- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (24 tập)
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 2
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 3
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 4
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 5
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 6
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 7
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 8
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 9
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 10
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 11
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 12
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 13
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 14
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 15
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 16
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 17
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 18
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 19
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 20
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 21
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 22
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 23
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 24
- Tiểu sử dịch giả HT Thích Trí Nghiêm
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 20
Quyển thứ 477
Hội thứ hai Phẩm Chánh Định thứ 81
Hội thứ hai Phẩm Phật Pháp thứ 82
Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát Ma ha tát này vì trụ nhóm chánh tánh định hay trụ nhóm bất định ư?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát này đều trụ nhóm chánh tánh định, chẳng phải nhóm bất định.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Các Bồ Tát Ma ha tát này vì trụ nhóm chánh tánh định bậc nào, Thanh Văn thừa ư? Độc giác thừa ư? Bồ Tát thừa ư?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát này đều trụ nhóm chánh tánh định, chẳng trụ nhóm Nhị thừa chánh tánh định.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Các Bồ Tát Ma ha tát vì thời nào trụ nhóm chánh tánh định, sơ phát tâm ư? Ngôi Bất thối ư? Thân rốt sau ư?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát này hoặc sơ phát tâm hoặc ngôi bất thối, hoặc thân rốt sau, đều trụ nhóm Bồ Tát chánh tánh định.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Trụ nhóm chánh tánh định Bồ Tát Ma ha tát quyết định chẳng đọa trong các ác thú. Lại bảo Thiện Hiện: Nơi ý hiểu sao? Đệ bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác đọa ác thú chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng đọa.
Phật bảo:Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế. Từ sơ phát tâm tu hành bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa và vô lượng vô biên các Phật pháp khác dứt các ác pháp. Do nhân duyên đây đọa các ác thú, không có lẽ ấy, sanh trời trường thọ cũng không lẽ ấy. Vì ở chỗ kia các thắng thiện pháp hiện hành chẳng được. Bồ Tát Ma ha tát này nêu sanh chốn biên bỉ, hoặc sanh nơi bất tín hay trong ác kiến không có lẽ ấy, vì ở chỗ kia chẳng năng tu hành thiện pháp thù thắng, nhiều khởi ác kiến, chẳng tin nhân quả, thường ưa tạp làm các uế ác, chẳng nghe danh Phật, danh Pháp, danh Tăng, cũng không bốn chúng là Bí sô, Bí sô ni, tại gia nam, tại gia nữ. Bồ Tát Ma ha tát này sanh nhà tà kiến, không có lẽ ấy, vì sanh nhà kia chấp chặt các thứ ác kiến thú, bác bỏ không diệu hành, ác hành và quả, chẳng tu các lành, ưa làm các ác, nên các Bồ Tát chẳng sanh nhà kia.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát sơ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác đem thắng ý lạc mà thọ hành mười thứ bất thiện nghiệp đạo, không có lẽ ấy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu Bồ Tát Ma ha tát từ sơ phát tâm trọn nên công đức căn lành như thế, chẳng sanh xứ ác. Vì cớ Như Lai thường vì chúng nói việc tự bổn sanh nhiều trăm ngàn thứ, ở trong cũng có sanh các ác thú? Căn lành bấy giờ, vì ở chỗ nào?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát chẳng bởi uế nghiệp thọ thân ác thú. Chỉ vì nhiêu ích các loại hữu tình, do cố ý nghĩ muốn nguyện mà thọ thân kia. Vậy nên chẳng nên dẫn đó làm nạn.
Lại bảo Thiện Hiện: Nơi ý hiểu sao? Có các Độc giác, hoặc A la hán, phương tiện khéo léo, như các Bồ Tát trọn nên phương tiện khéo léo thù thắng, thọ thân bàng sanh, voi trắng thảy, thấy kẻ oán tặc muốn đến làm tổn hại, bèn khởi an nhẫn từ bi Vô thượng, muốn khiến người kia được lợi vui, nên tự xả thân mệnh, chẳng hại kia chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Các Độc giác thảy không việc như thế.
