Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển Thứ 359: Hội thứ nhất Phẩm Hỏi Nhiều Chẳng Hai thứ 61 - 9

18/04/201312:25(Xem: 18347)
Quyển Thứ 359: Hội thứ nhất Phẩm Hỏi Nhiều Chẳng Hai thứ 61 - 9

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 15

Quyển Thứ 359: Hội thứ nhất Phẩm Hỏi Nhiều Chẳng Hai thứ 61 - 9

Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Bấy giờ, cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Lại vì sao bồ tát ma ha tát nên biết tướng hẹp rộng tất cả pháp? Phật nói: thhiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như thật rõ biết tất cả pháp chẳng hợp chẳng tan. Bồ tát mah atát này như vậy là biết tướng hẹp rộng tất cả pháp.

Cụ thọ thiện hiện lại htưa phật rằng: bạch thế tôn! Những tất cả pháp nào chẳng hợp chẳng tan? Phật nói: thiện hiện! Sắc chẳng hỡp chẳng tan, thọ tưởng hành thức cũng chẳng hợp chẳng tan. Nhãn xứ chẳng hợp chẳng tan, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng chẳng hợp chẳng tan. Sắc xứ chẳng hợp chẳng tan, thanh hương vị xúc pháp xứ cũng chẳng hợp chẳng tan.

Nhãn giới chẳng hợp chẳng tan, nhĩ tỷ thiệt thân ý giới cũng chẳng hợp tan. Sắc giới chẳng hợp chẳng tan, thanh hương vị xúc pháp giới cũng chẳng hợp tan. Nhãn thức giới chẳng hợp chẳng tan, nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới cũng chẳng hợp chẳng tan. Nhãn xúc chẳng hỡp chẳng tan. nhãn xúc chẳng hợp chẳng tan. nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc cũng chẳng hợp chẳng tan. nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng hợp chẳng tan, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng hợp chẳng tan.

Địa giới chẳng hợp chẳng tan, thủy hỏa phong không thức giới cũng chẳng hợp chẳng tan. vô minh chẳng hợp chẳng tan; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử sầu thán khổ ưj não cũng chẳng hợp chẳng tan. bố thí ba la mật đa chẳng hợp chẳng tan; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa cũng chẳng hợp chẳng tan.

Nội không chẳng hợp chẳng tan; ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghiã không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, bô tánh tự tánh không cũng không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không cũng chẳng hợp chẳng tan.

Chơn như chẳng hợp chẳng tan; pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới cũng chẳng hợp chẳng tan. khổ thánh đế cah83ng hợp chẳng tan, tập diệt đạo thánh đế cũng chẳng họp chẳng tan.

Bốn tĩnh lự chẳng hợp chẳng tan; bốn vô lượng, bốn vô sắc định cũng chẳng hợp chẳng tan. tám giải thoát chẳng hợp chẳng tan; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ cũng chẳng hợp chẳng tan. bốn niệm trụ chẳng hợp chẳng tan; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi cũng chẳng hợp chẳng tan. không giải thoát môn chẳng hợp chẳng tan; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn cũng chẳng hợp chẳng tan. năm nhãn chẳng hợp chẳng tan, sáu thần thông cũng chẳng hợp chẳng tan.

Phật mười lực chẳng hợp chẳng tan; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng cũng chẳng hợp chẳng tan. pháp vô vong thất chẳng hợp chẳng tan, tánh hằng trụ xả cũng chẳng hợp chẳng tan. nhất thiết trí chẳng hợp chẳng tan; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí cũng chẳng hợp chẳng tan. tất cả đà la ni môn chẳng hợp chẳng tan, tất cả tam ma địa môn cũng chẳng hợp chẳng tan.

Quả dự lưj chẳng hợp chẳng tan; quả nhất lai, bất hoàn, a la hán cũng chẳng hợp chẳng tan. độc giác bồ đề chẳng hợp chẳng tan. tất cả hạnh bồ tát ma ha tát chẳng hợp chẳng tan. chư phật vô thượng chánh đẳng bồ đề chẳng hợp chẳng tan. hữu vi giới chẳng hợp chẳng tan, vô vi giới cũng chẳng hợp chẳng tan.

Vì cớ sao? Thiện hiện! Các pháp như thế đều không có tự tánh, nếu không tự tánh thời vô sở hữu, nếu vô sở hữu thòi chẳng thể nói có họp có tan. các bồ tát ma ha tát đối tất cả pháp như thế rõ biết, tòi năng rõ biết được tướong hẹp rộng.

