- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (24 tập)
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 2
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 3
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 4
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 5
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 6
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 7
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 8
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 9
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 10
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 11
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 12
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 13
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 14
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 15
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 16
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 17
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 18
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 19
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 20
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 21
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 22
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 23
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 24
- Tiểu sử dịch giả HT Thích Trí Nghiêm
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 19
Quyển Thứ 455
Hội thứ hai Phẩm Đồng Học thứ 61-2 134
Hội thứ hai Phẩm Đồng Tánh thứ 62-1 150
Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Bấy giờ, cụ thọ Khánh Hỷ thầm khởi nghĩ này: Nay Thiên Đế Thích vì tự biện tài tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, ngợi khen công đức thắng lợi Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, hay là sức oai thần Như Lai?
Khi ấy, Thiên Đế Thích liền biết chỗ tâm nghĩ của Khánh Hỷ thưa rằng: Thưa Đại đức! Tôi đã tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, tôi đã ngợi khen công đức thắng lợi Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, đều là sức oai thần Như Lai.
Bấy giờ, Phật bảo Khánh Hỷ rằng: Như vậy, như vậy. Nay Thiên Đế Thích tuyên nói ngợi khen công đức thắng lợi Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, phải biết đều là thần lực Như Lai, chẳng phải tự biện tài. Sở dĩ vì sao? Vì công đức thắng lợi Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, quyết định chẳng phải tất cả thế gian trời, người, a tố lạc thảy biết được, nói được.
Khánh Hỷ phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát tập học suy nghĩ khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, tất cả ác ma Tam thiên đại thiên thế giới đây đều sanh nghi ngờ, đều khởi nghĩ này: Bồ tát Ma ha tát đây vì chứng thật tế lui lấy quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, hay là tiến tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề?
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Bồ tát Ma ha tát chẳng lìa Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, khi ấy ác ma rất sanh sầu não lớn, thân tâm đau đớn như trúng tên độc.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, khi ấy ác ma đi đến chỗ kia hóa làm nhiều việc nên sợ hãi, muốn khiến Bồ Tát thân tâm kinh khủng, mê mất tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, đối chỗ tu hành ôm lòng lui khuất, cho đến phát khởi một niệm loạn ý, ngăn được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Đấy là thâm tâm sở nguyện ác ma kia.
Bấy giờ, Khánh Hỷ liền thưa Phật rằng: Vì các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đều bị ác ma não loạn, hay có kẻ bị não , chẳng não loạn?
Phật bảo: Khánh Hỷ! Chẳng phải Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đều bị ác ma làm não loạn. Nhưng có kẻ bị não loạn, chẳng não loạn.
Cụ thọ Khánh Hỷ lại thưa Phật rằng: Hạng Bồ tát Ma ha tát nào khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu bị ác ma làm não loạn, hạng Bồ tát Ma ha tát nào khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chẳng bị ác ma làm não loạn?
Phật bảo: Khánh Hỷ! Nếu Bồ tát Ma ha tát đời trước nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây tâm chẳng tin hiểu, hủy chê bài bang, Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu bị các ác ma làm não loạn. Nếu Bồ tát Ma ha tát đời trước nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây tin hiểu khen mỹ, chẳng sanh bài bang, Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chẳng bị ác ma não loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Bồ tát Ma ha tát đời trước nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây nghi ngờ do dự là có hay không, là thật chẳng thật, Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu bị các ác ma làm não loạn. Nếu Bồ tát Ma ha tát đời trước nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây, nơi tâm chẳng sanh nghi ngờ do dự, tin định thật có, Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chẳng bị ác ma làm não loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Bồ tát Ma ha tát lìa thiện tri thức, bị ác tri thức nhiếp thọ, chẳng nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế. Do vì chẳng nghe, nên chẳng hiểu rõ Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Vì chẳng hiểu rõ nên chẳng năng tu tập Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Vì chẳng tu tập nên chẳng thỉnh hỏi Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Vì chẳng thỉnh hỏi nên chẳng như thuyết tu hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Vì chẳng như thuyết tu hành nên chẳng năng chứng được Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, bị các ác ma làm não loạn.
Nếu Bồ tát Ma ha tát gần thiện tri thức, ác tri thức chẳng nhiếp thọ, được nghe Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Do vì được nghe, nên hiểu rõ được Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Vì hiểu rõ thời năng tu tập được Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Do tu tập nên năng thỉnh hỏi Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Do thỉnh hỏi nên như thuyết tu hành được Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Như thuyết tu hành nên năng chứng được Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chẳng bị ác ma làm não loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Bồ tát Ma ha tát xa lìa Bát nhã Ba la mật đa, nhiếp thọ ngợi khen pháp phi chơn diệu, Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu bị các ác ma làm não loạn.
