- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (24 tập)
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 2
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 3
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 4
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 5
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 6
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 7
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 8
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 9
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 10
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 11
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 12
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 13
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 14
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 15
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 16
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 17
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 18
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 19
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 20
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 21
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 22
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 23
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 24
- Tiểu sử dịch giả HT Thích Trí Nghiêm
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 24
Quyển thứ 580
Hội thứ mười một Phần Bố Thí Ba La Mật Đa thứ 2
Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Bồ tát Ma ha tát muốn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, trong tất cả hành rất trước nên học bố thí Ba la mật đa không nhiễm. Vì cớ sao?
Mãn Từ Tử! Nếu học bố thí Ba la mật đa, từ đời vô thỉ đến nay bẩn keo rít đã quen tức bèn xa lìa được, thân tâm nối nhau, dần được gần gũi Nhất thiết trí trí.
Vậy nên, Bồ tát hoặc thời hoặc khi tác ý tương Nhất thiết trí trí nối nhau hiện tiền, bấy giờ lúc này lần hồi được gần Nhất thiết trí trí. Hoặc thời hoặc khi lần hồi được Nhất thiết trí trí, bấy giờ lúc này xa dần Thanh văn và bậc Độc giác. Hoặc thời hoặc khi xa dần Thanh văn và bậc Độc giác, bấy giờ lúc này lại dần gần kề Nhất thiết trí trí.
Lại, Mãn Từ Tử! Như khi trời mưa để vò chỗ cao hứng nước dần đầy, khi đầy như vậy do các giọt mưa rót luôn lâu thời, chẳng phải chỉ khi trước hay lúc sau. Như vậy, Bồ tát cầu Nhất thiết trí chẳng phải chỉ khởi sơ tâm tức năng chứng được, cũng chẳng phải do thời sau ngồi tòa Bồ đề khởi tâm tối hậu độc năng chứng được. Nhưng do sơ tâm nối nhau, cho đến ngồi tòa Bồ đề khởi tâm tối hậu lần hồi giúp nhau được Nhất thiết trí. Cầu Nhất thiết trí, tâm trước giữa sau không chẳng năng dẫn Nhất thiết trí, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cần do các tâm lần hồi nối nhau đè dứt chướng pháp mới thành xong vậy.
Lại, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ tát muốn mau chứng được Vô thượng Bồ đề chẳng nên khiến tâm có điều xen tạp.
Khi ấy, Mãn Từ Tử bèn hỏi cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Ngang đâu gọi là chúng các Bồ tát tâm không xen tạp?
Xá Lợi Tử đáp: Nếu các Bồ tát khi tác ý phi lý hiện tại tiền, năng chính quán sát đấy năng tùy thuận Nhất thiết trí trí, chẳng là trái nghịch.
Các Bồ tát đây năng như thật biết: Ta nay sở khởi tác ý phi lý, đối Nhất thiết trí làm kẻ bạn năng giúp. Nghĩa là ta đã khởi tác ý phi lý năng dẫn có thân, khiến đối sanh tử nối nhau ở lâu nhiêu ích hữu tình. Thân ta nếu không tác ý phi lý giúp dẫn khiến ở lâu, tức bèn dứt diệt hãy chẳng năng khiến tự hành viên mãn, huống năng nhiêu ích các hữu tình khác. Ngang đây gọi là chúng các Bồ tát tâm không xen tạp.
Lại, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ tát năng quán các pháp hoặc thuận hoặc nghịch đều năng trợ dẫn Nhất thiết trí trí, các Bồ tát đây phương tiện khéo léo quán tất cả pháp đều năng tùy thuận sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, chẳng bị tâm thuận nghịch làm xen tạp. năng đối nghịch cảnh tâm chẳng sanh giận, đối trong thuận cảnh tâm chẳng khởi ưa, hoặc thuận hoặc nghịch đều năng chính biết, làm duyên trợ giúp dẫn Nhất thiết trí. Như vậy, Bồ tát đối tất cả thời trong tất cả cảnh tâm không xen tạp.
Lại, Mãn Từ Tử! Ví như có người bị kẻ khác bắt cầm tù, sắp đem đến chỗ giết. Người ấy run sợ, không còn tưởng nào khác, chỉ khởi nghĩ này: Ta nay chẳng lâu quyết sẽ bị nó giết hại. Chúng các Bồ tát cũng lại như thế. Nếu thường suy gẫm Nhất thiết trí trí, không tác ý nào khác xen khởi ở trong, các Bồ tát này ở tất cả thời chẳng bị các tâm khác làm xen tạp.
Lại, Mãn Từ Tử! Ví như có người mang nhiều của báu vào nơi đồng nội, trong ấy có nhiều giặc cướp hung bạo. Bấy giờ người kia không còn tưởng nào, chỉ khởi nghĩ này: Ta với lúc nào sẽ ra khỏi chổ hiểm nạn như đây được đến cõi nước giàu vui yên ổn? Chúng các Bồ tát cũng lại như thế. Nếu thường suy gẫm Nhất thiết trí trí, các tác ý khác không cho khởi được, các Bồ tát này thân ý thanh tịnh, chẳng bị tâm khác làm xen tạp.
