- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (24 tập)
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 2
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 3
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 4
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 5
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 6
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 7
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 8
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 9
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 10
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 11
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 12
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 13
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 14
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 15
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 16
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 17
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 18
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 19
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 20
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 21
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 22
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 23
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 24
- Tiểu sử dịch giả HT Thích Trí Nghiêm
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 22
Quyển Thứ 548
Hội thứ tư Phẩm Thí Dụ thứ 14
Hội thứ tư Phẩm Trời Khen thứ 15
Hội thứ tư Phẩm Chơn Như thứ 16-1
Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm thật vì việc lớn hiện thế gian chăng?
Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm vì việc lớn xuất hiện thế gian. Sở dĩ vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm thật năng thành xong Nhất thiết trí trí, thật năng thành xong các bậc Độc giác, thật năng thành xong các bậc Thanh văn.
Thiện Hiện phải biết: Như Quán đảnh Đại vương Sát Đế Lợi uy đức tự tại uốn dẹp tất cả, đem các việc nước giao phó dặn dò tôi lớn, tréo tay không làm gì, yên ổn hưởng vui sướng. Chư Phật cũng thế, là Đại Pháp Vương uy đức tự tại, uốn dẹp tất cả, đem pháp chư Phật, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Thanh văn thảy đều giao phó dặn dò Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm khiến thành xong. Vậy nên, Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm thật vì việc lớn xuất hiện thế gian.
Thiện Hiện phải biết: Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng vì thu nhận chấp lấy sắc nên xuất hiện thế gian. Chẳng vì thu nhận chấp lấy thọ tưởng hành thức nên xuất hiện thế gian. Chẳng vì thu nhận chấp lấy quả Dự Lưu nên xuất hiện thế gian. Chẳng vì thu nhận chấp lấy quả Nhất Lai, Bất hoàn, A la hán nên xuất hiện thế gian. Chẳng vì thu nhận chấp lấy Độc giác Bồ đề nên xuất hiện thế gian. Chẳng vì thu nhận chấp lấy Nhất thiết trí trí nên xuất hiện thế gian.
Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật rằng: Vì sao Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế cũng chẳng vì thu nhận chấp lấy Nhất thiết trí trí nên xuất hiện thế gian?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Ngươi vả thấy có quả A la hán khá thu nhận chấp lấy chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy. Tôi chẳng thấy có quả A la hán khá đối trong ấy thu nhận chấp lấy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Hay thay, hay thay! Ta cũng chẳng thấy có pháp Như Lai khá đối trong ấy thu nhận chấp lấy. Vậy nên, Thiện Hiện! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm cũng chẳng vì thu nhận chấp lấy Nhất thiết trí trí nên xuất hiện thế gian.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm cũng chẳng vì thu nhận chấp lấy Nhất thiết trí trí nên xuất hiện thế gian ấy, chúng các Bồ tát mới học Đại thừa nghe thuyết như thế, tâm liền kinh sợ, chẳng năng tín thọ được. Nếu chúng các Bồ tát nhân đã viên mãn, từng ở chỗ vô lượng Phật quá khứ phát thệ nguyện rộng lớn, đêm dài chứa nhóm căn lành thù thắng, nghe thuyết như thế có thể tín thọ được?
Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy! Như ngươi đã nói. Do nhân duyên đây, Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng nên vội vì các Bồ tát mới học Đại thừa mà thuyết.
Bấy giờ, các Thiên tử cõi Dục, cõi Sắc đồng thưa Phật rằng: Bát nhã Ba la mật đa như thế rất là sâu thẳm, khó thấy khó giác, cực khó tin hiểu. Nếu các hữu tình từng ở vô lượng chỗ Phật quá khứ thệ nguyện rộng, trồng nhiều căn lành, thờ nhiều bạn lành, mới tin hiểu được Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm.
Giả sử các loại hữu tình thế giới Tam thiên đại thiên tất cả đều thành tùy tín hành thảy. Loại hữu tình kia hoặc lâu một kiếp hoặc một kiếp hơn tu hạnh tự địa, chẳng bằng có người đối Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đây, một ngày nhẫn chịu vui mừng suy nghĩ khen lường quán sát, chỗ được công đức hơn kia vô lượng?
Bấy giờ, Phật bảo các Thiên tử rằng: Như vậy, như vậy! Như các ngươi đã nói. Thiên tử phải biết: Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân thảy nghe Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, mau được Niết bàn hơn trước đã nói tùy tín hành thảy hoặc lâu một kiếp hoặc một kiếp hơn tu hạnh tự địa, huống nhẫn vui thảy. Khi các Thiên tử nghe Phật đã dạy, vui mừng nhảy nhót, đảnh lễ Thế Tôn, quanh hữu ba vòng, bái từ Phật, lui về cung lại. Cách hội chưa xa bỗng nhiên chẳng hiện. Tùy thuộc cõi nào đều trụ bản cung, khuyên tiến chư thiên tu hạnh thù thắng.