Nếu Bồ tát Ma ha tát gần gũi Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nhiếp chẳng khen pháp phi chơn diệu, Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chẳng bị ác ma làm não loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Bồ tát Ma ha tát xa lìa Bát nhã Ba la mật đa, đối pháp chơn diệu hủy chê bài bang. Bấy giờ, ác ma bèn nghĩ như vầy: Nay Bồ Tát đây làm bạn cùng ta, do kia hủy bang pháp chơn diệu nên có vô lượng bổ đặc già la trụ Bồ Tát thừa đối pháp chơn diệu cũng sanh hủy bang. Bởi nhân duyên này, ta nguyện viên mãn bổ đặc già la Bồ Tát thừa này, giả sử siêng tinh tiến tu các pháp lành mà đọa Thanh văn hoặc bậc Độc giác, cũng cho kia đọa theo. Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu bị các ác ma làm não loạn.
Nếu Bồ tát Ma ha tát gần gũi Bát nhã Ba la mật đa, đối pháp chơn diệu ngợi khen tín thọ, cũng khiến vô lượng bổ đặc già la trụ Bồ Tát thừa đối pháp chơn diệu ngợi khen tín thọ. Do đây ác ma buồn rầu kinh sợ. Bổ đặc già la Bồ Tát thừa này, giả sử chẳng tinh tiến tu các pháp lành, mà cũng quyết định chẳng khiến mình người lui đọa Thanh văn hoặc bậc Độc giác, tất chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chẳng bị ác ma làm não loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi nghe thuyết kinh Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu thốt lời như vầy: Bát nhã Ba la mật đa như thế lý thú thẳm sâu, khó thấy khó giác, dùng tuyên nói lóng nghe thọ trì đọc tụng, suy nghĩ tinh siêng tu tập, thơ tả lưu khắp kinh điển đây làm gì. Ta hãy chẳng năng đắc nguồn đáy kia, huống những kẻ phước mỏng trí cạn kia ôi! Khi đó có vô lượng bổ đặc già la trụ Bồ Tát thừa nghe kia đã nói tâm đều kinh sợ, bèn lui tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, đọa bậc Nhị thừa. Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu bị các ác ma làm não loạn.
Nếu Bồ tát Ma ha tát khi nghe thuyết kinh Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nói lời như vầy: Bát nhã Ba la mật đa như thế lý thú thẳm sâu, nếu chẳng tuyên nói lóng nghe thọ trì đọc tụng, suy nghĩ tinh siêng tu tập thơ tả lưu khắp , năng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, chắc không lẽ ấy.
Khi đó có vô lượng bổ đặc già la trụ Bồ Tát thừa nghe kia đã nói, vui mừng nhảy nhót, đều đối Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế thường muốn lóng nghe, thọ trì đọc tụng, rốt ráo thông lợi, suy nghĩ đúng lý, tinh tiến tu hành, vì người diễn nói, thơ tả lưu khắp, phát tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chẳng bị ác ma làm não loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Bồ tát Ma ha tát ỷ mình có bao công đức căn lành, khinh chúng Bồ tát Ma ha tát khác, bảo lời như vầy: Ta năng tu hành bố thí blmd cho đến Bát nhã Ba la mật đa, các ngươi bất năng. Ta năng an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không, các ngươi bất năng. Ta năng an trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới, các ngươi bất năng. Ta năng an trụ khổ tập diệt đạo thánh đế, các ngươi bất năng.
Ta năng tu hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi, các ngươi bất năng. Ta năng tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, các ngươi bất năng. Ta năng tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ, các ngươi bất năng. Ta năng tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, các ngươi bất năng.
Ta năng tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, các ngươi bất năng. Ta năng tu hành trí Tịnh quán đị cho đến trí Như Lai địa, các ngươi bất năng. Ta năng tu hành năm nhãn, sáu thần thông, các ngươi bất năng. Ta năng tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, các ngươi bất năng. Ta năng tu hành pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, các ngươi bất năng.
Ta năng tu hành nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, các ngươi bất năng. Ta năng nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, các ngươi bất năng. Ta năng thuận nghịch quán nhánh duyên khởi, các ngươi bất năng. Ta năng tu tập đà la ni môn, tam ma địa môn, các ngươi bất năng. Ta năng tu tập tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát, chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, các ngươi bất năng.