Lại, Mãn Từ Tử! Ví như có người từng làm cướp trộm, bị vua gạn bắt. Người ấy sợ kinh lén vào khu chợ núp cho ồn tạp, muốn tự ẩn dấu. Chính gặp trong chỗđó rung linh đánh trống, tuyên đọc giáo lệnh nhà vua đích muốn bắt y. Người kia bấy giờ không còn tưởng nào khác, chỉ khởi nghĩ này: Đừng cho kia nhận biết nay ta ở đây mà bị bắt trói! Chúng các Bồ tát cũng lại như thế, muốn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, nếu thường suy gẫm Nhất thiết trí trí không cho xen khởi các tác ý khác, các Bồ tát này với khi tu hành chẳng bị tâm khác làm xen tạp.
Lại, Mãn Từ Tử! Ví như thợ vàng, có kẻ mang trăm vàng đến trao tận tay kia bảo rằng: Của đây nhà vua khiến giao ngươi phải làm các thứ đồ trang nghiêm thật đẹp. Nên gấp dụng ý một tháng cho xong. Đúng kỳ chẳng xong hoặc lại thô xấu, sẽ chém đầu ngươi quyết chẳng tha tội. Thhợ vàng nghe rồi thân tâm run sợ, ngày đêm tinh siêng đem sức khéo giỏi cố làm, chưa từng tạm khởi ý nghĩ nào khác, chỉ khởi nghĩ này: Ta phải làm sao như vua ra kỳ hạn đồ đẹp thành xong. Thợ kia cho đến đồ đẹp chưa thành, thời gian giữa dù có những việc ăn uống thảy mà đều chẳng khởi tưởng ăn uống thảy, chỉ đối cục vàng tâm tâm nối nhau nghĩ làm cách nào biến chế làm kiểu đồ trang nghiêm thật đẹp. Vì cớ sao? Mãn Từ Tử! Kia rất yêu chuộng thân mạng mình vậy. Nơi đấy thợ vàng đúng kỳ thành xong đồ trang nghiêm đẹp tuyệt, cầm đến chỗ vua mà tâu vua rằng: Vua đã khiến làm đồ trang nghiêm đẹp, nay đã trọn thành. Vua thấy vui mừng an ủi kia rằng: Ngươi mệt nhọc lắm ư? Năng theo được lời ta dạy, lẽ đáng mười hai tháng chế làm mới xong. Ngươi trong một tháng tức được trọn xong, giỏi! Bèn đem nhiều vật quý mà ban thưởng đó.
Chúng các Bồ tát cũng lại như thế. Từ sơ phát tâm cho đến rốt sau định Kim cương dụ sắp hiện tại tiền, thời gian giữa từng không tâm khác xen tạp, chỉ cầu dẫn phát Nhất thiết trí trí. Như thợ vàng kia tiếc thân mạng nên cho đến đồ trang nghiêm chưa được trọn thành, ở thời gian giữa từng không tưởng khác xen tạp nơi tâm chế tạo đồ trang nghiêm. Bồ tát cũng thế, trọng Bồ đề, tâm thường suy gẫm Nhất thiết trí trí, không các tác ý lẫn khởi nơi trong. Ngang đây gọi là tâm không xen tạp.
Nếu các Bồ tát cầu Nhất thiết trí năng trụ được tâm không xen tạp như thế, tinh tiến tu hành tới hạnh Bồà đề, năng mau được viên mãn tư lương Bồ đề. Chúng Bồ tát khác lâu vô số kiếp, vì cớ tâm xen tạp tu hạnh Bồ tát, mới được viên mãn tư lương Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Chúng Bồ tát đây chẳng trải trăm kiếp tức được viên mãn.
Vì cớ sao? Mãn Từ Tử! Các Bồ tát này cầu Nhất thiết trí, không cho tạm khởi các tác ý khác xen tạp nơi trong tâm Đại Bồ đề, đều gọi Bồ tát tác ý phi ý. Sở dĩ vì sao? Vì tác ý Nhị thừa trái lại Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Nếu kẻ khởi tâm kia hiện tại tiền, chẳng thể viên mãn được tư lương Bồ đề mà ưa muốn niết bàn, chán bỏ sanh tử. Bồ tát đối kia nên xa tránh đi, khởi suy nghĩ này: Tác ý Nhị thừa nghịch Nhất thiết trí, thuận vào Niết bàn, tâm ta chẳng nên cho kia làm xen tạp. Vì vậy nên Bồ tát cần khởi nghĩ này: Tâm tương ưng tham sân si thảy đối Đại Bồ đề tuy làm chướng ngại mà năng tùy thuận tư lương Bồ đề, đối tâm Bồ tát chẳng phải xen tạp lắm, như tâm cầu bậc Độc giác Thanh văn.