Bấy giờ, Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu các Bồ tát Ma ha tát nghe Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng sanh tin hiểu, chẳng chìm chẳng đắm, chẳng mê chẳng ngất, không ngờ không nghi, không lấy không chấp, vui mừng nghe thọ, cung kính cúng dường, chết từ chỗ nào đến sanh trong đây?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu các Bồ tát Ma ha tát nghe Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng sanh tin hiểu, chẳng chìm chẳng đắm, chẳng mê chẳng ngất, không ngờ không nghi, không lấy không chấp, vui mừng nghe thọ, cung kính cúng dường, muốn thấy ưa nghe, thọ trì đọc tụng, thường chẳng xa lìa Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm và kia tác ý tương ưng thù thắng, ưa mến theo dõi kẻ năng thuyết pháp, như bò con theo mẹ chưa từng tạm nới, cho đến chưa được bao nhiêu nghĩa thú Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm thông lợi rốt ráo năng vì người nói, trọn chẳng nên xa lìa Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm và Sư thuyết pháp lâu chừng giây lát. Bồ tát Ma ha tát này chết từ trong người đến sanh trong đây, vì nhờ thắng nhân đời trước nên năng thành tựu việc này.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Vả có các Bồ tát Ma ha tát trọn nên công đức như thế, cúng dường vâng thờ Phật phương khác rồi, từ chỗ kia chết đến sanh đây ư?
Phật bảo: Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát cúng dường vâng thờ Phật phương khác rồi, từ chỗ kia chết đến sanh trong đây, trọn nên công đức thù thắng như thế. Sở dĩ vì sao? Vì Bồ tát Ma ha tát ấy trước từ phương khác vô lượng chỗ Phật nghe Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng sanh tin hiểu, cung kính cúng dường, biên chép thọ trì, thỉnh hỏi nghĩa thú sâu thẳm trong ấy, tu tập suy nghĩ, rộng vì người nói. Từ chỗ kia chết đến sanh trong đây, vì nhờ căn lành xưa, năng xong được việc này.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có Bồ tát Ma ha tát từ trời Đỗ sử đa chúng đồng phận chết đến trong người, kia cũng trọn nên công đức như thế. Sở dĩ vì sao? Bồ tát Ma ha tát này đời trước đã ở chỗ Từ Thị Bồ tát Ma ha tát trời Đỗ sử đa, nghe Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng sanh tin hiểu, cung kính cúng dường, thỉnh hỏi nghĩa thú sâu thẳm trong ấy, tu tập suy nghĩ, rộng vì người nói. Từ chỗ kia chết đến sanh trong đây, vì nhờ căn lành xưa, năng xong được việc này.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam tử Bồ tát thừa tuy ở đời trước được nghe Bát nhã Ba la mật đa mà chẳng thỉnh hỏi nghĩa thú sâu thẳm, nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế nơi tâm mê ngất nghi ngờ đắm chìm, hoặc sanh hiểu khác, khó nỗi khai ngộ. Sở dĩ vì sao? Vì kẻ chẳng rõ nghĩa tâm nhiều mê ngất nghi ngờ đắm chìm.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có các thiện nam tử Bồ tát thừa, tuy ở đời trước được nghe Bát nhã Ba la mật đa, cũng từng thỉnh hỏi nghĩa thú sâu thẳm, hoặc qua một ngày hai ngày ba ngày bốn ngày năm ngày, mà chẳng tinh tiến như nói tu hành. Nay sanh trong người nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế, tuy lâu chút thời, nơi tâm bền vững không ai hoại được. Nếu lìa Bát nhã Ba la mật đa đã nghe và Sư thuyết pháp thỉnh hỏi thâm nghĩa, liền bèn lui mất, lòng sanh do dự. Sở dĩ vì sao? Các thiện nam tử Bồ tát thừa đây, tuy ở đời trước được nghe Bát nhã Ba la mật đa, cũng năng thỉnh hỏi nghĩa thú sâu thẳm, mà chẳng tinh tiến như nói tu hành, nên với đời nay đối Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm hoặc khi muốn nghe, hoặc khi chẳng muốn, hoặc khi bền vững, hoặc khi lui mất, nơi tâm nhẹ động, tới lui chẳng hằng, như múi bông theo gió bay chuyển. Phải biết các thiện nam tử trụ Bồ tát thừa như thế, mới học Đại thừa, tuy có lòng tin mà chẳng bền vững thanh tịnh, đối Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng thể trường thời tin muốn chuyển theo. Kia đối hai bậc hoặc tùy đọa một, chỗ gọi Thanh văn và bậc Độc giác.
Thiện Hiện phải biết: Như biển cả mênh mông cưỡi thuyền bị thủng. Các người trong ấy nếu chẳng lấy cây, đồ vật, đãy nổi, ván tấm, thây chết làm vật nương đeo, quyết định biết bị chết chìm, chẳng đến bờ kia. Nếu năng lấy được cây, đồ vật, đãy nổi, ván tấm, thây chết làm chỗ nương đeo, phải biết loại này quyết chẳng chết chìm, được yên ổn biển cả đến bờ kia, không tổn không hại, hưởng các vui sướng. Các thiện nam tử trụ Bồ tát thừa cũng lại như thế. Có đối Đại thừa tuy thành tựu phần ít lòng tin kinh mến vui mà chẳng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm làm chỗ nương đeo. Phải biết loại kia giữa đường lui mất chẳng thể chứng được Nhất thiết trí trí, nghĩa là rơi Thanh văn hoặc bậc Độc giác. Nếu đối Đại thừa có tin có nhẫn, có vui có muốn, có tinh tiến có thắng giải, có chẳng buông lung, có muốn thắng ý, có xả, có kính, có hớn hở, có vui mừng, có tâm thanh tịnh, có đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng bỏ ách yếu khéo léo, lại năng nhiếp thọ được Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm làm chỗ nương đeo. Phải biết loại này trọn chẳng giữa đường lui vào Thanh văn hoặc bậc Độc giác, định chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, năng tận vị lai lợi vui tất cả.