Phật bảo: Thiện Hiện! Do nhân duyên đây phải biết Bồ Tát vì muốn nhiêu ích các hữu tình, nên vì đại từ bi mau viên mãn, nên dù hiện thọ các loại thân bàng sanh, mà chẳng bị tội lỗi bàng sanh làm nhiễm.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Các Bồ Tát Ma ha tát trụ căn lành nào, vì muốn nhiêu ích các hữu tình nên thọ thân bàng sanh?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát đâu có căn lành nào chẳng viên mãn. Nhưng chúng các Bồ Tát Ma ha tát vì cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, tất cả căn lành đều viên mãn. Nghĩa là các Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa diệu Bồ đề, không có căn lành nào chẳng viên mãn. Cần đủ viên mãn tất cả căn lành, mới được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Nếu một pháp lành chưa viên mãn được mà được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, không có lẽ ấy. Vậy nên Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa diệu Bồ đề, ở thời gian giữa thường học viên mãn tất cả pháp lành. Học rồi sẽ được nhất thiết tướng trí, dứt hẳn tất cả tập khí nối nhau, mới năng chứng được nhất thiết trí trí.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Sao là Bồ Tát Ma ha tát trọn nên bạch pháp và chân Thánh trí, mà sanh ác thú thọ thân bàng sanh?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Như Lai trọn nên tất cả bạch pháp, chân Thánh trí chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Như Lai trọn nên tất cả bạch pháp và chân Thánh trí.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Như Lai hóa làm thân thú bàng sanh nhiêu ích hữu tình làm Phật sự chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Như Lai hóa làm thân thú bàng sanh nhiêu ích hữu tình làm các Phật sự.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Khi Như Lai hóa làm thân bàng sanh là thật bàng sanh, chịu khổ kia chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Khi Như Lai hoá làm thân bàng sanh chẳng thật bàng sanh, chẳng chịu khổ kia.
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, dù trọn nên bạch pháp và chân Thánh trí mà vì thành thục hữu tình, nên phương tiện khéo léo thọ thân bàng sanh, như ưng thành thục các loại hữu tình.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Có A la hán các lậu hết hẳn, năng hóa làm thân khởi các sự nghiệp. Do sự nghiệp kia, năng phát sanh tâm người người khác vui mừng chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Có A la hán các lậu hết hẳn, năng hóa làm thân, khởi các sự nghiệp. Do sự nghiệp kia năng khiến người khác sanh vui mừng lớn.
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, dù trọn nên bạch pháp và chân Thánh trí, mà vì nhiêu ích các hữu tình nên phương tiện khéo léo thọ thân ác thú, như ưng thành thục các loại hữu tình, dù thọ thân kia, mà chẳng đồng kia chịu các khổ não. Cũng lại chẳng bị tội lỗi thú kia làm tạp nhiễm.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Có thầy huyễn giỏi, hoặc học trò kia, huyễn làm nhiều thứ việc voi ngựa thảy cho chúng nhân thấy vui mừng nhảy nhót, đối kia có thật voi ngựa thảy chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Đối kia không thật việc voi ngựa thảy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế,dù trọn nên bạch pháp và chân Thánh trí mà vì nhiêu ích các hữu tình nên thọ các thứ thân bàng sanh thảy, mặc dù thọ thân kia mà thật chẳng phải kia, cũng chẳng bị tội lỗi kia làm ô nhiễm.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Các Bồ Tát Ma ha tát phương tiện khéo léo rộng lớn như thế, dù trọn nên bạch pháp và chân Thánh trí, mà vì hữu tình nên thọ các thứ thân, tuỳ kia sở ưng hiện làm nhiêu ích.
Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát Ma ha tát trụ những pháp nào năng làm phương tiện khéo léo như thế. Do vì sức phương tiện khéo léo đây, nên dù qua thế giới chư Phật mười phương Căng già sa thảy, hiện các thứ thân, lợi ích an vui loại hữu tình kia, mà ở trong ấy chẳng khởi nhiễm đắm. . Sở vì sao? Bồ Tát Ma ha tát này đối tất cả pháp đều vô sở đắc, là đều chẳng đắc năng nhiễm sở nhiễm và nhân duyên nhiễm. Sở vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh không vậy.
Thiện Hiện phải biết! Không chẳng thể nhiễm dính không . Không chẳng thể nhiễm dính các pháp, cũng không có các pháp năng nhiễm dính được không. Sở vì sao? Tánh không trong không hãy bất khả đắc huống có các pháp mà khả đắc ấy. Như vậy gọi là bất khả đắc không. Các Bồ Tát Ma ha tát an trụ trong đây năng chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, vì các hữu tình thường làm nhiêu ích.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Các Bồ Tát Ma ha tát chỉ vì an trụ Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu năng làm phương tiện khéo léo như thế, hay cũng an trụ các pháp khác ư?
Phật bảo: Thiện Hiện! Đâu có các pháp nào chẳng bị nhiếp thọ trong Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu mà ngươi nay sanh nghi như thế?
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đã tự tánh không, làm sao nói được Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu nhiếp tất cả pháp? Chẳng phải ở trong không khá nói được có pháp nhiếp cùng chẳng nhiếp?