Sở dĩ vì sao? Vì tham sân si thảy năng khiến sanh tử nối nhau các cõi, giúp các Bồ tát dẫn nhất thiết trí. Nghĩa là chúng Bồ tát phương tiện khéo léo, thời các phiền não thọ thân đời sau, cùng các hữu tình làm nhiêu ích lớn. Là nương đó tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa khiến được viên mãn. Nương đó tu học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc khiến được viên mãn. Nương đó tu học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi khiến được viên mãn.
Nương đó tu học không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn khiến được viên mãn. Nương đó tu học đà la ni môn, tam ma địa môn khiến được viên mãn. Nương đó tu học các bậc Bồ tát, năm nhãn, sáu thần thông khiến được viên mãn. Nương đo tu học Như Lai mười lực, bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng thảy vô lượng vô biên công đức chư Phật khiến được viên mãn.
Phiền não như thế năng giúp Bồ tát khiến chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, chẳng phải tác ý các Thanh văn Độc giác, vì tác ý kia chướng Đại Bồ đề cũng gọi tư lương khiến chẳng viên mãn. Vậy nên, chúng Bồ tát Ma ha tát khi khởi tác ý tâm xen tạp kia, Vô thượng Bồ đề thời là phải xa.
Vậy nên, xen tạp tâm các Bồ tát không như tác ý Thanh văn Độc giác, chúng các Bồ tát cầu Đại Bồ đề nên tránh xa đi, không cho tạm khởi. Tác ý phiền não thuận các hữu thân, đối tâm Bồ tát chẳng phải cực xen tạp. Vì cớ sao?
Mãn Từ Tử! Chúng các Bồ tát cầu Đại Bồ đề, vì độ hữu tình mặc giáp tinh tiến, ở lâu sanh tử làm nhiêu ích lớn, chẳng nên mau dứt tác ý phiền não, vì tác ý đây khi hiện tại tiền khiến các hữu thân nối nhau trường thời, nương đó dẫn nhiếp bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa và vô lượng vô biên Phật pháp khác đều được viên mãn. Tác ý tương ưng phiền não như thuận thân hậu hữu, giúp các Bồ tát dẫn phát Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Chưa chứng Bồ đề chẳng nên cầu dứt, cho đến chưa ngồi tòa diệu Bồ đề, đối tác ý đây chẳng nên dứt hẳn. Vậy nên, chúng Bồ tát Ma ha tát nếu khi khởi phiền não hiện tại tiền, chẳng nên đối trong rất sanh chán ghét. Vì cớ sao?
Mãn Từ Tử! Chúng các Bồ tát đối các phiền não khởi tưởng có ơn, làm suy gẫm này: Ta do kia nên dẫn phát được các thứ tư lương Bồ đề khiến mau viên mãn, nên kia đối ta có ơn đức lớn. Sở dĩ vì sao? Như thiện pháp khác đối ta có ích nên mến chuộng đó, phiền não cũng vậy, chẳng nên chán ghét.
Như vậy Bồ tát phương tiện khéo léo đối các phiền não và cảnh giới kia cũng rất ái kính như Phật Thế Tôn. Sở dĩ vì sao? Vì các Bồ tát này phương tiện khéo léo khởi suy nghĩ này: Do các gút chưa dứt hẳn, nên ta năng tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa và vô lượng vô biên các Phật pháp khác đều được viên mãn. Nhờ đấy dẫn phát Nhất thiết trí trí. Hoặc thời hoặc khi bố thí, tịnh giới. an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa và vô lượng vô biên Phật pháp khác tu dần viên mãn; Bấy giờ lúc đó khiến các có gút lần hồi yếu mỏng cho đến hết trọn, bèn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Ví như người buôn dùng xe chở các thứ của báu nặng đi xa tới đại thành. Hoặc thời hoặc khi xe ấy vận chuyển dần tiến tới trước, bấy giờ lúc đó các bộ phận trục vành nơi bánh xe thảy dần dần hao mòn. Như vậy lần hồi được vào thành lớn. Một khi các bộ phận xe hư tan nát, việc làm đã xong, chủ nó không còn đoái tiếc.
Như vậy Bồ tát phương tiện khéo léo dùng gút nhiếp thọ sở y có thân, hoặc thời hoặc khi do gút nhiếp thọ nối nhau có thân; bấy giờ lúc đó bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nha Ba la mật đa và vô lượng vô biên Phật pháp khác lần hồi viên mãn. Hoặc thời hoặc bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa và vô lượng vô biên Phật pháp khác lần hồi viên mãn; bấy giờ lúc đó khiến các có gút lần hồi suy giảm. Hoặc thời hoặc khi khiến các có gút lần hồi suy giảm, bấy giờ lúc đó lần được gần kề Nhất thiết trí trí. Nếu khi Bồ tát chứng Đại Bồ đề, bấy giờ chỗ nương gút thân đều hết, vì ra làm đã xong, chẳng cần gút thân nữa, như đã vào thành không dùng xe nữa. Như vậy phiền não đối Đại Bồ đề dù là trái ngại mà đối năng dẫn tư lương Bồ đề có sức năng trợ.