Bấy giờ, ác ma vui mừng nhảy nhót, nói: Bồ Tát đây là bè bạn ta, luân hồi sanh tử chưa có lúc ra. Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu bị các ác ma làm não loạn.
Nếu Bồ tát Ma ha tát chẳng ỷ mình có công đức căn lành khinh chúng Bồ tát Ma ha tát khác, tuy thường tinh siêng tu các pháp lành mà chẳng chấp trước tướng các pháp lành. Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chẳng bị ác ma làm não loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Bồ tát Ma ha tát tự ỷ danh tánh được nhiều kẻ quen biết, khinh miệt các Bồ Tát tu thiện khác, thường khoe đức mình, hủy chê lỗi người, thật không khác hành trạng tướng của Bất thối chuyển Bồ tát Ma ha tát mà bảo thật có, khởi các phiền não khen mình chê người rằng: Các ngươi không danh tánh Bồ Tát, duy ta độc có danh tánh Bồ Tát. Bởi tăng thượng mạn khinh miệt chê bai chúng các Bồ tát Ma ha tát khác.
Bấy giờ, ác ma thấy việc đây rồi, liền khởi nghĩ này: Nay Bồ Tát đây khiến cung điện cõi nước ta chẳng trống, tăng them địa ngục, bàng sanh, quỷ giới. Khi ấy ác ma trợ khi thần lực, khiến càng tăng thịnh oai thế biện tài. Do đấy nhiều người tín thọ lời kia nói, nhân đây khuyên phát đồng kia ác kiến. Đồng ác kiến rồi theo kia học tà, theo học tà rồi phiền não tăng thịnh. Vì tâm điên đảo nên các sở phát khởi nghiệp thân ngữ ý đều năng cảm được khổ quả suy tổn bất khả ái lạc. Do nhân duyên đây tăng trưởng địa ngục bàng sanh, quỷ giới, khiến cung điện cõi nước ác ma đầy rẫy, do đây ác ma vui mừng nhảy nhót, các hữu sở tác tùy ý tự tại. Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu bị các ác ma làm não loạn.
Nếu Bồ tát Ma ha tát chẳng ỷ mình có tánh danh hư vọng khinh miệt các Bồ Tát tu thiện khác, đối các công đức không tăng thượng mạn, thường chẳng khen mình, cũng chẳng chê người, năng khéo giác biết việc các ác ma. Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chẳng bị ác ma làm não loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Bồ tát Ma ha tát cùng kẻ cầu Thanh văn, Độc giác thừa hủy miệt bài bang đấu tranh lẫn nhau. Bấy giờ ác ma thấy việc đây rồi, bèn khởi nghĩ này: Nay Bồ Tát đây xa lìa Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, gần gũi địa ngục, bàng sanh, quỷ giới. Sở dĩ vì sao? Hủy miệt bài bang đấu tranh lẫn nhau chẳng phải đạo Bồ Tát, chỉ là tới đường các hiểm ác thú địa ngục, bàng sanh, quỷ giới. Khởi nghĩ này rồi vui mừng nhảy nhót, khiến uy lực Bồ Tát đây càng tăng thịnh, khiến vô lượng người tăng trưởng ác nghiệp. Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu bị các ác ma làm não loạn.
Nếu Bồ tát Ma ha tát cùng kẻ cầu Thanh văn Độc giác thừa chẳng hủy miệt bài báng đấu tranh lẫn nhau, phương tiện hóa dẫn khiến tới Đại thừa, hoặc khiến siêng tu thiện pháp tự thừa. Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chẳng bị ác ma làm não loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Bồ tát Ma ha tát cùng các chúng Bồ Tát nhẫn nhục nhu hòa cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề đấu tranh bài báng hủy miệt lẫn nhau. Bấy giờ ác ma thấy việc đây rồi, bèn khởi nghĩ này: Hai thứ Bồ Tát đây đều xa sở cầu Nhất thiết trí trí, đều gần địa ngục, bàng sanh, quỷ đói, a tố lạc thảy các hiểm ác thú. Sở dĩ vì sao? Đấu tranh bài báng hủy miệt lẫn nhau chẳng phải đạo Bồ Tát, chỉ là đường tới địa ngục, bàng sanh, quỷ đói, a tố lạc thảy các hiểm các thú. Khi ấy ác ma khởi nghĩ này rồi, vui mừng nhảy nhót tăng kia uy thế, khiến hai bè lũ đấu tranh chẳng dứt. Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu bị các ác ma làm não loạn.
