- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (24 tập)
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 2
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 3
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 4
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 5
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 6
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 7
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 8
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 9
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 10
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 11
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 12
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 13
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 14
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 15
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 16
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 17
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 18
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 19
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 20
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 21
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 22
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 23
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 24
- Tiểu sử dịch giả HT Thích Trí Nghiêm
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 16
Tập 16
Quyển Thứ Nhất 376: Hội thứ nhất Phẩm Vô Tướng Vô Đắc thứ 66-4
Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Thiện hiện! Bồ Tát Ma ha tát này vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu khi trụ nội không, trụ tâm vô lậu mà trụ nội không. Nếu khi trụ ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tư tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không; trụ tâm vô lậu mà trụ ngoại không cho đến vô tự tánh không. Vậy nên, tuy trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không mà không hai tưởng.
Thiện hiện! Bồ tát Ma ha tát này vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu khi trụ chơn như, trụ tâm vô lậu mà trụ chơn như. Nế khi trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Vậy nên, tuy trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới mà không hai tưởng.
Thiện Hiện! Bồ tát ma ha tát này vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu khi tu năm nhãn, trụ tâm vô lậu mà tu năm nhãn. Nếu khi tu sáu thần thông, trụ tâm vô lậu mà tu sáu thần thông mà không hai tưởng.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu khi tu Phật mười lực, trụ tâm vô lậu mà tu Phật mười lực. Nếu khi tu bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng; trụ tâm vô lậu mà tu bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng mà không hai tưởng.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này vì tu hành bát nhã ba la mật đa, nếu khi tu đại từ, trụ tâm vô lậu mà tu đại bi, đại hỷ, đại xả. Vậy nên, tuy tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mà không hai tưởng.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu khi tu nhất thiết trí, trụ tâm vô lậu mà tu nhất thiết trí; trụ tâm vô lậu mà tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Vậy nên, tuy tu nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí mà không hai tưởng.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu khi tu nhất thiết trí, trụ tâm vô lậu mà tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí mà không hai tưởng.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu khi dẫn ba mươi hai tướng đại sĩ. Nếu khi dẫn tám mươi tùy hảo. Vậy nên, tuy dẫn ba mươi tùy hảo mà không hai tưởng.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi hành bố thí Ba la mật đa, trụ tâm vô lậu mà hành bố thí Ba la mật đa. Khi hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa, trụ tâm vô lậu mà hành tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa?
Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu bốn tĩnh lự, trụ tâm vô lậu mà tu bốn tĩnh lư. Khi tu bốn vô lượng, bốn vô sắc định?
Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu bốn niệm trụ, trụ tâm vô lậu mà tu bốn niệm trụ. Khi tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; trụ tâm vô lậu mà tu bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi?
Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu không giải thoát môn. Khi tu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; trụ tâm vô lậu mà tu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn?
Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi trụ khổ thánh đế, trụ tâm vô lậu mà trụ khổ thánh đế. Khi trụ tập diệt đạo thánh đế, trụ tâm vô lậu mà trụ tập diệt đạo thánh đế?
Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu tám giải thoát, trụ tâm vô lậu mà tu tám giải thoát. Khi tu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ?
Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu tất cả tam ma địa môn. Khi tu tất cả đà la ni môn, trụ tâm vô lậu mà tu tất cả đà la ni môn?
Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi trụ nội không, trụ tâm vô lậu mà tu tất cả tam ma địa môn. Khi tu tất cả đà la ni môn, trụ tâm vô lậu mà tu tất cả đà la ni môn?
Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi trụ nội không, trụ tâm vô lậu mà trụ nội không. Khi trụ ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tư tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không; trụ tâm vô lậu mà trụ ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không?
Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi trụ chơn như, trụ tâm vô lậu mà trụ chơn như. Khi trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới; trụ tâm vô lậu mà trụ pháp giới cho đến bất tư nghì giới?
Bạch Thế Tôn! Sao la Bồ tát Ma ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu năm nhãn, trụ tâm vô lậu mà tu năm nhãn. Khi tu sáu thần thông, trụ tâm vô lậu mà tu sáu thần thông?
Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu Phật mười lực, trụ tâm vo lậu mà tu Phật mười lực. Khi tu bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng?
Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu đại từ, trụ tâm vô lậu mà tu đại từ. Khi tu đại bi, đại hỷ, đại xả; trụ tâm vô lậu mà tu đại bi, đại hỷ, đại xả?
Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát vì tu hành Bát nhã ba la mật đa, khi tu pháp vô vong thất, trụ tâm vô lậu mà tu pháp vô vong thất. Khi tu tánh hằng trụ xả, trụ tâm vô lậu mà tu tánh hằng trụ xả?
Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi tu nhất thiết trí, trụ tâm vô lậu mà tu nhất thiết trí. Khi tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; trụ tâm vô lậu mà tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí?
Bạch Thế tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát vì tu hành Bát nhã Ba la mật đa, khi dẫn ba mươi hai tướng đại sĩ, trụ tâm vô lậu mà dẫn ba mươi hai tướng đại sĩ. Khi dẫn tám mươi tùy hảo, trụ tâm vô lậu mà dẫn tám mươi tùy hảo?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng tu hành bố thí Ba la mật đa; chỗ gọi chẳng thấy ta năng hành thí, ta năng xả đây, đối đây hành thí, do đây nên thí, vì đây nên thí. Hành thí như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lậu này, lìa ái lìa xan mà hành bố thí Ba la mật đa. Bấy giờ, chẳng thấy sở hành bố thí, cũng lại chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà hành bố thí Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng tu hành tịnh giới Ba la mật đa; chỗ gọi chẳng thấy ta năng trì giới, ta năng xả đây, đối đây tu trì, do đây trì giới, vì đây trì giới. Trì giới như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lậu này, không nhiễm không đắm mà hành tịnh giới, cũng lại chẳng thấy sở hành tịnh giới, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà hành tịnh giới Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, ta năng xả đây, đối đây, do đây, vì đây. Tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lậu này, không nhiễm không đắm mà tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Bấy giờ, chẳng thấy sở tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vo sắc định, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng tu bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi, ta năng xả đây, đối đây, do đây, vì đây. Tu bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lậu này, không nhiễm không đắm mà tu bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi, cũng lại chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà tu bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng tu hành không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng tu không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, ta năng xả đây, đối đây, do đây, vì đây. Tu không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lậu này, không nhiễm không đắm mà trụ khồ tập diệt đạo thánh đế, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà trụ khổ tập diệt đạo thánh đế.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, ta năng xả đây, đối đây, do đây, vì đây. Tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lậu này, không nhiễm không đắm mà tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Bấy giờ, chẳng thấy sở tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bo tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng tu tất cả tam ma địa môn, đà la ni môn. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng tu tất cả tam ma địa môn, đạ la ni môn, ta năng xả đây, đối đây, do đây, vì đây. Tu tất cả tam ma địa môn, đà la ni môn như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lậu đây, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp. Nhủ vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà tu tất cả tam ma địa môn, đà la ni môn.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng trụ nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự không. Chỗ gọi chảng thấy ta năng trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không, ta năng xả đây, đối đây, do đây, vì đây. Trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không như thế, trong tâm ly tướng vô lậu này không nhiễm không đắm mà trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Bây giờ, chẳng thấy sở trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha ta tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới , ta năng xả đây, đối đây, do đây, vì đây. Trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lậu này, không nhiễm không đắm mà tu năm nhãn, sáu thần thông, ta năng xả đây, đối đây, do đây, vì đây. Tu năm nhãn, sáu thần thông như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lậu không nhiễm không đắm mà tu năm nhãn, sáu thần thông. Bấy giờ, chẳng thấy sở tu năm nhãn, sáu thần thông, cũng lại chẵng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà tu năm nhãn, sáu thần thông.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đem tâm ly tướng tu Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô nhại giải, mười tám pháp Phật bất công. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng tu Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng, ta năng xả đây, đối đây, do đây, vì đây. Tu Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lu này, không nhiễm không đắm, mả tu Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng. Bấy giờ, chẳng thấy sở tu Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng thấy tấ cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà tu Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà tu Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất công.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa , đem tâm ly tướng tu đại từ , đại bi, đại hỷ, đại xả. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, ta năng xả đây, do đây, vì đây. Tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, như thế, trụ tâm trong ly tướng vô lậu này, không nhiễm, không đắm mà tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, . Bấy giờ, chẳng thấy sở tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, , cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu ma tu đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa , đem tâm ly tướng tu pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng tu pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng tu pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, ta năng xả đây, đối đây, vì đây. Tu pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lậu này, không nhiễm không đắm mà tu pháp vô song thất, tánh hằng trụ xa. Bấy giờ, chẳng thấy sổ tu pháp vô song thất, tánh hằng trụ xả , cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà tu pháp vô song thất, tánh hằng trụ xả.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa , đem tâm ly tướng tu pháp vô song thất, tánh hằng trụ xả nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng tu nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí như thế, trụ trong tâm ly tướng vô lậu này, không nhiễm không đắm mà tu pháp vô song thất, tánh hằng trụ xả nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Bấy giờ, chẳng thấy sở tu pháp vô song thất, tánh hằng trụ xả nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà tu nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu pháp vô song thất, tánh hằng trụ xả hành Bát nhã Ba la mật đa , đem tâm ly tướng dẫn ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Chỗ gọi chẳng thấy ta năng dẫn ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo, ta năng xả đây, đối đây, do đây, vì đây. Dẫn ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo, cũng lại chẳng thấy tâm vô lậu đây, cho đến chẳng thấy tất cả Phật pháp. Như vậy, Bồ tát Ma ha tát trụ tâm vô lậu mà dẫn ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, đố trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đắc, không bóng, không tác, làm sao năng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa? Làm sao năng viên mãn bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi? Làm sao năng viên mãn không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn?