Vậy nên, Bồ tát cho đến chưa ngồi tòa Diệu Bồ đề chẳng dứt trừ hẳn. Nếu được Bồ đề tất cả dứt gấp. Nếu loại hữu tình đến chỗ Bồ tát trước rất quở trách, sau xin của pháp, Bồ tát bấy giờ vui mừng thí cho, khởi nghĩ như vầy: Nay hữu tình đây vì đến chỗ ta thí ơn đức lớn, khiến ta trọn nên bố thí, an nhẫn, nhờ đấy chứng được Nhất thiết trí trí. Ta duyên kia nên phát tâm tăng thượng tới Đại Bồ đề hơn cảnh giới khác. Do đấy Bồ tát trong các tác ý, chỉ ngoại trừ tác ý tương ưng Nhị thừa, các tác ý khác đều chẳng chán bỏ, vì đối chứng được Nhất thiết trí trí không chẳng đều có sức trợ bạn.
Khi ấy, Mãn Từ Tử bèn hỏi cụ thọ Xá Lợi Tử rằng: Đâu chẳng Nhị thừa đối Nhất thiết trí cũng có trợ lực? Nghĩa là các Thanh văn cũng năng dạy trao dạy răn bồ tát khiến siêng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa và vô lượng vô biên Phật pháp khác. Hoặc các Độc giác cũng làm ruộng phước chúng các Bồ tát thí kia áo cơm,mau năng chứng được Nhất thiết trí trí. Thế thì sao nói tác ý Thanh văn, Độc giác đối Nhất thiết trí và tư lương đây không sức năng trợ?
Khi đó, Xá Lợi Tử liền đáp cụ thọ Mãn Từ Tử rằng: Như vậy, như vậy. Thanh văn, Độc giác đối Nhất thiết trí và tư lương đây đều có trợ lực. Nghĩa là các Thanh văn cũng năng dạy trao dạy răn Bồ tát khiến siêng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa.
Cũng năng dạy trao dạy răn Bồ tát khiến siêng tu học nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không , vô tế không, tán không, vô biến dị không, bản tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.
Cũng năng dạy trao dạy răn Bồ tát khiến siêng tu học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Cũng năng dạy trao dạy răn Bồ tát khiến siêng tu học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi.
Cũng năng dạy trao dạy răn bồ tát khiến siêng tu học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ. Cũng năng dạy trao dạy răn Bồ tát khiến siêng tu học không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.
Cũng năng dạy trao dạy răn Bồ tát khiến siêng tu học Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện hiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Cũng năng dạy trao dạy răn Bồ tát khiến siêng tu học Tịnh quán địa, Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ tát địa, Như Lai địa.
Cũng năng dạy trao dạy răn Bồ tát khiến siêng tu học đà la ni môn, tam ma địa môn. Cũng năng dạy trao dạy răn Bồ tát khiến siêng tu học năm nhãn, sáu thần thông.
Cũng năng dạy trao dạy răn Bồ tát khiến siêng tu học Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng năng dạy trao dạy răn Bồ tát khiến siêng tu học ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Cũng năng dạy trao dạy răn Bồ tát khiến siêng tu học pháp vô song thất, tánh hằng trụ xả.
Cũng năng dạy trao dạy răn bồ tát khiến siêng tu học nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Cũng năng dạy trao dạy răn Bồ tát khiến siêng tu học tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Cũng năng dạy trao dạy răn Bồ tát khiến siêng tu học chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vậy nên, Thanh văn đối Nhất thiết trí và tư lương đây cũng có trợ lực.
Nếu các Độc giác năng làm ruộng phước nhận Bồ tát thí, nghĩa là các Bồ tát duyên phước điền kia thí đồ của nuôi thân, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vậy nên Độc giác đối Nhất thiết trí và tư lương đây cũng có trợ lực.
Nhưng tác ý các Thanh văn, Độc giác đối Nhất thiết trí và tư lương đây đều không trợ lực. Sở dĩ vì sao? Vì tác ý tương ưng Thanh văn, Độc giác đối bậc Nhị thừa có thắng trợ lực, đối các Bồ tát sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề và tư lương đây cực chẳng tùy thuận, nghĩa là chán sanh tử, ưa vào Niết bàn, bỏ Đại Bồ đề và loại hữu tình.
Vậy nên, ngăn chế Bồ tát quyết định chẳng nên khởi tác ý tương ưng Thanh văn Độc giác, bởi tác ý kia đối các Bồ tát sở cầu Phật quả sở ích hữu tình đều chẳng tùy thuận.
Lại, Mãn Từ Tử! Các Thanh văn thừa đối chúng Bồ tát Ma ha tát sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề có ơn đức lớn. Nghĩa là vì chúng Bồ tát Ma ha tát tuyên nói tất cả Ba la mật đa và các giáo pháp tương ưng thắng hạnh, dạy trao dạy răn khiến siêng tu học mau được viên mãn. Cũng làm tịnh phước điền cho Bồ tát, thọ Bồ tát cúng thí, khiến các Bồ tát mau được viên mãn tư lương Bồ đề. Do đây Thanh văn đối các Bồ tát có ơn đức lớn. Vậy nên, Bồ tát phương tiện khéo léo quán các hữu tình và tất cả pháp đối Nhất thiết trí và tư lương đây không chẳng đều có ơn đức tùy thuận.