Lại nữa, Thiện Hiện! Như có kẻ nam hoặc các người nữ cầm mang chiếc bình đất sống đến sông lấy nước, hoặc ao hoặc giếng, hoặc suối hoặc khe. Phải biết bình này chẳng lâu tan rã. Vì cớ sao? Vì bình ấy chưa nung chín, chẳng kham đựng nước, chung qui về lại đất vậy. Như vậy, Thiện Hiện! Có các thiện nam tử Bồ tát thừa tuy đối Đại thừa có tín có nhẫn, có vui có muốn, có tinh tiến có thắng giải, có chẳng buông lung, có muốn thắng ý, có xả có kính, có hớn hở có vui mừng, có tâm thanh tịnh, có đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng bỏ ách yếu khéo léo, mà chẳng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo. Phải biết loại kia giữa đường lui mất, chẳng thể chứng được Nhất thiết trí trí, nghĩa là rơi Thanh văn hoặc bậc Độc giác.
Lại nữa, Thiện Hiện! Như có kẻ nam hoặc các người nữ cầm bình nung chín đến sông lấy nước, hoặc ao hoặc giếng, hoặc suối hoặc khe, phải biết bình này chắc chẳng tan rã. Vì cớ sao? Vì bình ấy chín tốt, kham chịu đựng nước rất bền chắc vậy. Như vậy, Thiện Hiện! Có các thiện nam tử Bồ tát thừa, nếu đối Đại thừa có tín có nhẫn, nói rộng cho đến có đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng bỏ ách yếu khéo léo, lại năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo. Phải biết loại này quyết chẳng giữa đường lui vào Thanh văn hoặc bậc Độc giác, định chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, năng tận vị lai lợi vui tất cả.
Lại nữa, Thiện Hiện! Như có người buôn không trí khôn khéo, thuyền ở bờ biển chưa sửa trị kiên cố, liền đem của vật đặt để trên thuyền, kéo vào xuống nước, cấp tốc phát đi. Phải biết thuyền này giữa đường hư chìm, người thuyền của vật trôi tản mỗi xứ. Người buôn như thế không trí khôn khéo, chết mất thân mạng và các của cải báu quí. Như vậy, Thiện Hiện! Có các thiện nam tử Bồ tát thừa, tuy đối Đại thừa có tín có nhẫn, nói rộng cho đến có đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng bỏ ách yếu khéo léo, mà chẳng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo. Phải biết loại kia giữa đường lui mất, chẳng thể chứng được Nhất thiết trí trí, nghĩa là rơi Thanh văn hoặc bậc Độc giác.
Lại nữa, Thiện Hiện! Như có người buôn có trí khôn khéo, trước thuyền ở bờ biển sửa trị kiên cố rồi mới kéo xuống nước, nghiệm biết không kẻ hở, sau mới đem của vật để lên mà cho thuyền đi. Phải biết thuyền này tất chẳng hư chìm, người của yên ổn, đạt đến chỗ muốn tới. Như vậy, Thiện Hiện! Có các thiện nam tử Bồ tát thừa, nếu đối Đại thừa có tín có nhẫn, nói rộng cho đến có đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng bỏ ách yếu khéo léo, lại năng nhiếp thọ được Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo. Phải biết loại này quyết chẳng giữa đường lui vào Thanh văn hoặc bậc Độc giác, định chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, năng tận vị lai lợi vui tất cả. Vì cớ sao? Nếu các thiện nam tử Bồ tát thừa có tín có nhẫn, nói rộng cho đến có đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng bỏ ách yếu khéo léo, lại năng nhiếp thọ được Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo giữa đường lẽ vậy chẳng rơi Thanh văn hoặc bậc Độc giác, tất chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cùng các hữu tình thường làm nhiêu ích.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ví như có người trăm hai chục tuổi già nua suy yếu lại thêm nhiều bệnh, chỗ gọi bệnh nóng bệnh đàm, hoặc ba bệnh nhóm lại. Nơi ý hiểu sao? Người già bệnh ấy, vả từ giường tòa tự năng đứng dậy được chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng được.
Phật bảo: Thiện Hiện! Người này nếu có đỡ cho đứng dậy cũng không sức đi một dặm, hoặc hai hoặc ba. Vì cớ sao! Vì già bệnh lắm vậy.
Như vậy, Thiện Hiện! Có các thiện nam tử Bồ tát thừa, nếu đối Đại thừa có tín có nhẫn, nói rộng cho đến có đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng bỏ ách yếu khéo léo. Nếu chẳng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, phải biết loại kia chẳng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, lui rơi Thanh văn hoặc bậc Độc giác. Vì cớ sao? Vì xa lìa Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, lẽ phải như vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ví như có người trăm hai chục tuổi già nua suy yếu, lại thêm các bệnh, chỗ gọi bệnh nóng bệnh đàm, hoặc ba bệnh nhóm lại. Người già bệnh ấy muốn từ giường tòa dậy qua chỗ khác mà tự chẳng thể được. Có hai người mạnh, mỗi xóc một nách, đỡ lần cho đứng mà bảo kia rằng: Chớ có sợ nạn, tùy ý muốn đi, hai người chúng tôi trọn chẳng rời nhau, tất thấu chỗ đến yên ổn không tổn hại gì.