Phật bảo: Thiện Hiện! Đâu chẳng các pháp, các pháp tánh không? Thiện Hiện thưa rằng: Như vậy, như vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp, tất cả pháp tánh không, đâu chẳng trong không nhiếp tất cả pháp? Thiện Hiện thưa rằng: Như vậy, như vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Bởi nhân duyên đây, Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu nhiếp tất cả pháp. Nên biết Bồ Tát trụ Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu năng làm phương tiện khéo léo như thế.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu an trụ trong các pháp tự tánh không, dẫn pháp thần thông Ba la mật đa. An trụ thần thông Ba la mật đa, năng qua thế giới chư Phật mười phương Căng già sa thảy, cúng dường cung kính chư Phật Thế Tôn. Ở chỗ chư Phật nghe thọ Chánh pháp, trồng trọt vô lượng căn lành thù thắng?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khắp xem thế giới chư Phật mười Căng già sa thảy và chư Phật mười phương Căng già sa thảy và chư Phật, chúng cùng pháp đã thuyết tự tánh đều không. Duy có thế giả nói danh tự, nói là thế giới, Phật, Chúng và pháp. Thế tục giả nói danh tự như thế, tự tánh cũng không.
Thiện Hiện phải biết! Nếu mười phương giới chư Phật, Chúng cùng pháp đã nói, giả nói danh tự tự tánh chẳng không, thời sở thuyết không, lẽ thành một phần. Vì sở thuyết không chẳng thành một phần, nên tất cả pháp tự tánh đều không. Lý ấy mới chu viên, không hai không riêng. Các Bồ Tát Ma ha tát khi hành bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, do phương tiện khéo léo khắp quán không, nên dẫn phát thần thông Ba la mật đa. An trụ thần thông Ba la mật đa bèn năng dẫn phát vi diệu thông huệ: Thiên nhãn, thiên nhĩ, thần cảnh, tha tâm, túc trụ, tuỳ niệm và biết lậu tận.
Thiện Hiện phải biết! Các Bồ Tát Ma ha tát chẳng lìa thần thông Ba la mật đa có được tự tại thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vậy nên thần thông Ba la mật đa là đạo bồ đề, các Bồ Tát Ma ha tát đều nương đạo này cầu tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Ở khi cầu tới, năng tự viên mãn tất cả thiện pháp đều không chấp đắm . Sở vì sao? Bồ Tát Ma ha tát này biết các thiện pháp đều tự tánh không. Chẳng phải tự tánh không có sở chấp trước. Nếu có chấp trước thời có ái vị. Do không chấp trước cũng không có ái vị, trong tự tánh không có ái vị, nên năng ái vị, sở ái vị và nhân duyên ái vị ở trong không pháp bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện phải biết! Các Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã ba la mật đa thẳm sâu an trụ thần thông Ba la mật đa, dẫn phát thiên nhãn thanh tịnh hơn người. Dùng thiên nhãn đây xem tất cả phát tự tánh đều không. Vì thấy tất cả pháp tự tánh không, nên chẳng nương Pháp Tướng gây làm các nghiệp, tuy vì hữu tình thuyết pháp như thế mà cũng chẳng đắc tướng các hữu tình và thi thiết kia. Bồ Tát Ma ha tát này đem vô sở đắc mà làm phương tiện, dẫn phát Bồ Tát thần thông thù thắng. Dùng thần thông đây làm tất cả sự nghiệp cần nên làm.
Bồ Tát Ma ha tát này đem thiên nhãn cực thanh tịnh hơn người, khắp xem thế giới chư Phật mười phương Căng già sa thảy. Thấy rồi, dẫn phát thần cảnh trí thông, qua kia nhiêu ích các loại hữu tình, hoặc đem bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa mà làm nhiêu ích.
Hoặc đem bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi mà làm nhiêu ích. Hoặc đem bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định mà làm nhiêu ích. Hoặc đem tám giải thoát cho đến mười biến xứ mà làm nhiêu ích. Hoặc đem không , vô tướng, vô nguyện giải thoát môn mà làm nhiêu ích. Hoặc đem các pháp lành thù thắng khác mà làm nhiêu ích. Hoặc đem Thanh Văn, Độc giác, Bồ Tát và các Phật pháp mà làm nhiêu ích.
Bồ Tát Ma ha tát này ở mười phương cõi, nếu thấy hữu tình kẻ nhiều xan tham, rất sanh thương xót, thuyết pháp như vầy: “Hữu tình các ngươi phải hành bố thí. Các kẻ xan tham chịu khổ nghèo cùng. Bởi nghèo cùng nên không có oai đức, chẳng năng tự ích huống năng ích người. Vậy nên các ngươi nên siêng hành thí. Đã tự an vui, cũng an vui người. Chớ vì nghèo cùng ăn nuốt lẫn nhau, đều chẳng giải thoát khổ ác thú.”