Các A la hán hoặc trí hoặc tâm đối Bồ tát thừa cũng có ơn đức. Nghĩa là nếu không có kia thời không bị ngăn chế, làm sao nói được chúng các Bồ tát chẳng nên phát khởi tâm A la hán, cũng chẳng nên tu trí A la hán. Bởi ngăn kia nên Bồ tát dẫn phát tư lương Bồ đề mau được viên mãn, chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí.
Vậy nên, A la hán hoặc trí hoặc tâm đối Bồ tát thừa cũng có ơn đức, là khiến bồ tát được nhất thiết trí, cùng tận đời vị lai lợi vui hữu tình.
Tất cả Độc giác hoặc trí hoặc tâm đối Bồ tát thừa cũng có ơn đức. Là nếu không có kia thời không bị ngăn, làm sao nói được chúng các Bồ tát chẳng nên phát khởi tâm Độc giác thừa, cũng chẳng nên tu trí Độc giác thừa. Do ngăn chế kia nên Bồ tát dẫn phát tư lương Bồ đề mau được viên mãn, chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí.
Vậy nên, các Độc giác hoặc trí hoặc tâm đối Bồ tát thừa cũng có ơn đức là khiến Bồ tát được Nhất thiết trí, cùng đời vị lai lợi vui hữu tình.
Lại quán Nhị thừa tâm trí thấp kém, Bồ tát tu học tâm trí cao lên. Nếu không tâm trí Nhị thừa thấp kém, Bồ tát chẳng nên tu cao lên ấy. Như các Bồ tát hoặc tâm hoặc trí hữu lậu vô lậu, chỉ trừ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoặc tâm hoặc trí đối tất cả kia là tối thắng, là tôn là cao, là diệu là vi diệu, là thượng là vô thượng, vô đẳng vô đẳng đẳng. Vậy nên, tất cả Thanh văn Độc giác hoặc trí hoặc tâm đối Nhất thiết trí cũng có chút phần thế lực tùy thuận.
Như vậy, Bồ tát phương tiện khéo léo quán các hữu tình và tất cả pháp đối Nhất thiết trí và tư lương đây không chẳng đều có thế lực tùy thuận, nên đối tất cả tâm không chán bỏ.
Lại, Mãn Từ Tử! Các Bồ tát Ma ha tát tu hành bố thí Ba la mật đa tuy có nới xả sự vật của báu thảy mà đối sự vật kia không tưởng lấy tướng. Nghĩa là nếu nới xả tất cả pháp tướng hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng bồ đề, muốn vì hữu tình làm nhiêu ích lớn, bèn năng chứng được Nhất thiết trí trí. Nếu chẳng xả tướng hồi hướng Bồ đề, muốn vì hữu tình làm nhiêu ích lớn, trọn chẳng thể được Nhất thiết trí trí.
Nếu các Bồ tát năng đươc các thứ báu vàng bạc thảy, tuy gọi đắc lợi mà chưa gọi là năng đắc đại lợi. Nếu các Bồ tát năng xả các thứ báu vàng bạc thảy, mới được đáng gọi là năng đắc đại lợi. Nếu các Bồ tát năng xả các tướng hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, muốn vì hữu tình làm nhiêu ích lớn, mới gọi năng được Vô thượng lợi lành.
Nếu các Bồ tát làm vua cõi Dục, thống nhiếp cõi Dục được tự tại lớn, tuy gọi đắc lợi mà chưa gọi năng đắc lợi lớn.Nếu các Bồ tát năng xả cõi Dục ngôi vua tự tại, mới đáng gọi là năng đắc lợi lớn. Nếu các Bồ tát năng xả các tướng hồi hướng Vô thượng chánh đẳng Bồ đề, muốn vì hữu tình làm nhiêu ích lớn, mới gọi năng được Vô thượng lợi lành.
Nếu các hữu tình nới xả các tướng, được quả Dự lưu hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc A la hán, hoặc Độc giác Bồ đề, tuy gọi đắc lợi mà chưa gọi là năng đắc đại lợi. Nếu các hữu tình nới xả các tướng hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, muốn vì hữu tình làm nhiêu ích lớn, mới gọi năng được Vô thượng lợi lành.
Nếu được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, với trong các lợi rất thượng rất thắng không gì kịp được. Sở dĩ vì sao? Vì chúng các Bồ tát sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề mới năng vì hữu tình làm được nhiêu ích lớn. Thanh văn Độc giác và các dị sanh không việc này vậy.
Nếu các Bồ tát duyên khắp tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử mười phương, tưởng làm các thứ thượng diệu ăn uống, áo mặc, đồ nằm, bệnh duyên, chữa thuốc, phòng nhà của cải, hoa hương thảy vật phụng thí cúng dường, tuy gọi đắc lợi mà chưa gọi là đắc Vô thượng lợi. Nếu các Bồ tát năng xả các tướng, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, muốn vì hữu tình làm nhiêu ích lớn, mới gọi năng đắc Vô thượng lợi lành.
