Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển thứ 368: Hội thứ nhất phẩm Khắp Học Ðạo thứ 64 - 3

18/04/201312:53(Xem: 18604)
Quyển thứ 368: Hội thứ nhất phẩm Khắp Học Ðạo thứ 64 - 3

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa

Quyển thứ 368: Hội thứ nhất phẩm Khắp Học Đạo thứ 64 - 3

Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nên quán sắc hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thọ tưởng hành thức hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thọ tưởng hành thức hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thọ tưởng hành thức hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thọ tưởng hành thức hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thọ tưởng hành thức hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thọ tưởng hành thức hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thọ tưởng hành thức hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Nên quán nhãn xứ hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xứ hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xứ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xứ hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nên quán sắc xứ hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc xứ hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc xứ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc xứ hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nên quán nhãn giới hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý giới hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn giới hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý giới hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn giới hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý giới hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn giới hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý giới hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn giới hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý giới hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nên quán sắc giới hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thanh hương vị xúc pháp giới hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc giới hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thanh hương vị xúc pháp giới hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc giới hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thanh hương vị xúc pháp giới hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thanh hương vị xúc pháp giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc giới hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thanh hương vị xúc pháp giới hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thanh hương vị xúc pháp giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán sắc giới hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thanh hương vị xúc pháp giới hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nên quán nhãn thức giới hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn thức giới hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn thức giới hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn thức giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tý thiệt thân ý thức giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn thức giới hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn thức giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn thức giới hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nên quán nhãn xúc hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xúc hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xúc hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận: nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xúc hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xúc hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xúc hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xúc hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết kháp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẵm sâu, nên quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nên quán địa giới hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thủy hỏa phong không thức giới hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán địa giới hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận, nên quán thủy hỏa phong không thức giới hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán địa giới hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thủy hỏa phong không thức giới hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán địa giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thủy hỏa phong không thức giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán địa giới hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thủy hỏa phong không thức giới hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán địa giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thủy hỏa phong không thức giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán địa giới hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán thủy hỏa phong không thức giới hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Nên quán vô minh hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử sầu thán khổ ưu não hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán vô minh hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán vô minh hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán vô minh hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận, nên quán hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán vô minh hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán vô minh hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán vô minh hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán hành cho đến láo tử sầu thán khổ ưu não hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thắm sâu, nên quán bố thí Ba la mật đa hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bố thí Ba la mật đa hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bố thí Ba la mật đa hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bố thí Ba la mật đa hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bố thí Ba la mật đa hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bố thí Ba la mật đa hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bố thí Ba la mật đa hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nên quán nội không hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không. bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nội không hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nội không hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nội không hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nội không hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nội không hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán nội không hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thắm sâu, nên quán chơn như hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến di tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới, hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán chơn như hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán pháp giới cho đến bất tư nghì giới hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán chơn như hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán pháp giới cho đến bất tư nghì giới hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán chơn như hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán pháp giới cho đến bất tư nghì giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán chơn như hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán pháp giới cho đến bất tư nghì giới hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán chơn như hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán pháp giới cho đến bất tư nghì giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán chơn như hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán pháp giới cho đến bất tư nghì giới hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nên quán bốn niệm trụ hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn. năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bốn niệm trụ hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bốn niệm trụ hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bốn niệm trụ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bốn niệm trụ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bốn niệm trụ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bốn niệm trụ hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Nên quán khổ thánh đế hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tập diệt đạo thánh đế hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán khổ thánh đế hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tập diệt đạo thánh đế hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán khổ thánh đế hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tập diệt đạo thánh đế hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán khổ thánh đế hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tập diệt đạo thánh đế hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán khổ thánh đế hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tập diệt đạo thánh đế hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán khổ thánh đế hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tập diệt đạo thánh đế hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán khổ thánh đế hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tập diệt đạo thánh đế hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nên quán bốn tĩnh lự hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bốn tĩnh lự hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bốn tĩnh lự hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bốn tĩnh lự hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bốn tĩnh lự hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bốn tĩnh lự hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán bốn tĩnh lự hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn vô lượng, bốn vô sắc định hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nên quán tám giải thoát hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán tám giải thoát hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán tám giải thoát hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán tám giải thoát hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tám thắng xứ, chín thứ đệ định. mười biến xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán tám giải thoát hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán tám giải thoát hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán tám giải thoát hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nên quán tam ma địa môn hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán đà la ni môn hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quản tam ma địa môn hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán đà la ni môn hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán tam ma địa môn hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán đà la ni môn hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán tam ma địa môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận: nên quán đà la ni môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán tam ma địa môn hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán đà la ni môn hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán tam ma địa môn hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán đà la ni môn hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán tam ma địa môn hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán đà la ni môn hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nên quán không giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán không giải thoát môn hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán không giải thoát môn hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán không giải thoát môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán không giải thoát môn hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán không giải thoát môn hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán không giải thoát môn hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nên quán Cực hỷ địa hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán Cực hỷ địa hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán Ly cấu địa cho đến Pháp vân địa hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán Cực hỷ địa hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán Ly cấu địa cho đến Pháp vân địa hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán Cực hỷ địa hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán Ly cấu địa cho đến Pháp vân địa hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán Cực hỷ địa hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán Ly cấu địa cho đến Pháp vân địa hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán Cực hỷ địa hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán Ly cấu địa cho đến Pháp vân địa hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán Cực hỷ địa hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán Ly cấu địa cho đến Pháp vân địa hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Nên quán năm nhãn hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán sáu thần thông hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán năm nhãn hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán sáu thần thông hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán năm nhãn hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán sáu thần thông hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán năm nhãn hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán sáu thần thông hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán năm nhãn hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán sáu thần thông hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán năm nhãn hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán sáu thần thông hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán năm nhãn hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán sáu thần thông hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nên quán Phật mười lực hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn vô sở úy bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường hoặc vô thường, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán Phật mười lực hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc vui hoặc khổ, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán Phật mười lực hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán Phật mười lực hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán Phật mười lực hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán Phật mười lực hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận. Nên quán Phật mười lực hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận; nên quán bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc đây bị biết khắp hoặc chẳng bị biết khắp, chẳng khá hý luận vậy chẳng nên hý luận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com