Nếu thấy hữu tình hủy phạm tịnh giới, rất sanh thương xót, thuyết pháp như vầy: “Hữu tình các ngươi phải trì tịnh giới. Các kẻ phá giới chịu khổ ác thú. Những kẻ phá giới không có oai đức, chẳng năng tự ích, huống năng ích người. Nhân duyên phá giới đọa ba ác thú, chịu khổ dị thục đau độc khó chịu, chẳng năng tự cứu, huống năng cứu người. Vậy nên các ngươi phải trì tịnh giới. Chẳng nên dung nạp tâm phá giới qua chừng giây lát, huống trải nhiều thời, chớ tự lung tâm, sau sanh ưa hối.”
Nếu thấy hữu tình giận dữ lẫn nhau, lần hồi kết hận, tổn não với nhau, rất sanh thương xót, thuyết pháp như vầy: “Hữu tình các ngươi phải tu an nhẫn, chớ giận dữ nhau, kết hận hại nhau. Các tâm giận hờn chẳng thuận thiện pháp, tăng trưởng ác pháp, rước hiện suy tổn. Các ngươi bởi tâm giận hờn đây, nên thân hoại mệnh chung sẽ đọa ác thú chịu các cực khổ, khó có kỳ ra. Vậy nên các ngươi chẳng nên dung nạp tâm giận hờn qua chừng giây lát, huống chi cho nó nối nhau thời dài. Ngày nay các ngươi lần lữa duyên nhau, nên khởi từ tâm làm việc nhiêu ích.”
Nếu thấy hữu tình biếng trễ lười nhác, rất sanh thương xót, thuyết pháp như vầy: “Hữu tình các ngươi phải siêng tinh tiến, chớ đối pháp lành biếng trễ lười nhác. Các kẻ lười biếng đối các pháp lành và các thắng sự đều chẳng năng thành, các ngươi bởi đấy đọa các ác thú chịu vô lượng khổ. Vậy nên các ngươi chẳng nên dung nạp tâm lười biếng qua chừng giây lát, huống gì cho nó nối nhau thời dài.”
Nếu thấy hữu tình mất nhớ tán loạn, tâm chẳng vắng lặng, rất sanh thương xót, thuyết pháp như vầy: “Hữu tình các ngươi phải tu tĩnh lự, chớ sanh tâm mất nhớ tán loạn. Tâm như thế chẳng thuận thiện pháp, tăng trưởng ác pháp, rước hiện suy tổn. Các ngươi bởi đấy thân hoại mệnh chung đọa các ác thú chịu vô lượng khổ. Vậy nên các ngươi chẳng nên dung nạp tương ưng mất nhớ tán loạn qua chừng giây lát, huống gì cho nó nối nhau thời dài.”
Nếu thấy hữu tình ngu si ác huệ, rất sanh thương xót, thuyết pháp như vầy: “ Hữu tình các ngươi phải tu thắng huệ chớ khởi ác huệ. Kẻ khởi ác huệ đối các thiện thú hãy chẳng tới được, huống được giải thoát! Các ngươi bởi nhân duyên ác huệ bát nhã Ba la mật đa.
Hoặc nói bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Hoặc nói bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Hoặc nói tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Hoặc nói không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Hoặc nói tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Hoặc nói nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Hoặc nói chơn như cho đến bất tư nghì giới. Hoặc nói khổ tập diệt đạo thánh đế.
Hoặc nói nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Hoặc nói theo duyên sanh ra các pháp. Hoặc nói vô minh cho đến lão tử. Hoặc nói các thứ pháp môn uẩn, xứ, giới.
Hoặc nói đạo Thanh Văn, hoặc nói Độc giác, hoặc nói đạo Bồ Tát, hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết Bàn. Khiến các hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng.
Bồ Tát Ma ha tát này đem thiên nhĩ cực thanh tịnh hơn người năng nghe tất cả tiếng người phi người. Do thiên nghĩ đây khắp nghe thế giới chư Phật mười phương Căng già sa thảy tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thuyết lên Chánh pháp, nghe rồi thọ trì, suy nghĩ nghĩa thú. Tuỳ pháp đã nghe năng vì hữu tình như thật tuyên nói, hoặc nói bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa. Nói rộng cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết Bàn, khiến hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng.
Bồ Tát Ma ha tát này đem tha tâm trí thông cực thanh tịnh, như thật biết rõ pháp tâm tâm sở các loại hữu tình, tuỳ kia sở ưng vì nói pháp yếu. Nghĩa là nói bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa. Nói rộng cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết Bàn khiến hữu tình kia nghe pháp này rồi đều được lợi ích an vui thù thắng.