Sở dĩ vì sao? Vì uống ăn thảy vật đều có các tướng. Các pháp có tướng đều có số lượng. Pháp có số lượng vì có phần hạn, nên duyên kia chẳng năng chứng được Nhất thiết trí trí không phần hạn.
Nếu các Bồ tát phương tiện khéo léo duyên mười phương cõi tất cả Như Lai Ứng Chánh Dẳng Giác và chúng đệ tử đủ vô lượng thứ công đức hiếm có mà chẳng lấy tướng. Mặc dù tưởng vô biên thượng diệu uống ăn, ắo mặc đồ nằm, bệnh duyên chữa thuốc, phòng nhà của cải hoa hương thảy vật phụng thí cúng dường mà chẳng lấy tướng. Mặc dù năng hồi hướng Vô thượng Bồ đề muốn vì hữu tình làm nhiêu ích lớn mà chẳng lấy tướng. Do đây chứng được Nhất thiết trí trí, tột đời vị lai nhiêu ích hữu tình, phải biết gọi là được lợi Vô thượng,với tất cả lợi rất là thứ nhất.
Nếu các Bồ tát năng làm được phương tiện khéo léo như thế tu hành bố thí, mới được gọi tên cư đỉnh Bồ tát, quyết định sẽ được Nhất thiết trí trí.Sở dĩ vì sao? Vì Nhất thiết trí trí rất khó thể được. Bồ tát như thế năng xả được tất cả các tướng trong ngoài, tâm không chỗ dính, cầu chứng Nhất thiết trí trí như thế đối các Bồ tát rất là thượng thủ, phải được như cái đỉnh Vô thượng Bồ đề. Bồ tát quá khứ vị lai hiện tại đã sẽ đang được Nhất thiết trí trí, không chẳng đều do sở khởi phương tiện khéo léo như thế mà năng chứng được.
Khi ấy, Mãn Từ Tử bèn hỏi cụ thọ Xá lợi Tử rằng: Sao là Bồ tát được vào cư đỉnh số các Bồ tát?
Xá Lợi Tử đáp: Nếu các Bồ tát phương tiện khéo léo chẳng lấy pháp tướng, các Bồ tát này được vào cư đỉnh số các Bồ tát.
Mãn Từ Tử hỏi: Các Bồ tát ấy đối những pháp nào chẳng lấy tướng nào?
Xá Lợi Tử nói: Các Bồ tát đối sắc uẩn chẳng lấy tướng thường vô thường, đối thọ tưởng hành thức uẩn cũng chẳng lấy tướng thường vô thường .
Đối sắc uẩn chẳng lấy tướng vui không vui, đối thọ tưởng hành thức uẩn cũng chẳng lấy tướng vui không vui. Đối sắc uẩn chẳng lấy tướng ngãvô ngã, đối thọ tưởng hành thức uẩn cũng chẳng lấy tướng ngã vô ngã. Đối sắc uẩn chẳng tướng tịnh bất tịnh, đối thọ tưởng hành thức uẩn cũng chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh. Đối sắc uẩn chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa, đối thọ tưởng hành thức uẩn cũng chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa.
Đối sắc uẩn chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng, đối thọ tưởng hành thức uẩn cũng chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng.
Các Bồ tát này đối nhãn xứ chẳng lấy tướng thường vô thường, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng chẳng lấy tướng vô thường. Đối nhãn xứ chẳng lấy tướng vui không vui, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng chẳng lấy tướng vui không vui. Đối nhãn xứ chẳng lấy tướng ngã vô ngã, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng chẳng lấy tướng ngã vô ngã. Đối nhãn xứ chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh. Đối nhãn xứ chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa. Đối nhãn xứ chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng.
Các Bồ tát này đối sắc xứ chẳng lấy tướng thường vô thường, đối thanh hương vị xúc pháp xứ cũng chẳng lấy thường vô thường. Đối sắc xứ chẳng lấy vui không vui, đối thanh hương vị xúc pháp xứ cũng chẳng lấy tướng vui không vui. Đối sắc xứ chẳng lấy tướng ngã vô ngã, đối thanh hương vị xúc pháp xứ cũng chẳng lấy tướng ngã vô ngã. Đối sắc xứ chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh, đối thanh hương vị xúc pháp xứ cũng chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh. Đối sắc xứ chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa, đối thanh hương vị xúc pháp xứ cũng chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa. Đối sắc xứ chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng, đối thanh hương vị xúc pháp xứ cũng chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng.
Vậy nên, Bồ tát đối nhãn giới chẳng lấy tướng thường vô thường, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý giới cũng chẳng lấy tướng thường vô thường. Đối nhãn giới chẳng lấy tướng vui không vui, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý giới cũng chẳng lấy tướng vui không vui.Đối nhãn giới chẳng lấy tướng ngã vô ngã, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý giới cũng chẳng lấy tướng ngã vô ngã.Đối nhãn giới chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý giới cũng chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh. Đối nhãn giới chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa, đối nhỉ tỷ thiệt thân ý giới cũng chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa
Đối nhãn giới chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý giới cũng chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng.