Khi ấy, cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Như vậy gọi là lược nhiếp sáu món ba la mật đa. Các bồ tát ma ha tát nếu học trong đó năng làm dược nhiều việc.

Bạch thế tôn! Như vậy, lược nhiếp ba la mật đa bồ tát ma ha tát mới tu nghiệp thường nên học trong đó, cho đến bồ tát ma ha tát trụ thập địa cũng nên học trong đó.

Bạch thế tôn! Nếu bồ tát ma ha tát học lược nhiếp ba la mật đa đây, đối tất cả pháp biết tướng hẹp rộng? Phật nói: thiện hiện! Như vậy, như vậy. Như lời người nói. Thiện hiện! Pháp môn như thế, lợi căn bồ tát ma ha tát vào được, trung căn bồ tát ma ha tát cũng năng vào được. Thiện hiện! Pháp môn như thế, định căn bồ tát ma ha tát cào được, bất định căn bồ tát ma ha tát cũng năng vào được. Thiện hiện! Pháp môn như thế vô chướng vô ngại, nếu bồ tát ma ha tát tìm học trong đó không chẳng năng vào được. Thiện hiện! Pháp môn như htế chẳng phải kẻ biếng nhác, kẻ liệt tinh tiến, kẻ mất chánh niệm, kẻ tâm tán loạn, kẻ tập ác huệ mà năng vào được. Thiện hiện! Pháp môn như thế, kẻ chẳng biếng nhác, kẻ thắng tinh tiến, kẻ trũ chánh niệm, kẻ khéo nhiếp tâm, kẻ tu diệu huệ mới năng vào được. Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát muốn trụ bậc bất thối chuyển, muốn trụ bậc đệ thập điạ, muốn trụ bậc nhất thiết trí trí phải siêng phương tiện vào pháp môn này.

Thiện hiện! Nếu bồ tất ma ha tát đúng như bát nhã ba la mật đa đây đã thuyết mà học, bồ tát ma ha tát này năng tùy chứng được bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa. cũng tùy cha71ng đưỡc nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghiã không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Cũng tùy chứng được chơn như, pháp giới, pháp tánh bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Cũng tùy chứng được khổ tập diệt đạo thánh đế. Cũng tùy chứng được bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Cũng tùy chứng được tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Cũng tùy chứng được bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Cũng tùy chứng được không giải thoát môn, vô tướng, vô nguyện giải thaót môn. Cũng tùy chứng được năm nhãn, sáu thần thông. Cũng tùy chứng được phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng. Cũng tùy chứng được pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Cũng tùy chứng được nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Cũng tùy chứng được tất cả đà la ni môn, tất cả tam ma địa môn. Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát như vậy y theo bát nhã ba la mật đa thẳm sâu đây đã thuyết mà học, bồ tát ma ha tát này như vậy, như vậy, càng gầnn sở cầu nhất thiết trí trí.

Thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát đúng như bát nhã ba la mật đa đã thuyết mà học, bồ tát ma ha tát này có bao nhiêu ma sự tùy khởi liền diệt. Vậy nên, thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát muốn diệt trừ mau tất cả nghiệp chướng, muốn chánh nhiếp thọ phương tiện khéo léo, phải học bát nhã ba la mật đa.

Lại nữa, thiện hiện! Nếu khi bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa này, tu bát nhã ba la mật đa này, tập bát nhã ba la mật đa này, khi ấy bồ tát ma ha tát bèn được tất cả như lai ứng chánh đẳng giác ở mười phương vô lượng, vô sớ, vô biên thế giới hiện tại trụ trì đang thuyết chánh pháp đều chung hộ niệm. Sở vì sao? Vì chư phật quá khứ, vị lai, hiện tại không chẳng đều từ bát nhã ba la mật đa như vầy mà xuất sanh vậy. Vậy nên, thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát năng hành bát nhã ba la mật đa nên khởi nghĩ này: “chư phật quá khứ vị lai hiện tại sở chứng được pháp, ta cũng sẽ được”. Như vậy, thiện hiện! Các bồ tát ma ha tát nên siêng tu học bát nhã ba la mật đa như thế. Nếu siêng tu học bát nhã ba la mật đa như thế, bồ tát ma ha tát này mau chứng vô thượng chánh đẳng bồ đề. Vậy nên, thiện hiện! Các bồ tát ma ha tát thường nên chẳng lìa tác ý tương ưng nhất thiết trí trí mà tu hành bát nhã ba la mật đa.

