- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (24 tập)
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 2
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 3
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 4
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 5
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 6
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 7
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 8
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 9
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 10
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 11
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 12
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 13
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 14
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 15
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 16
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 17
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 18
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 19
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 20
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 21
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 22
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 23
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 24
- Tiểu sử dịch giả HT Thích Trí Nghiêm
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 18
Quyển thứ 439
Hội thứ hai phẩm Đông Bắc Phương thứ 43-2
Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Bát nhã Ba la mật đa như thế nghĩa thú thẳm sâu ai tin hiểu được ?
Phật bảo : Thiện Hiện ! Nếu Bát nhã Ba la mật đa đã lâu tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Lâu trồng căn lành, cúng dường nhiều Phật, thờ nhiều bạn lành, Bồ tát Ma ha tát này tin hiểu được Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu đây.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Ngang đâu biết được Bồ tát Ma ha tát này đã lâu tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Lâu trồng căn lành, cúng dường nhiều Phật, thờ nhiều bạn lành ?
Phật bảo : Thiện Hiện ! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đối sắc chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối thọ tưởng hành thức chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tướng sắc chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tướng thọ tưởng hành thức chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tự tánh sắc chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tự tánh thọ tưởng hành thức chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác.
Đối nhãn xứ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tướng nhãn xứ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tự tánh nhãn xứ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tự tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác.
Đối sắc xứ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối thanh hương vị xúc pháp xứ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tướng sắc xứ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tướng thanh hương vị xúc pháp xứ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tự tánh sắc xứ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tự tánh thanh hương vị xúc pháp xứ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác.
Đối nhãn giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối nhĩ tỷ thiệt thân ý giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tướng nhãn giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tự tánh nhãn giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tự tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác.
Đối sắc giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối thanh hương vị xúc pháp giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tướng sắc giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tướng thanh hương vị xúc pháp giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tự tánh sắc giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tự tánh thanh hương vị xúc pháp giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác.
Đối nhãn thức giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tướng nhãn thức giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tự tánh nhãn thức giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tự tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác.
Đối nhãn xúc chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tướng nhãn xúc chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tự tánh nhãn xúc chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tự tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác.
Đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tướng nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tự tánh nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tự tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác.
Đối cõi Dục chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối cõi Sắc, Vô sắc chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tướng cõi Dục chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tướng cõi sắc, Vô sắc chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tự tánh cõi Dục chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tự tánh cõi Sắc, Vô sắc chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác.
Đối bố thí Ba la mật đa chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; cho đến đối bát nhã Ba la mật đa chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tướng bố thí Ba la mật đa chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; cho đến đối tướng bát nhã Ba la mật đa chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tự tánh bố thí Ba la mật đa chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; cho đến đối tự tánh bát nhã Ba la mật đa chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác.
Đối nội không chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; cho đến đối vô tánh tự tánh không chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tướng nội không chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; cho đến đối tướng vô tánh tự tánh không chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tự tánh nội không chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; cho đến đối tự tánh vô tánh tự tánh không chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác.
Đối bốn niệm trụ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; cho đến đối tám thánh đạo chi chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tướng bốn niệm trụ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; cho đến đối tướng tám thánh đạo chi chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tự tánh bốn niệm trụ chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; cho đến đối tự tánh tám thánh đạo chi chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác.
Như vậy cho đến đối Phật mười lực chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; cho đến đối mười tám pháp Phật bất cộng chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tướng Phật mười lực chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; cho đến đối tướng mười tám pháp Phật bất cộng chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tự tánh Phật mười lực chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; cho đến đối tự tánh mười tám pháp Phật bất cộng chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác.
Đối nhất thiết trí chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tướng nhất thiết trí chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tướng đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối tự tánh nhất thiết trí chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối tự tánh đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Vì cớ sao ?
Thiện Hiện ! Vì sắc chẳng thể nghĩ bàn, thọ tưởng hành thức chẳng thể nghĩ bàn. Như vậy cho đến nhất thiết trí chẳng thể nghĩ bàn, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng thể nghĩ bàn vậy.
Thiện Hiện ! Ngang đây biết được Bồ tát Ma ha tát này đã lâu tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Trồng lâu căn lành, cúng dường nhiều Phật, thờ nhiều bạn lành.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng : Bạch Thế Tôn ! Bát nhã Ba la mật đa như thế rất là thẳm sâu ?
Phật nói : Như vậy. Thiện Hiện ! Sắc thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu, thọ tưởng hành thức thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu.
Nhãn xứ thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu.
Sắc xứ thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu, thanh hương vị xúc pháp xứ thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu.
Nhãn giới thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu, nhĩ tỷ thiệt thân ý giới thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu.
Sắc giới thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu, thanh hương vị xúc pháp giới thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu.
Nhãn thức giới thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu, nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu.
Nhãn xúc thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu.
Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu.
Bố thí Ba la mật đa thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự Ba la mật đa thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu.
Bốn niệm trụ thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu, cho đến tám thánh đạo chi thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa rất là thẳm sâu.