Các Bồ tát này đối sắc giới chẳng lấy tướng thường vô thường, đối thanh hương vị xúc pháp giới cũng chẳng lấy tướng thường vô thường. Đối sắc giới chẳng lấy tướng vui không vui, đối thanh hương vị xúc pháp giới cũng chẳng tướng vui không vui. Đối sắc giới chẳng lấy tướng ngã vô ngã, đối thanh hương vị xúc pháp giới cũng chẳng lấy tướng ngã vô ngã. Đối sắc giới chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh, đối thanh hương vị xúc pháp giới cũng chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh. Đối sắc giới chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa, đối thanh hương vị xúc pháp giới cũng chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa. Đối sắc giới chẳng lấy tuớng vắng lặng chẳng vắng lặng, đối thanh hương vị xúc pháp giới cũng chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng.
Các Bồ tát này đối nhãn thức giới chẳng lấy tướng thường vô thường, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới cũng chẳng lấy tướng thường vô thường.Đối nhãn thức giới chẳng lấy tướng vui không vui, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới cũng chẳng lấy tướng vui không vui.Đối nhãn thức giới chẳng lấy tướng ngã vô ngã, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới cũng chẳng lấy tướng ngã vô ngã.Đối nhãn thức giới chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới cũng chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh.Đối nhãn thức giới chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới cũng chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa.Đối nhãn thức giới chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới cũng chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng.
Các Bồ tát này đối nhãn xúc chẳng lấy tướng thường vô thường, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc cũng chẳng lấy tướng vô thường. Đối nhãn xúc chẳng lấy tướng vui không vui, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc cũng chẳng lấy tướng vui không vui. Đối nhãn xúc chẳng lấy tướng ngã vô ngã, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc cũng chẳng lấy tướng ngã vô ngã. Đối nhãn xúc chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc cũng chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh. Đối nhãn xúc chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc cũng chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa. Đối nhãn xúc chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc cũng chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng.
Các Bồ tát này đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng lấy tướng thường vô thường, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng lấy tướng vô thường. Đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng lấy tướng vui không vui, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng lấy tướng vui không vui. Đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng lấy tướng ngã vô ngã, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng lấy tướng ngã vô ngã. Đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh. Đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa. Đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng.
Các Bồ tát này đối địa giới chẳng lấy tướng thường vô thường, đối thủy hỏa phong không thức giới cũng chẳng lấy tướng thường vô thường. Đối địa giới chẳng lấy tướng vui không vui, đối thủy hỏa phong không thức giới cũng chẳng lấy tướng vui không vui.Đối địa giới chẳng lấy tướng ngã vô ngã, đối thủy hỏa phong không thức giới cũng chẳng lấy tướng ngã vô ngã. Đối địa giới chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh, đối thủy hỏa phong không thức giới cũng chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh.
Đối địa giới chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa, đối thủy hỏa phong không thức giới cũng chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa.
Đối địa giới chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng, đối thủy hỏa phong không thức giới cũng chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng
Các Bồ tát này đối nhân duyên chẳng lấy tướng thường vô thường; đối đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng chẳng lấy tướng thường vô thường.Đối nhân duyên chẳng lấy tướng vui không vui; đối đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng chẳng lấy tướng vui không vui. Đối nhân duyên chẳng lấy tướng ngã vô ngã; đối đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng chẳng lấy tướng ngã vô ngã.Đối nhân duyên chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh; đối đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng chẳng lấy tịnh bất tịnh. Đối nhân duyên chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa; đối đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa.Đối nhân duyên chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng; đối đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng.
Các Bồ tát này đối vô minh chẳng lấy tướng thường vô thường; đối hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, sanh, lão tử cũng chẳng lấy tướng thường vô thường.Đối vô minh chẳng lấy tướng vui không vui; đối hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, sanh, lão tử cũng chẳng lấy tướng vui không vui.Đối vô minh chẳng lấy tướng ngã vô ngã; đối hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, sanh, lão tử cũng chẳng lấy tướng ngã vô ngã.Đối vô minh chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh; đối hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, sanh, lão tử cũng chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh.Đối vô minh chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa; đối hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, sanh, lão tử cũng chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa. Đối vô minh chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng; đối hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, sanh, lão tử cũng chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng.