Lại nữa, thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát đối bát nhã ba la mật đa đây, như thật tu hành trải chừng giây lát, bồ tát ma ha tát này chỗ được nhóm phước, lượng ấy rất nhiều. Giả sử có người giáo hóa các hữu tình tam thiên đại thiên thế giới, đều khiến an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã. Hoặc khiến an trụ giải thoát và giải thoát tri kiến. Hoặc khiến an trụ quả dự lưu, nhất lai, bất hoàn, a la hán. Hoặc khiến an trụ độc giác bồ đề. Người này tuy được nhóm phước vô lượng, mà hãy chẳng kịp bồ tát ma ha tát kia đối bát nhã ba la mật đa đây như thật tu hành trải chừng giây lát. Vì cớ sao? Thiện hiện! Bát nhã ba la mật đa như thế, năng sanh tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã. Năng sanh tất cả giải thoát và giải thoát tri kiến. Năng sanh quả dự lưu, nhất lai, bất hoàn, a la hán. Năng sanh độc giác bồ đề, năng sanh vô thượng chánh đẳng bồ đề. Tất cả như lai ứng chánh đẳng giác hiện tại mười phương vô lượng, vô biên thế giới không chẳng đều do bát nhã ba la mật đa như thế nay được xuấg hiện. Tất cả như lai ứng chánh đẳng giác ở đòi quá khứ không chẳng đều do bát nhã ba la mật đa như thế đã được xuất hiện. Tất cả như lai ứng chánh đẳng giác ở đời vị lai không chẳng đều do bát nhã ba la mật đa như thế sẽ được xuất hiện.

Lại nữa, thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát năng chẳng xa lìa tác ý tương ưng nhất thiết trí trí, tu hành bát nhã ba la mật đa trải chừng giây lát, hoặc trải nửa ngày, hoặc trải một ngày, hoặc trải một tháng, hoặc trải một năm, hoặc trải trăm năm, hoặc trải một kiếp, hoặc trải trăm kiếp cho đến hoặc lai trải qua vô số kiếp. Bồ tát ma ha tát này chỗ được nhóm phước lượng ấy rất nhiều, quá hơn giáo hóa các loại hữu tình ở các thế giới mười phương diện đều như cát sông căng già, đều khiến an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã. Hoặc khiến an trụ giải thoát và giải thoát tri kiến. Hoặc khiến an trụ quả dự lưu, nhất lai, bất hoàn, a la hán. Hoặc khiến an trụ độc giác bồ đề chỗ được nhóm phước. Vi cớ sao? Thiện hiện! Do bát nhã ba la mật đa đây xuất sanh tất cả như lai ứng chánh đẳng giác quá khứ vị lai hiện tại, vì các hữu tình như thật thie thiết bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã. Vì các hữu tình như thật thi thei61t giải thoát và giải thaót tri kiến. Vì các hữu tình như thật thi thiết quả dự lưu, nhất lai, bất hoàn, a la hán. Vì các hữu tình như thật thi thiết độc giác bồ đề. Vì các hữu tình như thật thi thiết chư phật vô thượng chánh đẳng bồ đề vậy. Bởi nhám phước này quá hơn phước kia.

Lại nữa, thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát đúng như bát nhã ba la mật đa đây đã thuyết mà trụ, phải biết bồ tát ma hatát này chẳng quay lùi lại, thường được chư phật hộ niệm, trọn nên phương tiện khéo léo tối thắng , đã từng gần gũi cúng dường vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức đức phật, ở chỗ các phật đã trồng vô lượng căn lành thù thắng. Phải biết bồ tát ma ha tát này đã được vô lượng chân thiện tri thức nhiếp thọ. Đã lâu tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, baét nhã ba la mật đa. đã lâu an trụ nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tâét cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Đã lâu an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghi giới. Đã lâu an trụ khổ tập diệt đạo thánh đế. Đã lâu tu tập bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Đã lâu tu tập tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Đã lâu tu tập bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Đã lâu tu tập không giải thoát môn, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Đã lâu tu tập năm nhãn, sáu thần thông. Đã lâu tu tập phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng. Đã lâu tu tập pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Đã lâu tu tập tất cả đà la ni môn, tất cả tam ma địa môn. Đã lâu tu tập nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.