Nếu Bồ tát Ma ha tát cùng các chúng Bồ Tát nhẫn nhục nhu hòa cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng đấu tranh bài báng hủy miệt, chỉ khuyên gắng đốc suất cùng nhau tu hành thắng hạnh, mau tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chẳng bị ác ma làm não loạn.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu Bồ tát Ma ha tát chưa được ký Vô thượng đại Bồ đề khởi tâm giận dữ, đấu tranh khinh miệt, mắng nhiếc bài báng. Bồ tát Ma ha tát này tùy khởi bấy nhiêu kiếp đã từng tu thắng hạnh; trải bấy nhiêu thời xa lìa bạn lành, hoàn chịu bấy nhiêu sanh tử trói buộc. Nếu chẳng nới bỏ tâm đại Bồ đề, hoàn bấy nhiêu kiếp mặc đội áo mũ, siêng tu thắng hạnh không lúc gián đoạn, nhiên hậu mới bổ lại công đức đã lui mất.
Bấy giờ, Khánh Hỷ thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này đã khởi ác tâm sanh tử tội khổ, phải chịu lưu chuyển trải bấy nhiêu kiếp, hay ở trung gian cũng được ra khỏi? Bồ tát Ma ha tát này đã bị lui mất thắng hạnh, vì cần tinh siêng trải bấy nhiêu kiếp nhiên hậu mới bổ lại, hay ở trung gian có nghĩa “phục bản”?
Phật bảo: Khánh Hỷ! Ta vì Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn nói có pháp xuất tội hoàn bổ thiện
Khánh Hỷ phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát chưa được ký Vô thượng đại Bồ đề đối các Bồ tát Ma ha tát đã được ký Vô thượng đại Bồ đề khởi tâm giận dữ, đấu tranh khinh miệt, mạ nhục bài báng, về sau không hổ thẹn ôm ác chẳng xả, chẳng năng như pháp tỏ bày hối lỗi. Ta nói loại kia ở thời trung gian không có nghĩa “xuất tội hoàn bổ thiện”, tất phải chịu bấy nhiêu kiếp lưu chuyển sanh tử, xa lìa bạn lành, bị nhiều khổ rang buộc. Nếu chẳng nới bỏ tâm đại Bồ đề, cần phải bấy nhiêu kiếp mặc áo đội mũ, siêng tu thắng hạnh không lúc gián đoạn, nhiên hậu mới bổ lại công đức đã bị lui mất.
Nếu Bồ tát Ma ha tát chưa được ký Vô thượng đại Bồ đề đối các Bồ tát Ma ha tát đã được ký Vô thượng đại Bồ đề khởi tâm giận dữ, đấu tranh khinh miệt, mạ nhục bài báng, về sau sanh hổ thẹn, tâm chẳng ôm ác, liền năng như pháp tỏ bày hối lỗi, khởi nghĩ như vầy:
Ta nay được thân người khó được, nào cho lại khởi tội lỗi như thế, mất lợi lành lớn. Ta nên nhiêu ích tất cả hữu tình, nào cho với trong pháp làm suy tổn.
Ta nên cung kính tất cả hữu tình như tôi thờ chúa, nào cho với trong phản sanh kiêu mạn, mạ nhục lấn khinh. Ta nên nhẫn chịu tất cả hữu tình đánh đập quở trách, nào cho với trong phải dùng bạo ác, thân ngữ gia báo.
Ta nên hòa giải tất cả hữu tình khiến kính mến nhau, nào cho lại khởi nói lời bạo ác, cùng kia trái tranh. Ta nên kham nhịn tất cả hữu tình giẫm đạp trường thời giống như đường sá, cũng như rường cầu, nào cho đối kia đều lấn nhục.
Ta cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề vì vớt hữu tình khổ lớn sanh tử, khiến được Niết Bàn an vui rốt ráo, nào cho lại muốn đem khổ gia thêm. Ta nên từ nay tận đời vị lai, như si như câm, như điếc như đui, đối các hữu tình không sở phân biệt.
Giả sử chém đứt đầu chân tay cánh, móc mắt xẻo tai, cắt mũi hớt lưỡi và tất cả thân phần chi thể khác, đối hữu tình kia quyết chẳng khởi ác. Nếu ta khởi ác liền lại mất tâm sở phát Vô thượng Chánh đẳng giác, chướng ngại sở cầu Nhất thiết trí trí, chẳng năng lợi ích an vui hữu tình.