Làm sao năng viên mãn nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, vô tánh tự tánh không?
Làm sao năng viên mãn chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình dẳng tánh, lý sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới? Lam sao năng viên mãn khổ tập diệt đạo thánh đế?
Làm sao năng viên mãn bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định? Làm sao năng viên mãn tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ? Làm sao năng viên mãn tất cả tam ma địa môn, đà la ni môn? Làm sao năng viên mãn năm nhãn, sáu thần thông?
Làm sao năng viên mãn Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám Phật bất cộng? Làm sao năng viên mãn đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả? Làm sao năng viên mãn pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả? Làm sao năng viên mãn nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết trí, đạo tứơng trí, nhất thiết tướng trí? Làm sao năng viên mãn ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo?
Phật bảo: Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, năng đem tâm ly tướng vô lậu mà hành bố thí. Nếu các hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần mặc cho mặc, cần đồ nằm cho đồ nằm, cần xe cưỡi cho xe cưỡi, cần tôi tớ cho tôi tớ, cần ngọc báu cho ngọc báu, cần của lúa cho của lúa, cần hương hoa cho hương hoa, cần nhà cửa cho nhà cửa, cần đồ trang nghiêm cho đồ trang nghiêm, cho đến tùy kia cần dùng thứ gì thảy đều cho thứ nấy. Nếu có cần nội vật: đầu, mắt, tủy, não, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, , thịt, lóng đốt, gân cốt, thân mạng, cũng đều thí cho. Nếu có cần ngoại vật: quốc thành, thê tử, sở ái thân thuộc, các món trang nghiêm vui mừng thí cho. Khi thí như thế, nếu có người đến trước mặt mắng nhiếc, hủy báng: "Khốn thay, Đại sĩ! Dùng chi hạnh này ra làm vô ích, kẻ thí như vậy đời này đời sau nhiều thứ khổ não". Bồ tát Ma ha tát này vì hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nên dù nghe lời kia mà chẳng thối tâm, chỉ nghĩ rằng: " Người kia dù có đến mắng nhiếc hủy báng ta, ta chẳng nên sanh lòng buồn bực ăn năn, ta phải mạnh mẽ thí các hữu tình của vật cần dùng mà thân tâm không mệt mỏi. Bồ tát Ma ha tát này đem phước thí này cùng các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vo thượng Chánh đẳng Bồ đề. Khi Bố thí và hồi hướng như thế chẳng thấy tướng được thí. Chỗ gọi chẳng thấy ai thí cho ai, vật gì đã thí, đối ai mả thí, do đâu mà thí, vì ai nên thí, vì sao hành thí. Cũng lại chẳng thấy ai năng hồi hướng, hồi hướng chỗ nào, đố ai hồi hướng, do đâu hồi hướng, hồi hướng làm gì, vì sao hồi hướng. Đối với tất cả sự vật như thế thảy, thảy đều chẳng thấy. Vì cớ sao? Vì các pháp như thế hoặc do nội không nên không, hoặc do ngoại không nên không, hoặc do nội ngoạikhông nên không, hoặc do không không nên không, hoặc do đại không nên không, hoặc do thắng nghĩa không nên không, hoặc do hữu vi không nên không, hoặc do vô vi không nên không, hoặc do tất cánh không nên không, hoặc do vô tế không nên không, hoặc do tán không nên không, hoặc do tự tướngkhông nên không, hoặc do cộng tướng không nên không, hoặc do nhất thiết pháp không nên không, hoặc do bất khả đắc không nên không, hoặc do vô tánh không nên không, hoặc do vô tánh tự tánh không nên không. Bồ tát Ma ha tát này quán tất cả pháp, không có pháp nào chẳng không, rồi lại khởi nghĩ rằng: Ai năng hồi hướng? Hồi hướng chỗ nào? Đối ai hồi hướng? Do đâu hồi hướng? Hồi hướng làm gì? Vì sao hồi hướng? Các pháp như thế đều chẳng khá được. Bồ tát Ma ha tát do quán như thế và nghĩ như thế, nên sở tác hồi hướng gọi khéo hồi hướng, lìa độc hồi hướng, cũng gọi ngộ nhập pháp giới hồi hướng. Do đây gọi là năng nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình. Cũng năng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Bát nhã Ba la mật đa . Cũng năng viên mãn bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Cũng năng viên mãn không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Cũng năng viên mãn không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Cũng năng viên mãn chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Cũng năng viên mãn tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Cũng năng viên mãn tất cả tam ma địa môn, đà la ni môn. Cũng năng viên mãn, sáu thần thông. Cũng năng viên mãn Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng năng viên mãn đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Cũng năng viên mãn vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Cũng năng viên mãn nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Cũng năng viên mãn ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Bồ tát Ma ha tát này tuy năng viên mãn bố thí Bát nhã Ba la mật đa la như thế, mà chẳng thọ nhận thí quả dị thục. Tuy chẳng thọ nhận quả dị thục mả do bố thí Bát nhã Ba la mật đa thiện thanh tịnh nen tùy ý năng hiện tất cả của vật, ví như các trời Tha hóa tự tại, tất cả cần dùng tùy ý đều hiện. Bồ tát Ma ha tát này cũng lại như thế, các thứ cần dùng tùy ý năng hiện. Do thế lực bố thí tăng thượng đây, mới đem món món đồ dùng thượng diệu, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen các Đức Phật Thế Tôn. Cũng năng đầy đủ đồ sở dục tư cụ cho thế gian trời, người, a tố lạc thảy. Bồ tát Ma ha tát nầy do bố thí Ba la mật đa đây nhiếp các hữu tình, phương tiện khéo léo đem pháp Tam thừa mà an lập đó, tùy ýsở nghi đều được lợi vui. Như vậy, Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thảm sâu, do tâm lực vô lậu lìa các tướng, nên năng đối trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đắc, không bóng, không tác, viên mãn bố thí Ba la mật đa, cũng năng viên mãn các công đức khác nữa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sao là khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, năng đối trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đắc, không bóng, không tác, viên mãn tịnh giới Ba la mật đa?
Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, năng đem tâm ly tướng vô lậu thọ trị tịnh giới, nghĩa la được nhiếp trong pháp Thánh đạo vô lậu. Bấy giờ, được thiện thanh tịnh, giới thanh tịnh như thế, không khuyết không hở, không vết không uế, không bị lấy đắm, đáng thọ cúng dượng, được kẻ trí khen ngợi, giỏi khéo thọ trì, giỏi khéo rốt ráo, tùy thuận thắng định, khác chẳng khuất phục. Do tịnh giới đây, đối tất cả pháp không bị lấy đắm. Nghĩa là chẳng lấy đắm sắc, cũng chẳng lấy đắm thọ tưởng hành thức. Chảng lấy đắm nhãn giới, cũng chẳng lấy đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Chẳng lấy đắm sắc xứ, cũng chẳng lấy đắm thanh hương vị xúc pháp xứ. Chẳng lấy đắm nhãn giới, cũng chẳng lấy đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Chẳng lấy đắm ba mươi hai tướng đại sĩ, cũng chẳng lấy đắm tám mươi tùy hảo. Chẳng lấy đắm đại tộc Sát đế lợi; cũng chẳng lấy đắm đại tộc Bà la môn, đại tộc Cư sĩ, đại tộc Trưởng giả. Chẳng lấy đắm trời Bốn đại vương chúng; cũng chẳng lấy đắm trời Bát nhã Ba la mật đa mươi ba, trời Đổ sứ đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại. Chẳng lấy