Như vậy, Thiện Hiện! Có các thiện nam tử Bồ tát thừa nếu đối Đại thừa có tín có nhẫn, nói rộng cho đến có đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng bỏ ách yếu khéo léo, lại năng nhiếp thọ được Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo. Phải biết loại này quyết chẳng giữa đường lui rơi Thanh văn hoặc bậc Độc giác, định chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ chúng hữu tình.
Hội thứ tư Phẩm Trời Khen thứ 15
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát mới học Đại thừa, phải trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế nào? Phải học Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như thế nào?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát mới học Đại thừa, muốn trụ Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa trước hết phải thân cận, phụng sự, cúng dường bạn lành chơn tịnh. Người nào có thể giảng nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, truyền trao cho các Bồ-tát, nên biết đó là bạn lành chơn tịnh. Nghĩa là giảng nói được Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, răn dạy, truyền trao cho các Bồ-tát mới học Đại thừa và nói: “Thiện nam tử, đến đây! Ngươi nên siêng tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Khi ngươi siêng năng tu tập hãy lấy vô sở đắc làm phương tiện, cho các hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Khi ngươi hồi hướng, chớ đem sắc mà chấp quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề; chớ đem thọ, tưởng, hành, thức mà chấp quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Thiện nam tử! Vì nếu không có sự chấp thủ tức là chứng đắc trí nhất thiết trí. Thiện nam tử! Ngươi đối với địa vị Thanh văn và Độc giác, chớ sanh đắm trước.”
Như vậy, Thiện Hiện! Bạn lành chơn tịnh răn dạy, truyền trao cho các Đại Bồ-tát mới học Đại thừa, làm cho họ vào dần Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát làm những việc khó khăn nên nương vào các tướng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Họ không muốn tự tại mà chọn lấy sự diệt độ, quán sự khổ trầm trọng nơi cõi hữu tình để mong chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì muốn dùng phương tiện cứu giúp chúng sanh tận cùng trong tương lai nên không sợ luân chuyển nơi đường sanh tử.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Các Đại Bồ-tát có thể làm những việc khó làm, nghĩa là làm lợi lạc các thế gian nên hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề; vì thương xót các hữu tình trong thế gian nên hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề và phát nguyện: “Ta vì cứu giúp các thế gian, vì các thế gian mà làm nhà cửa, vì các thế gian làm chỗ quay về nương tựa, chỉ cho thế gian con đường cứu cánh, vì các thế gian làm hòn đảo, vì các thế gian làm ánh sáng, vì các thế gian làm người dẫn đường, vì các thế gian làm chỗ đi đến, phát tâm siêng năng tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.”
Thế nào là Đại Bồ-tát phát nguyện: Ta vì cứu giúp các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát thấy các thế gian trôi lăn trong đường sanh tử, chịu vô lượng khổ, không thể ra khỏi. Để chấm dứt sự khổ này nên Bồ-tát phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó là Đại Bồ-tát phát nguyện: Ta vì cứu giúp các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thế nào là Đại Bồ-tát vì các thế gian làm nhà cửa nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát muốn vì thế gian nói tất cả pháp đều không hòa hợp nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó là Đại Bồ-tát vì các thế gian làm nhà cửa nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tất cả pháp đều không hòa hợp?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Các sắc không hòa hợp, tức sắc không thuộc vào nhau; nếu sắc không thuộc vào nhau, tức sắc không sanh diệt; nếu sắc không sanh diệt, tức sắc không hòa hợp. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Các Đại Bồ-tát muốn vì thế gian nói tất cả pháp đều có tướng không hòa hợp, nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thế nào là Đại Bồ-tát làm chỗ quay về nương tựa cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì muốn cứu giúp chúng sanh chóng được giải thoát các khổ bức bách thế gian như: sanh, già, bệnh, chết, buồn, than, lo, âu v.v… nên vào cảnh giới Vô dư y Niết-bàn, phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó là Đại Bồ-tát vì làm chỗ quay về nương tựa nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thế nào là Đại Bồ-tát vì chỉ cho thế gian con đường cứu cánh nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì muốn dạy cho thế gian pháp như thế này, nghĩa là: Bờ kia của sắc tức chẳng phải sắc; sắc của bờ kia cũng như vậy. Bờ kia của thọ, tưởng, hành, thức tức chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức; như vậy thọ, tưởng, hành, thức của bờ kia cũng như vậy. Như bờ kia của sắc, thọ, tưởng, hành, thức của tất cả các pháp cũng như vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa:
- Bạch Thế Tôn! Nếu bờ kia như tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì tất cả pháp cũng như vậy, thì phải chăng Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp đã chứng Đẳng giác? Vì sao? Vì trong đó hoàn toàn không có sự phân biệt.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Ở trong bờ kia không có sự phân biệt nên các Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp đã chứng Đẳng giác.