Bồ Tát Ma ha tát này đem tịnh túc trụ tùy niệm trí thông năng nhớ các việc bổn sanh mình người. Do túc trụ tuỳ niệm trí thông đây như thật nhớ biết danh thảy sai khác của chư Phật và chúng đệ tử đời quá khứ. Nếu các hữu tình ưa nghe các việc túc trụ quá khứ mà được ích ấy, bèn vì tuyên nói các việc túc trụ. Nhân đây phương tiện vì thuyết chánh pháp. Nghĩa là nói bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa. Nói rộng cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết Bàn, khiến hữu tình kia nghe pháp này rồi, đều được lợi ích an vui thù thắng.
Bồ Tát Ma ha tát này đem thần cảnh trí thông cực nhanh chóng, qua đến thế giới chư Phật mười phương Căng già sa thảy, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn. Ở chỗ chư Phật trồng các căn lành. Về lại bản cõi vì các hữu tình nói việc cõi chư Phật, nhân đấy phương tiện vì thuyết chánh pháp. Nghĩa là nói bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa. Nói rộng cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết Bàn, khiến các hữu tình nghe pháp này rồi, đều được lợi ích an vui thù thắng.
Bồ Tát Ma ha tát này đem tuỳ sở đắc lậu tận trí thông, như thật biết rõ các loại hữu tình lậu hết chưa biết, cũng như thật biết lậu hết, phương tiện vì kẻ chưa hết tuyên nói pháp yết. Nghĩa là nói bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa. Nói rộng cho đến hoặc nói Bồ đề, hoặc nói Niết Bàn, khiến các hữu tình nghe pháp này rồi, đều được lợi ích an vui thù thắng.
Như vậy Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu nên dẫn phát thần thông Ba la mật đa. Bồ Tát Ma ha tát này tu tập thần thông Ba la mật đa được viên mãn nên tuỳ chỗ ý muốn thọ các thứ thân, chẳng bị lầm lỗi khổ vui làm ô nhiễm. Như hoá thân Phật tùy năng ra làm nhiều thứ sự nghiệp mà chẳng bị lầm lỗi khổ vui kia làm tạp nhiễm.
Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu nen rỗi dạo thần thông Ba la mật đa. Nếu rỗi dạo thần thông Ba la mật đa, thời năng thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện phải biết! Nếu Bồ Tát Ma ha tát chẳng thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, quyết chẳng năng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề . Sở vì sao? Các Bồ Tát Ma ha tát nếu chưa viên mãn tư lương bồ đề tất chẳng năng chứng sở cầu Vô thượng Chánh đẳng bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là tư lương Bồ đề các Bồ Tát Ma ha tát? Các Bồ Tát Ma ha tát viên mãn tư lương Bồ đề như thế mới năng chứng được sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề?
Phật bảo: Thiện Hiện! Tất cả thiện pháp đều là tư lương bồ đề Bồ Tát.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Những gì gọi là tất cả thiện pháp?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát từ sơ phát tâm tu hành bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa, với trong đều vô phân biệt chấp trước rằng khởi nghĩ này: “Đây là bố thí cho đến Bát nhã. Do đây vì đây mà tu bố thí cho đến Bát nhã.” Ba phân biệt chấp trước này đều vô, vì biết tất cả pháp tự tánh không vậy. Bởi đây sở tu bố thí thảy sáu Ba la mật đa tự năng nhiêu ích tất cả hữu tình khiến ra sanh tử chứng Niết Bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi tư lương bồ đề Bồ Tát, cũng gọi đạo Bồ Tát Ma ha tát. Chúng Bồ Tát Ma ha tát quá khứ vị lai hiện tại hành đạo đây nên đã được sẽ được đang được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Cũng khiến hữu tình đã sẽ đang qua biến cả sanh tử, được vui Niết Bàn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát từ sơ phát tâm tu hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi.
An trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. An trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. An trụ khổ tập diệt đạo thánh đế.
Tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tu hành các bậc Bồ Tát Ma ha tát. Tu hành tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Tu hành Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Với trong đều vô phân biệt chấp trước, rằng khởi nghĩ này: “Đây là bốn niệm trụ cho đến nhất thiết tướng trí. Do đây vì đây mà tu bốn niệm trụ cho đến nhất thiết tướng trí”. Ba phân biệt chấp trước đều vô, vì biết tất cả pháp tự tánh không vậy.