đắm trời Phạm chúng; cũng chẳng lấy đắm trời Phạm phụ, trời Phạm hội, trời Đại phạm. Chẳng lấy đắm trời Quang; cũng chẳng lấy đắm trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh. Chẳng lấy đắm trời Tịnh; cũng chẳng lấy đắm trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh. Chẳng lấy đắm trời Quảng; cũng chẳng lấy đắm trời Thiểu quảng, trời Vô lượng quảng, trời Quảng quả và trời Vô tưởng. Chẳng lấy đắm trời Vô phiền; cũng chẳng lấy đắm trời Vô nhiệt, trời Thiện Hiện, trời Thiện Kiến, trời Sắc cứu cánh. Chẳng lấy đắm trời Không vô biên xứ; cũng chẳng lấy đắm trời Thức vô biên xư, trời Vô sở hữu xứ, trời Phi phi tưởng xứ. Chẳng lấy đắm quả Dự lưu; cũng chẳng lấy đắm quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Chẳng lấy đắm ngôi vua Chuyển luân, cũng chẳng lấy đắm các ngôi vua khác và các tể quan giàu sang tự tại. Chỉ đem sở hộ tịnh giới như thế củng các hữu tình bình đẳng Bồ đề. Đem vô tướng, không đắc, không hai làm phương tiện mà có hồi hướng; chẳng phải có tướng có đắc, có hai làm phương tiện. Vì thế tục vậy mà có hồi hứơng, chẳng phải thắng nghiã vậy. Do nhân duyên đây, tất cả Phật pháp không thứ nào mà chẳng viên mãn. Bồ tát Ma ha tát này do tịnh giới Bát nhã Ba la mật đa đây viên mãn thanh tịnh, phương tiện khéo léo khởi bốn phần tĩnh lự thắng tiến, không say đắm làm phương tiện nên phát sanh các thứ thần thông.
Bồ tát Ma ha tát này dùng thanh tịnh thiên nhãn dị thục sanh, hằng thấy các Đức Phật hiện tại mười phương vô biên thế giới yên ổn trụ trì, vì các hữu tình duyên nói chánh pháp. Thấy rồi cho đến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng hề quên mất.
Bồ tát Ma ha tát này dùng thanh tịnh thiên nhĩ vượt xa hơn người, hằng nghe các Đức Phật mười phương thuyết pháp. Nghe rồi cho đến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng hề quên mất.
Bồ tát Ma ha tát này dùng thanh tịnh thiên nhĩ vượt xa hơn người, hằng nghe các Đức Phật mười phương thuyết pháp. Nghe rồi cho đến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng hề quên mất. Tùy pháp đã nghe, năng làm các việc lợi vui mình người, không bỏ luống qua.
Bồ tát Ma ha tát này dùng sai biệt trí tha tâm, biết Phật mười phương và pháp tâm, tâm sở cuả hữu tình. Biết rồi năng khởi các việc lợi vui tất cả hữu tình.
Bồ tát Ma ha tát này dùng trí túc trụ tùy nhớ biết những nghiệp mình tạo ra đời trước của các hữu tình. Do sở tạo nghiệp chẳng hoại mất nên sanh chỗ kia, thọ các thứ khổ vui, biết rồi nói việc bổn nghiệp nhân duyên khiến các chúng sanh ấy nhớ lại kiếp trước, làm các việc lợi ích.
Bồ tát Ma ha tát này dùng trí lậu tận an lập hữu tình, hoặc khiến họ trụ quả Dự lưu, hoặc khiến trụ quả Nhất lai, hoặc khiến trụ quả Bất hoàn, hoặc khiến trụ quả A la hán, hoặc khiến trụ Độc giác Bồ đề, hoặc khiến trụ ngôi Bồ tát Ma ha tát , Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Tóm lại mà nói, Bồ tát Ma ha tát này hoặc các nơi nào tùy các hữu tình thọ lãnh những việc sai khác, phương tiện khéo léo khiến các chúng sanh ấy an trụ trong các pháp lành. Như vậy, Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, do tâm lực vô lậu lìa các tướng, hay đổi với trong tất cả các pháp không tướng, không giác, không đắc, không bóng, không tác, viên mãn tịnh giới Bát nhã Ba la mật đa, cũng năng viên mãn các công đức khác nữa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Sao là khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, năng đối trong tất cả các pháp không tướng, không giác, không đắc, không bóng, không tác, viên mãn an nhẫn Bát nhã Ba la mật đa ?
Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, năng đem tâm ly tướng vô lậu mà tu an nhẫn. Bồ tát Ma ha tát này từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên nơi tòa vi diệu Bồ đề. Trong khoảng thời gian ở giữa đó, giả sử các loại hữu tình đều cầm các thứ ngói đá dao gậy đua nhau đến gia hại, Bồ tát Ma ha tát này chẳng khởi lên một niệm tức giận. Bấy giờ, Bồ tát Ma ha tát nên tu hai nhẫn. Những gì là hại? Một là nên chịu tất cả hữu tình mạ nhục gia hại chẳng sanh tức giận, đó là Phục sân nhuế nhẫn. Hai là nên khởi Vô sanh pháp nhẫn. Bồ tát Ma ha tát này nếu bị các thứ ác ngôn mạ nhục, hoặc bị các thứ dao gậy gia hại, nên suy nghĩ kỹ, lo lường quan sát: Ai năng mạ nhục, ai năng gia hại, ai chịu mạ nhục, ai chịu gia hại, ai khởi tức giận, ai nên nhẫn chịu? Lại nên quan sát hết thảy pháp tánh rốt ráo đều không, pháp đã chẳng có, huống là pháp tánh. Đã không có pháp tánh, huống lại có hữu tình. Khi quan sát như thế hoặc năng mạ nhục, hoặc sở mạ nhục, hoặc năng gia hại, hoặc sở gia hại, đều chẳng thấy có. Cho đến mổ xẻ cắt chia thân thể từng phần, nơi tâm an nhẫn đều không có niệm gì khác. Đối với các pháp tánh quán sát như thật, lại năng chứng được Vô sanh pháp nhẫn. Vì sao gọi là Vô sanh pháp nhẫn. Nghĩa là khiến cho các phiền não chẳng sanh và quán các pháp rốt ráo chẳng khởi, vi diệu trí huệ thường không gián đoạn. Vì vậy gọi là Vô sanh pháp nhẫn. Bồ tát Ma ha tát này an trụ trong hai thứ nhẫn như thế, mau năng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa. Cũng năng viên mãn bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Cũng năng viên mãn không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Cũng năng viên mãn nội ngoại không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữ vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự không. Cũng năng viên mãn chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không, giới, bất tư nghì giới. Cũng năng viên mãn bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Cũng năng viên mãn tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Cũng năng viên mãn khổ tập diệt đạo thánh đế. Cũng năng viên mãn bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Cũng năng viên mãn tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Cũng năng viên mãn tất cả tam ma địa môn, đà la ni môn. Cũng năng viên mãn năm nhãn, sáu thần thông. Cũng năng viên mãn Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng năng viên mãn đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Cũng năng viên mãn vô song thất, tánh hằng trụ xả. Cũng năng viên mãn nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Cũng năng viên mãn ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo. Bồ tát Ma ha tát này an trụ các Phật pháp như thế rồi, đồi thần thông thánh vô lậu xuất thế chẳng chung tất cả Thanh văn, Độc giác, đều được tự tại. An trụ thắng thần thông như thế rồi, Bồ tát Ma ha tát này dùng tịnh thiên nhãn hằng thấy các Đức Phật hiện tại mười phương vô biên thế giới yên ổn trụ trì, vì các hữu tình tuyên nói ch��nh pháp. Thầy rồi cho đến chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, khởi Phật tùy niệm thường không gián đoạn. Bồ tát Ma ha tát này dùng tịnh thiên nhĩ, hằng nghe Đức Phật thường tuyên nói pháp. Nghe rồi thọ trì thường chẳng quên mất, vì các hữu tình như thật tuyên nói. Bồ tát Ma ha tát này dùng tha tâm trí thanh tịnh, năng chánh so lường pháp tâm, tâm sở các Đức Phật mười phương, cũng năng chánh biết pháp tâm, tâm sở tất cả Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn, cũng năng chánh biết pháp tâm, tâm sở tất cả Bồ tát, Độc giác, Thanh văn, cũng năng chánh biết pháp tâm, tâm sở tất cả hữu tình, tùy kia sở ưng mà thuyết chánh pháp. Bồ tát Ma ha tát này dùng trí túc trụ tùy niệm, biết các hữu tình trồng các căn lành đời trước nhiều thứ sai khác. Biết rồi phương tiện chỉ vẽ, khuyên dẫn, khen gắng vui mừng, khiến được lợi ích an vui thù thắng. Bồ tát Ma ha tát này dùng trí lậu tận tùy sở nghi kia an lập hữu tình nói pháp Tam thừa. Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa, phương tiện khéo léo thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, mau được đầy đủ Nhất thiết tướng trí, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng sanh. Như vậy, Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, do tâm lực vô lậu lìa các tướng, năng đối trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đẳng, không bóng, không tác, viên mãn an nhẫn Bát nhã Ba la mật đa, cũng năng viên mãn các công đức khác nữa.