Thiện Hiện nên biết! Các Đại Bồ-tát làm việc rất khó làm, mặc dù có thể quán tất cả pháp như vậy nhưng không chứng đắc, cũng không chìm đắm. Bồ-tát suy nghĩ: Đối với pháp này ta hiện chứng Đẳng giác rồi chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì các thế gian giảng nói chỉ bày. Đó là Đại Bồ-tát vì chỉ cho thế gian con đường cứu cánh nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thế nào là Đại Bồ-tát làm hòn đảo cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?
Thiện Hiện! Vì như trong biển, sông, hồ, lớn nhỏ có vùng đất cao ở được và nước bao quanh làm ngăn cách nên gọi là hòn đảo.
Thế nên, Thiện Hiện! Sắc cho đến thức đoạn hẳn bờ trước sau, do đoạn tận như vậy nên tất cả pháp đoạn. Tất cả pháp này đã đoạn được bờ trước sau là Niết-bàn vắng lặng vi diệu, cũng là tánh như thật không điên đảo.
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào cầu chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, muốn vì hữu tình nói pháp như thế, làm cho chóng tiến vào Niết-bàn, Đại Bồ-tát đó vì làm hòn đảo cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thế nào là Đại Bồ-tát làm ánh sáng cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát vì phá vỡ vỏ trứng vô minh, đêm dài che phủ hữu tình trong bóng tối dày đặc, vì chữa bệnh mù mắt cho hữu tình không thấy, làm cho sáng mắt, vì giúp cho tất cả hữu tình ngu tối mà làm đèn sáng trí tuệ nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó là Đại Bồ-tát làm ánh sáng cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thế nào là Đại Bồ-tát làm người dẫn đường cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát muốn vì thế gian giảng nói, chỉ bày bản tánh các sắc vốn không sanh, không diệt; muốn vì thế gian giảng nói, chỉ bày bản tánh thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt; muốn vì thế gian giảng nói, chỉ bày bản tánh các pháp phàm phu không sanh, không diệt; muốn vì thế gian giảng nói, chỉ bày bản tánh pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Phật không sanh, không diệt; muốn vì thế gian giảng nói, chỉ bày bản tánh tất cả các pháp không sanh, không diệt nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đó là Đại Bồ-tát làm người dẫn đường cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Thế nào là Đại Bồ-tát làm chỗ đi đến cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề?
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát muốn vì các thế gian giảng nói chỉ bày sắc lấy hư không làm chỗ đi đến; thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy hư không làm chỗ đi đến; tất cả pháp đều lấy hư không làm chỗ đi đến. Bồ-tát muốn vì thế gian giảng nói chỉ bày sắc không có chỗ đi đến, bằng với hư không. Thọ, tưởng, hành, thức không có chỗ đi đến, bằng với hư không. Tất cả pháp đều không có chỗ đi đến, bằng với hư không…
Như hư không bao la không đến, không đi, không làm, không trụ, không chỗ an lập, không sanh, không diệt, các pháp cũng vậy, đều như hư không. Vì không phân biệt nên không có chỗ phân biệt. Vì sao? Vì các sắc Không, cho nên không đến, không đi. Thọ, tưởng, hành, thức Không, cho nên đều không đến, không đi.
Vì sao? Vì tất cả pháp đều lấy không, vô tướng, vô nguyện làm chỗ đi đến, pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.
Tất cả pháp đều lấy không tạo, không tác làm chỗ đi đến; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.
Tất cả pháp đều lấy không sanh, không khởi làm chỗ đi đến; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.
Tất cả pháp đều lấy vô tánh làm chỗ đi đến; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.
Tất cả pháp đều lấy như mộng làm chỗ đi đến; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.
Tất cả pháp đều lấy vô ngã làm chỗ đi đến; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.
Tất cả pháp đều lấy vô biên làm chỗ đi đến; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.
Tất cả pháp đều lấy Niết-bàn vắng lặng, không thủ, không xả, không đến, không đi, tuyệt đối tịch diệt làm chỗ đi đến; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.
Các Đại Bồ-tát muốn vì thế gian nói pháp như thế nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Đây là Đại Bồ-tát vì các thế gian làm chỗ đi đến nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Ai có thể đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa sanh lòng tin hiểu?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào tu lâu nơi hạnh Đại Bồ-tát, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, ở nơi chư Phật phát nguyện rộng lớn, đã trồng căn lành đều được thuần thục, được vô lượng bạn lành bảo vệ, thương tưởng. Chính những Đại Bồ-tát này có thể sanh lòng tin hiểu Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này có thể sanh lòng tin hiểu thì Đại Bồ-tát đó lấy gì làm tự tánh?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát đó lấy điều phục viễn ly làm tự tánh.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát đó sẽ đến đâu?
Phật đáp:
- Đại Bồ-tát đó sẽ đạt đến trí nhất thiết trí.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát đạt đến trí nhất thiết trí thì có thể biết chỗ đạt đến và có thể giảng nói, cũng giúp cho hữu tình làm chỗ quay về.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Nếu Đại Bồ-tát đạt đến trí nhất thiết trí thì có thể biết chỗ đạt đến và có thể giảng nói, cũng giúp cho hữu tình làm chỗ quay về.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát này có thể làm việc khó làm, nghĩa là đội mũ, mặc áo giáp kiên cố và nghĩ: Ta sẽ độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, làm cho nhập Niết-bàn, nhưng các hữu tình đều không thể chứng đắc.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát đã đội mũ, mặc áo giáp kiên cố không thuộc sắc, không vì sắc; không thuộc thọ, tưởng, hành, thức, không vì thọ, tưởng, hành, thức. Không thuộc Thanh văn, Độc giác địa, không vì Thanh văn, Độc giác địa. Không thuộc Bồ-tát địa, không vì Bồ-tát địa. Không thuộc Phật địa, không vì Phật địa. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không chỗ thuộc, đều không chỗ vì. Các Đại Bồ-tát thực hành sâu xa Bát-nhã ba-la-mật-đa đều mặc áo giáp, đội mũ kiên cố như vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát mặc áo giáp, đội mũ kiên cố mà thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tức là đối với ba chỗ không bị vướng mắc, ba chỗ ấy là những gì? Một là Thanh văn địa; hai là Độc giác địa; ba là Như Lai địa.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Ông quán nghĩa nào mà nói như vậy?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa không có sự trụ, đắc, không kẻ tu tập, không có pháp để tu, không có thời gian tu, không nơi chốn tu, cũng không do đây mà được tu tập. Vì sao? Vì chẳng phải trong Bát-nhã ba-la-mật-đa nghĩa lý sâu xa mà có ít phần pháp chân thật có thể được gọi là có khả năng tu tập…
Bạch Thế Tôn! Nếu tu hư không là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu tu tất cả pháp là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu tu không đắm trước là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu tu không sở hữu là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu tu không nhiếp thọ là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nếu tu trừ bỏ pháp là tu Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Này Thiện Hiện! Nên nương vào Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa tối thắng này hành, trụ, quán sát Đại Bồ-tát Bất thối chuyển. Đại Bồ-tát nào tuy thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này nhưng đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa như vậy không có sự chấp trước. Nên biết, đó là Đại Bồ-tát Bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Có các Đại Bồ-tát Bất thối chuyển không chấp lời người, và lấy lời dạy của người khác làm chân yếu, không chỉ tin người khác để có hành động, nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa này tâm người ấy không kinh khiếp, không sợ hãi, không khủng hoảng, không chìm đắm, không nghi hối, cũng không mê muội. Đối với Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa vui mừng muốn nghe, hết lòng tin thọ, biên chép, giữ gìn, đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, giảng nói cho mọi người không bao giờ lười mỏi. Nên biết, Đại Bồ-tát Bất thối chuyển này đời trước đã nghe rất nhiều nghĩa lý Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát Bất thối chuyển này nghe thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, trong tâm không kinh khiếp, không sợ hãi, không khủng hoảng, giảng nói cho mọi người không bao giờ lười mỏi.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát nghe nói Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa này, trong tâm không kinh khiếp, không sợ hãi, không khủng hoảng, nói rộng cho đến giảng nói cho mọi người không bao giờ lười mỏi, thì Đại Bồ-tát ấy làm sao tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát đó tùy thuận liên tục, hướng đến thâm nhập trí nhất thiết trí. Nên làm như vậy để thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát đó làm thế nào để tùy thuận liên tục, hướng đến thâm nhập trí nhất thiết trí, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa?
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tùy thuận liên tục, hướng đến thâm nhập hư không mà thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, thì đó là Đại Bồ-tát tùy thuận liên tục, hướng đến thâm nhập trí nhất thiết trí, thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Vì trí nhất thiết trí vô lượng, vô biên. Nếu vô lượng, vô biên tức chẳng phải sắc; chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Không đắc, không hiện quán, không chứng, không đạo quả, không trí, không thức, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không bắt đầu, không chấm dứt, không tu, không tạo tác, không từ đâu đến, cũng chẳng về đâu, không phương, không cõi, cũng không chỗ trụ, mới có thể là vô lượng, vô biên.
Thiện Hiện nên biết! Vì hư không vô lượng, vô biên nên trí nhất thiết trí cũng vô lượng, vô biên. Trí nhất thiết trí vô lượng, vô biên nên không thể chứng đắc. Chẳng phải sắc có thể chứng; cũng chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức có thể chứng. Chẳng phải bố thí Ba-la-mật-đa có thể chứng; cũng chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa có thể chứng. Vì sao? Vì sắc tức trí nhất thiết trí; thọ, tưởng, hành, thức tức trí nhất thiết trí. Bố thí Ba-la-mật-đa tức trí nhất thiết trí; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa tức trí nhất thiết trí.
Khi ấy, trời Đế Thích dẫn đầu các chúng Thiên tử cõi Dục và Đại Phạm Thiên Vương dẫn đầu các chúng Thiên tử cõi Sắc, cùng đi đến chỗ Phật đảnh lễ dưới chân Ngài, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi đứng sang một bên, chấp tay cung kính đồng bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật-đa này vô cùng sâu xa, khó thấy, khó lường.
Phật dạy các Thiên tử:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời các ông đã nói. Thiên tử nên biết! Ta quán sát nghĩa này khi mới chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Ta ngồi lặng yên suy nghĩ, không muốn nói pháp, trong tâm nghĩ như thế này: Ta đã chứng pháp sâu xa vi diệu, chẳng phải các thế gian có thể chấp nhận và tin tưởng được ngay.