Bởi đây sở tu bốn niệm trụ cho đến nhất thiết tướng trí năng tự nhiêu ích, cũng năng nhiêu ích tất cả hữu tình khiến ra sanh tử được Niết Bàn, nên nói là thiện pháp, cũng gọi tư lương Bồ đề Bồ Tát, cũng gọi đạo Bồ Tát Ma ha tát. Chúng Bồ Tát Ma ha tát quá khứ vị lai hiện tại hành đạo đây, nên đã được, sẽ được, đang được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Cũng khiến hữu tình đã sẽ đang qua biển lớn sanh tử được vui Niết Bàn.
Thiện Hiện phải biết! Lại có vô lượng chúng các Bồ Tát tu công đức đều gọi thiện pháp, cũng gọi tư lương bồ đề Bồ Tát, cũng gọi đạo bồ tá Ma ha tát. Các Bồ Tát Ma ha tát cần tu các thắng thiện pháp như thế khiến cực viên mãn, mới chứng được Nhất thiết trí trí. Cần đã chứng được Nhất thiết trí trí mới năng quay xe Chánh pháp không trái ngược, khiến các hữu tình an vui rốt ráo.
Hội Thứ Hai
Phẩm PHẬT PHÁP Thứ 82
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện pháp đấy là pháp Bồ Tát ấy, lại có những nào là pháp Phật ư?
Phật bảo: Thiện Hiện! Tức pháp Bồ Tát là pháp Phật. Nghĩa là các Bồ Tát đối tất cả pháp tất cả tướng. Do đây sẽ được nhất thiết tướng trí, dứt hẳn tất cả tập khí nối nhau. Nếu các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối tất cả pháp dùng một sát na tương ưng diệu huệ hiện đẳng giác rồi, chứng được Vô thượng Chánh đẳng bồ đề.
Thiện Hiện! Đấy gọi Bồ Tát cùng Phật hai pháp sai khác. Như hai Thánh giả, tuy đồng là Thánh mà có hành hướng trụ quả sai khác, pháp được thành tựu chẳng phải không có khác.
Như vậy, Thiện Hiện! Nếu trong đạo vô gián hành tất cả pháp chưa lìa ám chướng, chưa đến bờ kia, chưa được tự tại, khi chưa được quả, gọi là Bồ Tát. Nếu trong đạo giải thoát, hành tất cả pháp đã lìa ám chướng, đã đến bờ kia, đã được tự tại, khi đã được quả mới gọi là Phật, đấy là Bồ Tát cùng Phật có khác. Do vị có khác, pháp chẳng không riêng, mà chẳng thể nói pháp tánh có khác.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu tất cả pháp tự tướng đều không . Trong tự tướng không làm sao được có các thứ sai khác: Rằng đây là địa ngục, đây là bàng sanh, đây là quỷ giới, đây là người, đây là trời, đây là bậc Chủng tánh, đây là bậc Đệ bát, đây là dự lư, đây là Nhất lai, đây là Bất hoàn, đây là A la hán, đây là Độc giác, đây là Bồ Tát, đây là Như Lai.
Bạch Thế Tôn! Đã nói như thế, bổ đặc già la đã bất khả đắc, kia chỗ gây nghiệp cũng bất khả đắc, như chỗ gây nghiệp đã bất khả đắc, quả dị thục kia cũng bất khả đắc?
Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy như vậy. Như ngươi đã nói, tất cả pháp tự tướng không. Trong tự tướng không, bổ đặc già la đã vô sở hữu, nghiệp quả dị thục cũng vô sở hữu, trong vô sở hữu không có tướng sai biệt. Nhưng các hữu tình đối lý tất cả pháp tự tướng không chẳng như thật biết, gây làm các nghiệp lành hoặc dữ. Do nơi nghiệp lành gây làm tăng trưởng, sanh trong trời người. Do nơi nghiệp dữ gây làm tăng trưởng đọa ba ác thú. Ở trong nghiệp lành do nơi định nghiệp gây làm tăng trưởng sanh nơi cõi Sắc, hoặc cõi Vô sắc. Bởi nhân duyên đây các Bồ Tát Ma ha tát tu hành bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa.
An trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. An trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. An trụ khổ tập diệt đạo thánh đế.
Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Tu hành tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Tu hành năm nhãn, sáu thần thông. Tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Tu hành Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát đối Bồ đề phần pháp như thế thảy không hở không khuyết tu cho đến viên mãn. Đã viên mãn rồi, bèn năng dẫn phát định Kim cương dụ cận trợ Bồ đề, mới chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cùng các hữu tình làm đại nhiêu ích, thường không mất hoại. Vì không mất hoại nên khiến các hữu tình giải thoát các việc khổ não sanh tử.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Phật được Vô thượng Chánh đẳng giác rồi, vì được pháp các thú sanh tử chăng? Phật nói: Chẳng được.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Phật được Vô thượng Chánh đẳng giác rồi, vì được hắc nghiệp, bạch nghiệp, hắc bạch nghiệp, phi hắc bạch nghiệp chăng? Phật nói: chẳng được.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Nếu Phật chẳng được các thú sanh tử và nghiệp sai biệt, làm sao thị thiết đây là địa ngục, đây là bàng sanh, đây là quỷ giới, đây là người, đây là trời, đây là Chủng tánh địa, đây là Đệ bát địa, đây là Dự lưu, đây là Nhất lai, đây là Bất hoàn, đây là A la hán, đây là Độc giác, đây là Bồ Tát, đây là Như Lai?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu các hữu tình tự biết các pháp tự tướng không ấy, các Bồ Tát Ma ha tát bèn đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng cần cầu chứng, phương tiện khéo léo cứu vớt các hữu tình ác thú sanh tử. Vì các hữu tình chẳng biết các pháp tự tướng không, nên trôi lăn các thú chịu vô lượng khổ. Vậy nên Bồ Tát theo chỗ chư Phật, nghe tất cả pháp tự tướng không rồi, vì muốn nhiêu ích các hữu tình, nên cầu chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề phương tiện khéo léo cứu vớt các hữu tình ác thú sanh tử.
Thiện Hiện phải biết! Các Bồ Tát Ma ha tát thường khởi nghĩ này: chẳng phải tất cả pháp thật có tự tướng, như chỗ chấp của các ngu phu dị sanh, nhiên hậu sức phân biệt điên đảo, nên trong chẳng phải thật có khởi tưởng thật có, nghĩa là trong vô ngã khởi tưởng nơi ngã, trong vô hữu khởi tưởng hữu tình. Nói rộng cho đến vô kiến giả khởi tưởng kiến giả. Với trong vô sắc khởi tưởng nơi sắc, trong vô thọ tưởng hành thức khởi tưởng thọ tưởng hành thức. Cho đến trong tất cả pháp hữu vi, vì sức hư dối phân biệt điên đảo nên chẳng thật bảo thật, chẳng có chấp có. Do đây gây tác nghiệp thân ngữ ý, chẳng năng giải thoát sanh tử ác thú, ta phải cứu vớt khiến được giải thoát.
Bồ Tát Ma ha tát này khởi nghĩ đây rồi, hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, đem các thiện pháp nhiếp ở nơi trong tu hành các hạnh Bồ Tát không trái ngược, lần hồi viên mãn tư lương Bồ đề. Tư lương bồ đề đã được viên mãn, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Được Bồ đề rồi, vì các hữu tình tuyên nói khai thị, phân biệt kiến lập nghĩa bốn thánh đế: Rằng đây là khổ thánh đế, đây là khổ tập thánh đế, đây là khổ diệt thánh đế, đây là tới đạo khổ thánh đế. Lại đem tất cả Bồ đề phần pháp nương trí thông đạt, nhiếp ở trong bốn thánh đế như thế. Lại nương tất cả bồ đề phần pháp, dùng trí vi diệu thi thiết kiến lập Phật Pháp Tăng bảo. Nhờ Tam-Bảo đây xuất hiện thế gian các loại hữu tình giải thoát sanh tử. Nếu các hữu tình chăng năng quy tính Phật Pháp Tăng bảo, gây làm các nghiệp lộn quanh các thú chịu khổ vô cùng, nên phải quy y Phật Pháp Tăng bảo.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Vì bởi khổ tập diệt đạo thánh đế các loại hữu tình được vào Niết Bàn, hay bởi trí khổ tập diệt đạo thánh đế các loại hữu tình được vào Niết Bàn?
Phật bảo Thiện Hiện! Chẳng bởi khổ tập diệt đạo thánh đế các loại hữu tình được vào Niết Bàn. Chẳng bởi trí khổ tập diệt đạo thánh đế các loại hữu tình được vào Niết Bàn.
Thiện Hiện! Ta nói tánh bốn thánh đế bình đẳng tức là Niết Bàn. Niết Bàn như thế chẳng bởi đế khổ tập diệt đạo được, chẳng bởi trí khổ tập diệt đạo được. Chỉ bởi Bát nhã Ba la mật đa chứng tánh bình đẳng gọi được Niết Bàn.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Những gì gọi là tánh bình đẳng khổ tập diệt đạo ư?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu ở chỗ này không có khổ tập diệt đạo đế, không có khổ tập diệt đạo trí, gọi tánh bốn thánh đế bình đẳng. Tánh bình đẳng đây tức là bốn thánh đế. Sở hữu chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cõi hư không , cõi bất tư nghì, nếu Phật ra đời hoặc chẳng ra đời, tánh tướng thường trú, không mất hoại, không biến đổi. Như vậy gọi là tánh bình đẳng khổ tập diệt đạo.
