn này chẳng hơn kẻ Bồ tát mà là Bồ tát càng hơn hơn kia.

Như có nam tử cõng người chơn kim xa tới nước khác, người chơn kim này vẻ sáng nhan mạo hơn nam tử kia. Như vậy, nếu có người Thanh văn thừa số cát Căng già dạy răn dạy trao kẻ tới Bồ tát thừa khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí. Một Bồ tát đây hơn tất cả người Thanh văn thừa.

Lại như nam tử cõng người thủy tinh xa tới nước khác, người thủy tinh đây vẻ sáng nhan mạo hơn nam tử kia. Như vậy, người Thanh văn thừa số cát Căng già thế giới Tam thiên đại thiên dạy răn dạy trao kẻ tới Bồ tát thừa khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí. Một Bồ tát đây hơn tất cả người Thanh văn thừa kia. Vì cớ sao? Mãn Từ Tử! Các người Thanh văn hoặc thời hoặc lúc dạy răn dạy trao một Bồ tát đây, bấy giờ khi đó càng hơn tất cả người Thanh văn.

Giả sử các người Thanh văn trụ lâu kiếp số cát Căng già dạy răn dạy trao một Bồ tát đây khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí, một Bồ tát đây công đức căn lành ngày đêm tăng trưởng.

Lại, Mãn Từ Tử! Ví như vàng thật thường hằng trui rèn, sắc sáng càng thịnh. Bồ tát cũng vậy, hoặc thời hoặc lúc chúng các Thanh văn dạy răn dạy trao khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí; bấy giờ khi đó Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa càng được trong sáng.

Hoặc thời hoặc lúc Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa càng được trong sáng, bấy giờ khi đó càng hơn bấy nhiêu công đức tất cả người Thanh văn thừa. Bởi công đức của kia hồi hướng Niết bàn, chẳng năng cầu tới Nhất thiết trí trí.

Lại, Mãn Từ Tử! Như ngọc phệ lưu ly hoặc thời hoặc lúc kẻ thợ mài lâu, bấy giờ khi đó sắc sáng càng trong. Như vậy, Bồ tát hoặc thời hoặc lúc chúng các Thanh văn dạy răn dạy trao khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí; bấy giờ khi đó Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa càng được trong sáng.

Hoặc thời hoặc lúc Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa càng được trong sáng, bấy giờ khi đó càng hơn bao nhiêu công đức tất cả người Thanh văn thừa.

Bởi công đức của kia hồi hướng Niết bàn,chẳng năng cầu tới Nhất thiết trí trí.

Lại, Mãn Từ Tử! Như thợ vẽ khéo dùng các màu sắc vẽ làm tượng người. Như như trước lấy một sắc vẽ làm mô dạng, với khi sau điền lấp khắp các màu. Hoặc thời hoặc lúc dùng các màu sắc dần hồi điền lấp, bấy giờ khi đó dung mạo hình sắc lại càng đẹp lạ hơn họa sĩ kia bội trăm ngàn vạn.

Như vậy, Bồ tát hoặc thời hoặc lúc chúng các Thanh văn dạy răn dạy trao khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí; bấy giờ khi đó Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa càng được trong sáng.

Hoặc thời hoặc lúc Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa càn g được trong sáng, bấy giờ khi đó càng hơn bao nhiêu công đúc tất cả người Thanh văn thừa.

Bởi công đức của kia hồi hướng Niết bàn, chẳng năng cầu tới Nhất thiết trí trí, mà Bồ tát đây do các Thanh văn dạy răn dạy trao sở tu các thứ công đức căn lành ngày đêm tăng trưởng.

Lại, Mãn Từ Tử! Như người trồng cây theo thời tưới bón, sửa sang giữ gìn, hoặc thời hoặc lúc tưới bón cây này giữ gìn sửa sang, bấy giờ khi đó cây ấy tăng trưởng cao lớn dần.

Như vậy, Bồ tát được vô lượng Thanh văn dạy răn dạy trao khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí, mà Bồ tát này hoặc thời hoặc lúc được vô lượng Thanh văn dạy răn dạy trao khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí; bấy giờ lúc đó Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa lần hồi tăng trưởng.

Hoặc thời hoặc lúc Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa lần hồi tăng trưởng, bấy giờ khi đó hơn khắp tất cả Thanh văn Độc giác. Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa càng sáng càng thịnh, lần hồi gần kề bản sở nguyện cầu Nhất thiết trí trí, do đây hơn khắp Thanh văn Độc giác.

Lại, Mãn Từ Tử! Ví như có người cầm chút lửa đóm đốt cỏ cây khô, hoặc thời hoặc lúc lửa nương cỏ cây, bấy giờ khi đó lửa tăng trưởng dần. Hoặc thời hoặc lúc lửa tăng trưởng dần, bấy giờ khi đó lửa ngọn càng lớn, lần hồi càng soi sáng được do tuần, nhiều trăm ngàn do tuần, cho đến vô lượng.

Như vậy, Bồ tát được vô lượng Thanh văn dạy răn dạy trao khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí, mà Bồ tát này hoặc thời hoặc lúc vô lượng Thanh văn dạy răn dạy trao khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí; bấy giờ khi đó Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa lần hồi sáng thịnh.

Hoặc thời hoặc lúc Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa lần hồi sáng thịnh, bấy giờ khi đó hơn vô lượng bao nhiêu công đức người Thanh văn thừa dạy răn dạy trao. Bởi công đúc của kia hồi hướng Niết bàn, chẳng năng cầu tới Nhất thiết trí trí.

Lại, Mãn Từ Tử! Ví như có người đào mỏ lấy vàng, vàng ra đem bán sở đắc giá trị, người mua vàng quí hơn người bán kia bội nhiều trăm ngàn.

Như vậy, Bồ tát hoặc thời hoặc lúc được vô lượng Thanh văn dạy răn dạy trao khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí; bấy giờ khi đó Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa hơn bao nhiêu công đúc Thanh văn kia bội nhiều trăm ngàn. Bởi công đúc của kia hồi hướng Niết bàn, chẳng năng cầu tới Nhất thiết trí trí. Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa quyết định cầu tới Nhất thiết trí trí cùng loại hữu tình làm nhiêu ích lớn.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử thưa Xá Lợi Tử rằng: Bồ tát trọn nên diệu pháp rộng lớn. Nghĩa là các Bồ tát dạy răn dạy trao kẻ tới Thanh văn thừa khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí, các Bồ tát này hơn kẻ Thanh văn thừa.

Nếu người Thanh văn dạy răn dạy trao kẻ tới Bồ tát thừa khiến siêng tu học Bồ tát Tịnh giới Ba la mật đa, hồi hướng cầu tới Nhất thiết trí trí, người Thanh văn này chẳng hơn kẻ Bồ tát. Đấy là Bồ tát càng hơn nơi kia!

Khi ấy, Xá Lợi Tử ấn định cụ thọ Mãn Từ Tử! rằng: Như vậy, như vậy. Bồ tát trọn nên diệu pháp rộng lớn hơn khắp Độc giác và Thanh văn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com