Thiên tử nên biết! Pháp Ta đã chứng tức là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Pháp này rất sâu xa mầu nhiệm, không năng chứng và không sở chứng, không chỗ chứng, không thời gian chứng.
Thiên tử nên biết! Vì hư không sâu xa nên pháp này sâu xa. Vì ngã sâu xa nên pháp này sâu xa. Tất cả pháp không đến, không đi nên pháp này sâu xa. Tất cả pháp vô lượng, vô biên nên pháp này sâu xa. Tất cả pháp không sanh, không diệt nên pháp này sâu xa. Tất cả pháp không nhiễm, không tịnh nên pháp này sâu xa.
Khi ấy, các Thiên tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ diệu thay! Bạch Thiện Thệ! Thật hi hữu thay! Pháp Phật đã dạy rất sâu xa vi diệu, tất cả thế gian khó tin hiểu. Vì sao? Vì pháp Phật đã dạy không bị thu phục, không bị rời bỏ. Hữu tình phần nhiều là thu phục hay bị rời bỏ, thế nên thế gian đối với lời Phật dạy không có khả năng tin hiểu được.
Phật dạy các Thiên tử:
- Thiên tử nên biết! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời các ông nói.
Hội thứ tư Phẩm Chơn Như thứ 16-1
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Pháp Phật đã dạy rất sâu xa mầu nhiệm, đối với tất cả pháp đều có thể tùy thuận, không bị chướng ngại. Pháp Phật đã dạy không có tướng chướng ngại, ngang bằng hư không, hoàn toàn không dấu vết. Pháp Phật đã dạy không có tướng đối đãi, không có tướng thứ hai. Pháp Phật đã dạy không có tướng ngang nhau vì không có đối địch. Pháp Phật đã dạy hoàn toàn không lưu dấu vì không sanh, không diệt. Pháp Phật đã dạy hoàn toàn không sanh diệt vì tất cả sanh diệt bất khả đắc. Pháp Phật đã dạy hoàn toàn không có đường tắt vì tất cả đường tắt bất khả đắc. Pháp Phật đã dạy hoàn toàn không hý luận vì phân biệt ngôn thuyết bất khả đắc.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.
Khi ấy, Thiên tử cõi Dục và cõi Sắc liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại đức Thiện Hiện đúng thật là Phật tử, được sanh ra từ đức Như Lai. Vì sao? Vì đại đức Thiện Hiện nói ra các pháp, tất cả đều tương ưng với Không.
Cụ thọ Thiện Hiện bảo các Thiên tử cõi Dục và cõi Sắc:
- Các Ngài bảo tôi đúng thật là Phật tử, được sanh ra từ đức Như Lai. Thế nào là Thiện Hiện được sanh ra từ đức Như Lai? Nghĩa là theo chơn như của Như Lai sanh ra mà tất cả pháp sanh bất khả đắc. Vì sao? Vì chơn như của Như Lai không đến, không đi, bản tánh không sanh. Chơn như của Thiện Hiện cũng không đến, không đi, bản tánh không sanh, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.
Chơn như của Như Lai tức chơn như của tất cả pháp; chơn như của tất cả pháp tức chơn như của Như Lai. Chơn như như thế không có tánh chơn như, cũng không có tánh không chơn như. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.
Chơn như của Như Lai thường trụ làm tướng, chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.
Chơn như của Như Lai không đổi khác, không phân biệt, chuyển khắp các pháp. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.
Chơn như của Như Lai không bị chướng ngại, chơn như của tất cả pháp cũng không bị chướng ngại. Hoặc chơn như của Như Lai, hoặc chơn như của tất cả pháp đồng một chơn như, không hai, không khác, không tạo, không tác. Chơn như như vậy luôn là tướng chơn như, không lúc nào là không phải tướng chơn như, nên không hai, không khác. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.
Chơn như của Như Lai đối với tất cả pháp không nhớ nghĩ, không phân biệt. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.
Chơn như của Như Lai không riêng khác, không thể đắc. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.
Chơn như của Như Lai không rời chơn như của tất cả pháp; chơn như của tất cả pháp không rời chơn như của Như Lai. Chơn như như vậy luôn là tướng chơn như, không có lúc nào không có tướng chơn như. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.
Mặc dù nói tùy sanh nhưng không có sự tùy sanh, vì chơn như của Thiện Hiện không khác Phật.
Chơn như của Như Lai không có quá khứ, không có tương lai, không có hiện tại. Chơn như của tất cả pháp cũng không có quá khứ, không có tương lai, không có hiện tại. Chơn như của Thiện Hiện cũng như vậy, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.
Chơn như của Thiện Hiện theo chơn như của Như Lai. Chơn như của Như Lai theo chơn như quá khứ; chơn như của quá khứ theo chơn như của Như Lai. Chơn như của Như Lai theo chơn như vị lai; chơn như của vị lai theo chơn như của Như Lai. Chơn như của Như Lai theo chơn như hiện tại; chơn như của hiện tại theo chơn như của Như Lai. Chơn như của Như Lai theo chơn như ba đời; chơn như của ba đời theo chơn như của Như Lai. Chơn như ba đời, chơn như của Như Lai không hai, không khác. Chơn như của tất cả pháp và chơn như của Thiện Hiện cũng không hai, không khác, nên nói Thiện Hiện sanh ra từ đức Như Lai.