Các Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, vì muốn tùy giác tánh bình đẳng bốn thánh đế đây, nên hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Nếu khi năng tùy giác tánh bình đẳng bốn thánh đế đây gọi chơn tuỳ giác tất cả thánh đế, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng bồ đề.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Sao là Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, vì muốn tùy giác tánh bình đẳng bốn thánh đế đây nên hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu? Nếu khi năng tùy giác tánh bình đẳng bốn thánh đế đây, gọi chơn tùy giác tất cả thánh đế, chẳng đọa Thanh Văn bậc Độc giác thảy, tới vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh?
Phật bảo: Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, không có chút pháp chẳng như thật thấy. Khi đối tất cả pháp như thật thấy, đối tất cả pháp đều vô sở đắc. Khi đối tất cả pháp vô sở đắc, thời như thật thấy tất cả pháp không, nghĩa là như thật thấy bốn đế chỗ nhiếp và chỗ chẳng nhiếp, các pháp đều không. Khi thấy như thế năng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, do năng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, nên bèn trụ trong bậc Bồ Tát chủng tánh. Đã trụ trong bậc Bồ Tát chủng tánh, thời năng quyết định chẳng từ đỉnh đọa, nếu từ đỉnh đọa lẽ đọa Thanh Văn hoặc bậc Độc giác. Bồ Tát Ma ha tát này an trụ trong bậc Bồ Tát chủng tánh khởi bốn tĩnh lự và bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Bồ Tát Ma ha tát này an trụ Xa ma tha địa như thế, mới năng quyết chọn tất cả pháp tánh, và tuỳ giác ngộ bốn thánh đế.
Bấy giờ, Bồ Tát dù khắp biết khổ mà năng chẳng khởi tâm duyên chấp khổ. Dù dứt hẳn tập mà năng chẳng khởi tâm duyên chấp tập. Dù năng chứng diệt, mà năng chẳng khởi tâm duyên chấp diệt. Dù năng tu đạo, mà năng chẳng khởi tâm duyên chấp đạo. Chỉ khởi tâm tùy thuận hướng tới đến vào Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, như thật quán sát thật tướng các pháp.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bồ Tát Ma ha tát này làm sao quán sát thật tướng các pháp?
Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ Tát Ma ha tát này đối tất cả pháp như thật quán sát đều tự tướng không. Như vậy quán sát các pháp đều không. Bồ Tát Ma ha tát này dùng tướng Tỳ bát xá na như thế, như thật quán thấy các pháp đều không, trọn chẳng thấy có tự tánh các pháp khá trụ tánh kia, chứng được Vô thượng Chánh đẳng bồ đề . Sở vì sao? Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng bồ đề và tất cả pháp đều lấy vô tánh mà làm tự tánh. Chỗ gọi sắc cho đến thức, đều lấy vô tánh mà làm tự tánh. Nhãn xứ cho đến ý xứ cũng lấy vô tánh làm tự tánh. Sắc xứ cho đến ý xứ cũng lấy vô tánh làm tự tánh. Nhãn giới cho đến ý giới cũng lấy vô tánh làm tự tánh. Sắc giới cho đến pháp giới cũng lấy vô tánh làm tự tánh. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới cũng lấy vô tánh làm tự tánh. Nhãn xúc cho đến ý xúc cũng lấy vô tánh làm tự tánh. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh.
Địa giới cho đến thức giới cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Theo duyên sanh ra các pháp cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Vô minh cho đến lão tử cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Chơn như cho đến bất tư nghì giới cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Khổ tập diệt đạo thánh đế cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh.
Bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Tám giải thoát cho đến mười biến xứ cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh.
Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Năm nhãn, sáu thần thông cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tuỳ hảo cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh.
Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Tất cả hạnh Bồ Tát Ma ha tát cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề cũng lấy vô tánh mà làm tự tánh. Vô tánh như thế chẳng chư Phật làm, chẳng Độc giác làm, chẳng Bồ Tát làm, chẳng Thanh Văn làm, cũng chẳng phải những kẻ trụ quả hành hương làm. Chỉ vì hữu tình đối tất cả pháp chẳng biết chẳng thấy như thật đều không , nên chúng các Bồ Tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện khéo léo, như tự sở giác vì các hữu tình như thật tuyên nói khiến lìa chấp trước, giải thoát tất cả sanh lão bịnh tử, được vào Niết Bàn an vui rốt ráo.