Khánh Hỷ! Phải biết Bồ tát Ma ha tát này, Ta nói trung gian cũng có nghĩa “xuất tội hoàn bổ thiện”, chẳng cần trải qua bấy nhiêu kiếp số trôi lăn sanh tử. Ác ma đối kia chẳng năng não loạn được, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân trụ Bồ Tát thừa cùng kẻ cầu Thanh văn, Độc giác thừa chẳng nên giao thiệp. Nếu cùng giao thiệp, chẳng nên ở chung. Giả sử cùng ở chung, chẳng nên cùng kia luận nghị quyết chọn. Sở dĩ vì sao?
Nếu cùng loại kia luận nghị quyết chọn, hoặc khi phát động tâm giận dữ thảy, hoặc lại khởi lời lẽ thô ác. Nhưng các Bồ Tát đối loại hữu tình chẳng nên phát khởi tâm giận dữ thảy, cũng chẳng nên sanh lời lẽ thô ác. Nếu bị chém cắt thân phần đầu chân cũng chẳng nên khởi giận dữ lời thô. Sở dĩ vì sao?
Các Bồ tát Ma ha tát nên khởi nghĩ này: Ta cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề vì vớt các khổ sanh tử hữu tình, khiến được lợi ích an vui rốt ráo, nào cho đối kia trở lại làm ác sự.
Khánh Hỷ phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát đối loại hữu tình khởi tâm giận dữ, phát lời thô ác, bèn ngại Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cũng hư hoại vô biên hạnh pháp Bồ Tát. Vậy nên, chúng Bồ tát Ma ha tát muốn được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, đối các hữu tình chẳng nên giận dữ, cũng chẳng nên khởi lời thô ác.
Cụ thọ Khánh Hỷ thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Các Bồ tát Ma ha tát cùng Bồ tát Ma ha tát phải ở chung cách nào?
Phật bảo: Khánh Hỷ! Các Bồ tát Ma ha tát cùng Bồ tát Ma ha tát ở chung xem nhau như Đại sư. Sở dĩ vì sao? Các Bồ tát Ma ha tát này lần lữa xem nhau nên khởi nghĩ này: Kia đều là chơn thiện tri thức ta, làm bạn cùng ta đồng cưỡi một thuyền chỗ học, thời học và pháp được học, hoặc do đây học đ ều không có khác.
Như kia nên học bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa, ta cũng nên học. Như kia nên học nội không cho đến vô tánh tự tánh không, ta cũng nên học. Như kia nên học chơn như cho đến bất tư nghì giới, ta cũng nên học. Như kia nên học khổ tập diệt đạo thánh đế, ta cũng nên học. Như kia nên học bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi, ta cũng nên học.
Như kia nên học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, ta cũng nên học. Như kia nên học tám giải thoát cho đến mười biến xứ, ta cũng nên học. Như kia nên học không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, ta cũng nên học.
Như kia nên học Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa, ta cũng nên học. Như kia nên học tất cả đà la ni môn, ta cũng nên học. Như kia nên học năm nhãn, sáu thần thông, ta cũng nên học. Như kia nên học Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, ta cũng nên học. Như kia nên học pháp vô vong thất tánh hằng trụ xả, ta cũng nên học. Như kia nên học thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, ta cũng nên học. Như kia nên học nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, ta cũng nên học.
Lại khởi nghĩ này: Các Bồ Tát kia vì chúng ta thuyết đại Bồ đề tức bạn lành ta, cũng Đạo sư ta. Nếu các Bồ tát Ma ha tát kia trụ tác ý tạp nhiễm, xa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, ta sẽ đối trong chẳng học đồng kia. Nếu Bồ tát Ma ha tát kia xa lìa tác ý tạp nhiễm, chẳng rời tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, ta sẽ đối trong thường học đồng kia.
Khánh Hỷ phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát năng học như thế, tư lương Bồ đề mau được viên mãn. Nếu Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, cùng chúng các Bồ tát Ma ha tát gọi là đồng học.
HỘI THỨ HAI
Phẩm
ĐỒNG TÁNH
Thứ 61-2
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát, do các Bồ tát Ma ha tát trụ trong đấy học gọi là đồng học?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nội không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Vì các Bồ tát Ma ha tát trụ trong học, nên gọi là đồng học. Do đồng học đây mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc, tánh sắc không; thọ tưởng hành thức, tánh thọ tưởng hành thức không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Nhãn xứ, tánh nhãn xứ không cho đến ý xứ, tánh ý xứ không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Sắc xứ, tánh sắc xứ không cho đến pháp xứ, tánh pháp xứ không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Nhãn giới, tánh nhãn giới không cho đến ý giới, tánh ý giới không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát.