Các Bồ tát này đối cõi Dục chẳng lấy tướng thường vô thuờng; đối hai cõi Sắc, Vô sắc cũng chẳng lấy tướng thường vô thường. Đối cõi Dục chẳng lấy tướng vui không vui; đối hai cõi Sắc, Vô sắc cũng chẳng lấy tướng vui không vui. Đối cõi Dục chẳng lấy tướng ngã vô ngã; đối hai cõi Sắc, Vô sắc cũng chẳng lấy tướng ngã vô ngã. Đối cõi Dục chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh; đối hai cõi Sắc, Vô sắc cũng chẳng lấy tướng tịnh bất tịnh. Đối cõi Dục chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa; đối hai cõi Sắc, Vô sắc cũng chẳng lấy tướng xa lìa chẳng xa lìa. Đối cõi Dục chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng; đối hai cõi Sắc, Vô sắc cũng chẳng lấy tướng vắng lặng chẳng vắng lặng.
Nếu các Bồ tát năng làm được phương tiện khéo léo chẳng lấy pháp tướng như thế tu hành bố thí Ba la mật đa, các Bồ tát này được vào số các Bồ tát cư đỉnh, năng được Nhất thiết trí trí như cái đỉnh đầu.
Lại, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ tát biết tất cả pháp đều chẳng có, xa lìa các tướng mà hành bố thí Ba la mật đa. Các Bồ tát này được vào số các Bồ tát cư đỉnh, năng được Nhất thiết trí trí như đỉnh, cũng năng giáo hóa tất cả hữu tình khiến nương Nhất thiết trí trí như thế, phát nguyện tới cầu cũng năng chứng được.
Lại, Mãn Từ Tử! Nếu các hữu tình đối pháp vô tướng chẳng khởi thắng giải, thời chẳng năng phát tâm nhất thiết trí. Nếu chẳng năng phát tâm Nhất thiết trí, thời chẳng năng tu các hạnh Bồ tát. Nếu chẳng năng tu các hạnh Bồ tát, thời chẳng thể được Nhất thiết trí trí. Nếu các hữu tình đối pháp vô tướng năng khởi thắng giải, thời năng phát khởi được tâm Nhất thiết trí. Nếu năng phát khởi tâm Nhất thiết trí, thời năng tu hành các hạnh Bồ tát, thời năng chứng được Nhất thiết trí trí.
Lại, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ tát phát tâm tới cầu Nhất thiết trí rồi, tùy sở xả sự vật đều năng biết rõ không vô sở hữu mà hành bố thí Ba la mật đa. Nghĩa là như thật biết các sự vật đã xả đều như huyễn hóa, chẳng phải như chúng ta từ thời vô thỉ đến nay đã lấy các tướng. Do năng biết nên đối các sở hữu đều năng nới xả được, chẳng lấy các tướng.
Các loại hữu tình chẳng như thật biết các pháp chẳng phải có, đều như huyễn hóa, nên đối các sự vật khởi chấp đắm kiên cố.
Bởi chấp đắm kiên cố chẳng thể nới xả. Do chẳng nới xả, thu nhận keo rít. Do keo rít nên thân hoại mạng chung đọa các ác thú chịu khổ nghèo cùng. Tùy có sở đắc chẳng thể nới xả, lại đối trong càng tăng trưởng keo rít lấn hơn. Bởi đây đọa lại các ác thú chịu các thứ khổ. Chịu khổ như thế đều do lấy tướng.
Nếu các Bồ tát phương tiện khéo léo biết pháp chẳng phải có, đều như huyễn hóa. Đã như huyễn hóa đều nên nới xả. Huyễn hóa chẳng phải ngãvà ngã sở, nên đối tất cả sự vật đều năng nới xả được. Sở dĩ vì sao ? Vì sự vật, ngã và ngã sở đã bất khả đắc, chẳng nên chấp đắm. Vì không chấp đắm nên đều năng nới xả được. Do năng nới xả, đối Phật Thế Tôn thuyết ra Chánh pháp rất sanh ưa mến.
Nghĩa là nghĩ như vầy: Thế Tôn hiếm có, khéo thuyết các pháp đều như huyễn hóa. Ta y lời Phật dạy năng xả tất cả, nghĩa là năng nới xả pháp như huyễn hóa, khiến ta sẽ được như huyễn vô tướng Vô thượng Bồ đề.
Các Bồ tát này khởi nghĩ như vầy: Chư Phật Thế Tôn năng làm được khó làm, nghĩa là dạy Bồ tát như thật biết rõ các pháp chẳng phải có, đều như huyễn hóa. Do biết rõ nên chẳng sanh chấp đắm, dùng ít công lực năng xả tất cả, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Vậy nên, Bồ tát muốn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, nên biết các pháp như thế đều chẳng phải có, trọn như huyễn hóa, xả lìa các tướng, đem tâm vô tướng siêng cầu Nhất thiết trí trí như đỉnh.
Ngài Mãn Từ Tử! Chớ bảo tôi thuyết pháp yếu như thế là tự biện tài. Đấy đều sức oai thần Như Lai.
Bấy giờ, Phật bảo A Nan Đà rằng: Nay Xá Lợi Tử đã thuyết có bao nhiêu pháp đều là Phật thần lực, ngươi nên thọ trì. Sau Ta Niết bàn phải rộng lưu bố.