Chơn như của tất cả hạnh Đại Bồ-tát tức là chơn như của quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật. Các Đại Bồ-tát do chơn như nên chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Đối với chơn như các pháp này, ta sanh lòng tin hiểu sâu xa nên nói Thiện Hiện được sanh ra từ đức Như Lai.
Đang nói về tướng chơn như này thì nơi tam thiên đại thiên thế giới biến động sáu cách, y như lúc Phật chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề không khác, nên nói Thiện Hiện được sanh ra từ đức Như Lai.
Nhưng Thiên tử nên biết! Thiện Hiện ta không do sắc mà theo Như Lai sanh; không do thọ, tưởng, hành, thức mà theo Như Lai sanh. Không do quả Dự lưu mà theo Như Lai sanh; không do quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán mà theo Như Lai sanh. Không do Độc giác Bồ-đề mà theo Như Lai sanh. Không do quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật mà theo Như Lai sanh. Chỉ do chơn như nên theo Như Lai sanh.
Thiên tử nên biết! Nhưng Thiện Hiện ta không theo sắc sanh; không theo thọ, tưởng, hành, thức sanh. Không theo quả Dự lưu sanh; không theo quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán sanh. Không theo Độc giác Bồ-đề sanh. Không theo quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật sanh. Chỉ theo chơn như sanh, nên Thiện Hiện ta theo Như Lai sanh.
Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chơn như này thật sâu xa mầu nhiệm.
Phật dạy:
- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Chơn như này thật sâu xa mầu nhiệm.
Đang lúc nói tướng chơn như này có ba trăm Bí-sô đoạn tận các lậu, tâm được giải thoát, đắc quả A-la-hán và có năm trăm Bí-sô xa lìa trần cấu, ở trong các pháp đắc pháp nhãn thanh tịnh; năm ngàn Thiên tử được thành thục nghiệp đời trước, cùng lúc chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn; sáu mươi Bồ-tát không còn các lậu, tâm được giải thoát.
Phật dạy:
- Này Xá-lợi Tử! Hiện trong đại chúng này có sáu mươi Bồ-tát đã gần gũi cúng dường năm trăm đức Phật thời quá khứ. Mặc dù họ có tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự nhưng không lãnh hội phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, sanh tư tưởng khác đi, tu hạnh khác đi nên không vào Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát. Do đó trong hiện tại tuy được nghe pháp lớn nhưng nhờ sức nhân đời trước không còn các lậu, tâm được giải thoát.
Thế nên, này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát tuy có đạo Bồ-tát là không, vô tướng, vô nguyện, nhưng không lãnh hội phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, liền chứng thật tế, rơi vào Thanh văn hay Độc giác địa.
Xá-lợi Tử! Ví như có con chim, thân nó to lớn cả trăm do-tuần, hoặc hai trăm cho đến năm trăm do-tuần, mà lông cánh chim chưa mọc đủ hoặc đã hư rụng. Chim này từ trời Ba mươi ba rơi xuống châu Thiệm-bộ, giữa đường chợt nghĩ: Bây giờ ta trở lại cõi trời Ba mươi ba. Ý ông hiểu sao? Chim này có thể bay về lại cõi trời Ba mươi ba được không?
Xá-lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không.
Phật dạy:
- Này Xá-lợi Tử! Giữa đường, chim này muốn đến châu Thiệm-bộ mà thân chim không bị tổn hại, không bị khổ. Ý ông hiểu sao? Chim ấy có được toại nguyện không?
Xá-lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không. Chim ấy khi đến châu Thiệm-bộ thân nó chắc chắn bị tổn hại và khổ đau, hoặc đưa đến chết hay sắp chết. Vì sao? Vì chim này thân to lớn mà bị rơi từ trên cao với lông cánh chưa mọc hay bị hư rụng.
Phật dạy:
- Này Xá-lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Có các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa cũng như vậy, mặc dù có phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đã trải qua hằng hà sa số kiếp tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, cũng tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nhưng không lãnh hội phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa mà chứng thật tế, liền rơi xuống Thanh văn hoặc Độc giác địa.
Xá-lợi Tử! Các thiện nam tử trụ Bồ-tát thừa này tuy nhớ giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của chư Phật Thế Tôn ba đời nhưng tâm chấp tướng, không thấy, không biết công đức chân thật ngũ uẩn này của chư Phật, chỉ nghe tiếng Không, chấp trước lấy tướng, hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề là rơi ngay xuống Thanh văn hoặc Độc giác địa. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì các Bồ-tát ấy không lãnh hội phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa nên dù có đem vô số thiện căn đã tu tập hồi hướng đạo quả Bồ-đề vẫn không đủ sức vậy.
Khi ấy, Xá-lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Theo ý con hiểu về nghĩa Phật dạy, các thiện nam tử v.v… trụ Bồ-tát thừa nếu xa lìa phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa, thì dầu cho có đầy đủ vô lượng phước đức tư lương mà đối với Bồ-đề sẽ có đắc hoặc không đắc. Thế nên các Đại Bồ-tát muốn chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nhất định không nên xa lìa phương tiện thiện xảo Bát-nhã ba-la-mật-đa.
Phật dạy:
- Này Xá-lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.