Sắc giới, tánh sắc giới không cho đến pháp giới, tánh pháp giới không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Nhãn thức giới, tánh nhãn thức giới không cho đến ý thức giới tánh ý thức giới không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Nhãn xúc, tánh nhãn xúc không cho đến ý xúc, tánh ý xúc không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, tánh nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ không cho đến ý xúc, tánh ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát.
Địa giới, tánh địa giới không cho đến thức giới, tánh thức giới không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Vô minh, tánh vô minh không cho đến lão tử, tánh lão tử không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Bố thí Ba la mật đa, tánh bố thí Ba la mật đa không cho đến Bát nhã Ba la mật đa, tánh Bát nhã Ba la mật đa không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát.
Nội không, tánh nội không không cho đến vô tánh tự tánh không, tánh vô tánh tự tánh không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Chơn như, tánh chơn như không cho đến bất tư nghì giới, tánh bất tư nghì giới không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát.
Khổ thánh đế, tánh khổ thánh đế không cho đến tập diệt đạo thánh đế, tánh tập diệt đạo thánh đế không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Bốn niệm trụ, tánh bốn niệm trụ không cho đến tám thánh đạo chi, tám thánh đạo chi không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát.
Bốn tĩnh lự, tánh bốn tĩnh lự không; bốn vô lượng, bốn vô sắc định, tánh bốn vô lượng, bốn vô sắc định không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Tám giải thoát, tánh tám giải thoát không cho đến mười biến xứ, tánh mười biến xứ không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Không giải thoát môn, tánh không giải thoát môn không; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, tánh vô tướng, vô nguyện giải thoát môn không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát.
Tịnh quán địa, tánh Tịnh quán địa không cho đến Như Lai địa, tánh Như Lai địa không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Cực hỷ địa, tánh Cực hỷ địa không cho đến Pháp vân địa, tánh Pháp vân địa không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát.
Đà la ni môn, tánh đà la ni môn không; tam ma địa môn, tánh tam ma địa môn không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Năm nhãn, tánh năm nhãn không; sáu thần thông, tánh sáu thần thông không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát.
Như Lai mười lực, tánh Như Lai mười lực không cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tánh mười tám pháp Phật bất cộng không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Pháp vô vong thất, tánh pháp vô vong thất không; tánh hằng trụ xả, tánh tánh hằng trụ xả không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Nhất thiết trí, tánh nhất thiết trí không; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, tánh đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát.
Quả Dự lưu, tánh quả Dự lưu không cho đến Độc giác Bồ đề, tánh Độc giác Bồ đề không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Hạnh Bồ tát Ma ha tát, tánh hạnh Bồ tát Ma ha tát không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát. Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, tánh Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề không là đồng tánh Bồ tát Ma ha tát.
Vì các Bồ tát Ma ha tát trụ trong học nên gọi là đồng học. Do đây đồng học mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Bấy giờ, Thiện Hiện thưa Phật rằng Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát vì sắc tận nên học, vì thọ tưởng hành thức tận học là học Nhất thiết trí trí chăng? Vì sắc ly nên học, vì thọ tưởng hành thức ly nên học là Nhất thiết trí trí chăng? Vì sắc diệt nên học, vì thọ tưởng hành thức diệt nên học là học Nhất thiết trí trí chăng? Vì sắc bất sanh nên học, vì thọ tưởng hành thức bất sanh nên học là học Nhất thiết trí trí chăng?
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát như vậy cho đến vì hạnh Bồ tát Ma ha tát tận nên học, vì Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tận nên học là học Nhất thiết trí trí chăng? Vì hạnh Bồ tát Ma ha tát ly nên học, vì Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề ly nên học là học Nhất thiết trí trí chăng? Vì hạnh Bồ tát Ma ha tát diệt nên học, vì Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề diệt nên học là học Nhất thiết trí trí chăng? Vì hạnh Bồ tát Ma ha tát bất sanh nên học, vì Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề bất sanh nên học là học Nhất thiết trí trí chăng?
Phật bảo: Thiện Hiện! Như ngươi đã nói. Nếu Bồ tát Ma ha tát vì sắc tận, vì ly, vì diệt, vì bất sanh nên học là học Nhất thiết trí trí chăng? Vì thọ tưởng hành thức tận, vì ly, vì diệt, vì bất sanh nên học, là học Nhất thiết trí trí chăng? Như vậy cho đến vì hạnh Bồ tát Ma ha tát tận, vì ly, vì diệt, vì bất sanh nên học, là học Nhất thiết trí trí chăng. Vì Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tận, vì ly, vì diệt, vì bất bất sanh nên học, là học Nhất thiết trí trí chăng.
Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Sắc chơn như tận ly diệt đoạn chăng? Thọ tưởng hành thức chơn như tận ly diệt đoạn chăng? Như vậy cho đến hạnh Bồ tát Ma ha tát chơn như tận ly diệt đoạn chăng? Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chơn như tận ly diệt đoạn chăng?
Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Bạch Thiện Thệ! Chẳng phải vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối chơn như học như thế, là học Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện! Phải biết chơn như vô tận vô ly vô diệt vô đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu Bồ tát Ma ha tát đối chơn như học như thế là học Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi học như thế là học bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa. Là học nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Là học chơn như cho đến bất tư nghì giới. Là học khổ tập diệt đạo thánh đế. Là học bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Là học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Là học tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Là học không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.
Là học Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Là học tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Là học năm nhãn, sáu thần thông. Là học Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Là học pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Là học Nhất thiết trí trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Là học tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Là học chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát học bố thí Ba la mật đa cho đến chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, phải biết là học Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi học như thế đến bờ bên kia học tất cả rốt ráo, tất cả thiên ma và các ngoại đạo chẳng thể dẹp được, mau tới hoặc Bồ Tát Bất thối chuyển, đi chỗ đáng nên đi từ Tổ Phụ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã đi. Đối năng hộ pháp tùy chuyển không ngược, năng làm phép ly ám đáng nên làm, khéo năng thành thục tất cả hữu tình, khéo năng nghiêm tịnh cõi nước tự Phật. Gọi là khéo học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và vô lượng vô biên các Phật pháp khác.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi học như thế là học ba phen quay mười hai hành tướng xe pháp Vô thượng. Là học an để trăm ngàn trăm ức muôn ức chúng nơi cõi Vô dư y Niết Bàn, khiến khéo vào Niết Bàn. Là học diệu hành chẳng dứt giống Phật. Là học chư Phật mở cửa Cam lồ. Là học an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình trụ pháp Tam thừa. Là học thị hiện tất cả hữu tình cõi rốt ráo tịch diệt chơn vô vi. Đấy là tu học Nhất thiết trí trí. Học như thế ấy, hữu tình hèn kém chẳng thể học được.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn khéo vớt cứu tất cả hữu tình khổ lớn sanh tử, nên học như thế.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, quyết định chẳng đọa địa ngục, bàng sanh, diệm ma, quỷ giới. Quyết định chẳng sanh biên địa hạ tiện chẳng tin Tam Bảo. Quyết định chẳng sanh nhà hàng thịt, nhà gánh thây chết và những nhà bần cùng hạ tiện bất luật nghi. Trọn chẳng đui điếc câm ngọng, cùi cụt tay chân, căn chi tàn khuyết, lưng gù, điên cuồng, ung thư hủi lác, bệnh trĩ, ghẻ ác. Chẳng cao, chẳng lùn, cũng chẳng đen thui và không có các thứ uế ác ghẻ bệnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát học như thế đời đời thường được quyến thuộc viên mãn, hình mạo đoan nghiêm, lời nói oai nghiêm, nhiều người mến kính. Sanh ở chỗ nào lìa hại sanh mạng cho đến tà kiến, trọn chẳng nhiếp thọ tà chánh hư dối, chẳng dùng tà pháp mà tự nuôi sống, cũng chẳng nhiếp thọ hữu tình phá giới, ác kiến, báng pháp lấy làm thân hữu.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, trọn chẳng sanh sanh nơi đắm vui thiểu huệ, chỗ trời Trường thọ. Sở dĩ vì sao? Bồ tát Ma ha tát này trọn nên thế lực phương tiện khéo léo. Do thế lực phương tiện khéo léo đây, nên tuy năng hằng vào tĩnh lự, vô lượng và định vô sắc mà chẳng theo thế lực kia thọ sanh. Vì được Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu nhiếp thọ, nên trọn nên phương tiện khéo léo như thế, ở trong các định tuy thường được vào ra tự tại, mà chẳng theo thế lực các định kia sanh trời Trường thọ, bỏ tu Bồ Tát diệu hạnh thù thắng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, đối Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thảy vô lượng vô biên diệu pháp chư Phật đều thanh tịnh. Do thanh tịnh nên chẳng đọa các bậc Thanh văn, Độc giác thảy.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, các Bồ tát Ma ha tát làm sao lại đối diệu pháp chư Phật mà được thanh tịnh?
Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói, các pháp bản lai tự tánh thanh tịnh. Bồ tát Ma ha tát này đối tất cả pháp trong bản tánh tịnh, tinh siêng tu học Bát nhã Ba la mật đa như thật thông suốt không trệ, xa lìa tất cả phiền não nhiễm đắm, nên nói Bồ tát Ma ha tát được thanh tịnh.
Lại nữa, Thiện Hiện! Tuy tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, nhưng ngu phu dị sanh chẳng biết thấy giác, Bồ tát Ma ha tát này vì muốn khiến kia biết thấy giác, nên tu hành bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa. An trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. An trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. An trụ khổ tập diệt đạo thánh đế. Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Tu hành năm nhãn, sáu thần thông. Tu hành Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Tu hành tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn. Tu hành nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Bồ tát Ma ha tát này đối tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, khi học như thế đối Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng và vô lượng vô biên các Phật pháp khác đều được thanh tịnh, chẳng đọa các bậc Thanh văn, Độc giác thảy.
Đối các hữu tình tâm hành sai khác đều năng thông suốt đến cực rốt ráo, phương tiện khéo léo khiến các hữu tình chứng tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, chứng được Niết Bàn rốt ráo an vui.
Thiện Hiện phải biết: Ví như đại địa ít chỗ sanh ra vàng bạc các ngọc, nhiều chỗ sanh ra cát đá ngói gạch. Các loại hữu tình cũng lại như thế, phần ít năng học Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nghĩa là chúng các Bồ Tát trụ Đại thừa. Phần nhiều học pháp Thanh văn, bậc Độc giác, nghĩa là những kẻ cầu tự lợi trung hạ thừa.
Thiện Hiện phải biết: Ví như đời phần ít năng tu nghiệp Chuyển luân vương, phần nhiều thọ hành nghiệp tiểu quốc vương. Các loại hữu tình cũng lại như thế, phần ít năng tu đạo Nhất thiết trí trí, phần nhiều thọ hành pháp Thanh văn, Độc giác.
Thiện Hiện phải biết: Chúng các Bồ Tát cầu tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, ít chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, nhiều đọa vào Thanh văn và bậc Độc giác.
Thiện Hiện phải biết: Bổ đặc già la trụ Bồ Tát thừa, nếu chẳng xa lìa Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện khéo léo, định năng tới vào bậc Bất thối chuyển. Nếu có xa lìa Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện khéo léo, định đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề sẽ có thối chuyển.
Vậy nên, chúng Bồ tát Ma ha tát muốn được bậc Bồ Tát Bất thối chuyển, muốn vào số Bồ Tát Bất thối chuyển, phải siêng tu học Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chớ được chút nới.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện khéo léo như thế, trọn chẳng phát khởi tâm cùng hành xan tham, phá giới, giận dữ, biếng lười, tán động, ác huệ. Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành tham dục, căm giận, ngu si, kiêu mạn.
Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước sắc thọ tưởng hành thức. Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước nhãn xứ cho đến ý xứ. Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước sắc xứ cho đến pháp xứ. Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước nhãn giới cho đến ý giới. Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành trước sắc giới cho đến pháp giới. Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước nhãn xúc cho đến ý xúc. Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước địa giới co đến thức giới. Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước vô minh cho đến lão tử. Cũng chẳng khởi tâm cùng hành chấp trước bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa. Cũng chẳng khởi tâm cùng hành chấp trước nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Cũng chẳng khởi tâm cùng hành chấp trước chơn như cho đến bất tư nghì giới.
Cũng chẳng khởi tâm cùng hành chấp trước khổ tập diệt đạo thánh đế. Cũng chẳng khởi tâm cùng hành chấp trước bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi. Cũng chẳng khởi tâm cùng hành chấp trước không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.
Cũng chẳng khởi tâm cùng hành chấp trước Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Cũng chẳng khởi tâm cùng hành chấp trước Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước năm nhãn, sáu thần thông.
Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hảo. Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước đà la ni môn, tam ma địa môn.
Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề. Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Cũng chẳng phát khởi tâm cùng hành chấp trước chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Sở dĩ vì sao?
Bồ tát Ma ha tát này hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện khéo léo, chẳng thấy có pháp này khá được ấy, vì vô sở đắc vậy, nên chẳng khởi tâm cùng hành chấp trước sắc thảy các pháp.