Phải biết bồ tát ma ha tát này trụ bậc đồng tử, tất cả sỏ nguyện không chẳng đầy đủ. Thường thấy chư phật từng không chút nới, đối các căn lành hằng chẳng bỏ lìa. Thường năng thành thục tất cả hữu tình, cũng thường nghiêm tịnh bao nhiêu cõi phật. Từ một cõi phật tới một cõi phật cung thỉnh cúng dường các phật thế tôn, nghe thọ tu hành pháp vô thượng thừa. Phải biết bồ tát ma ha tát này đã được biện tài vô đoạn, vô tận. Đã được pháp đà la ni thù thắng, trọn nên sắc thân tối thượng vi diệu. Đã được các phật trao ký viên mãn, theo chỗ vui muốn, vì độ hữu tình mà thọ các hữu thân, đã được tự tại.

Phải biết bồ tát ma ha tát này khéo biết môn sở duyên, khéo biết môn hành tướng. Khéo biết môn chữ, khéo biết môn phi chữ. Khéo biết lời nói, khéo biết chẳng lời nói. Khéo biết một thêm lời, khéo biết hai thêm lời, khéo biết nhiều thêm lời. Khéo biết nữ nam thêm lời. Khéo biết quá khứ thêm lời, khéo biết vị lai thêm lời, khéo biết hiện tại thêm lời, khéo biết các văn, khéo biết các nghĩa.

Phải biết bồ tát ma ha tát này khéo biết sắc khéo biết thọ, khéo biết tưởng, khéo biết hành, khéo biết thức. Khéo biết uẩn, khéo biết giới, khéo biết xứ. Khéo biết duyên khởi. Khéo biết tánh thế gian, khéo biết tánh niết bàn.

Khéo biết tướng pháp giới, khéo biết tướng hành, khéo biết tướng phi hành. Khéo biết tướng hữu vi, khéo biết tướng vô vi, khéo biết tươóng hữu vi vô vi. Khéo biết tướng tướng, khéo biết tươóng phi tướng. Khéo biết có, khéo biết chẳng có. Khéo biết bự tánh, khéo biết tha tánh. Khéo biết hợp, khéo biết tan, khéo biết hợp tan. khéo biết tương ưng, khéo biết chẳng tương ưng, khéo biết tương ưng chẳng tương ưng.

Khéo biết chơn như, khéo biết tánh chẳng hư dối, khéo biết tánh chẳng biến khác, khéo biết pháp tánh, khéo biết pháp giới, khéo biết pháp định, khéo biết pháp trụ. Khéo biết duyên tánh, khéo biết phi duyên tánh. Khéo biết các thánh đế.

Khéo biết tĩnh lự, khếo biết vô lượng, khéo biết định vô sắc. Khéo biết sáu ba la mật đa. khéo biết bốn niệm trụ, khéo biến bốn chánh đoạn, khéo biết bốn thần túc, khéo biết năm căn, khéo biết năm lực, khéo biết bảy nhánh đẳng giác, khéo biết tám nhánh thánh đạo.

Khéo biết tám giải thoát, khéo biết tám thắng xứ, khếo biết chín định thứ lớp, khéo biết mười biến xứ. Khéo biết môn đà la ni, khéo biết môn tam ma địa. Khéo biết môn không giải thaót, khéo biết môn vô tướng giải thoát, khéo biết môn vô nguyện giải thoát.

Khéo biết môn tất cả không pháp. Khéo biết năm nhãn, khéo biết sáu thần thông. Khéo biết phật mười lực, khéo biết bốn vô sở úy, khéo biết bốn hiểu không ngại, khéo biết đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, khéo biêt mười tám pháp phật chẳng chung. Khéo biết pháp không quên mất, khéo biết tánh hằng trụ xả. Khéo biết nhất thiết trí, khéo biết đạo tướng trí, khéo biết nhất thiết tướng trí. Khéo biết giới hữu vi, khéo biết giới vô vi. Khéo biết giới, khéo biết phi giới.

Phải biết bồ tát ma ha tát này khéo biết tác ý sắc, khéo biết tác ý thọ tưởng hành thức. Khéo biết tác ý nhãn xứ, khéo biết tác ý nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Khéo biết tác ý sắc xứ, khéo biết tác ý thanh hương vị xúc pháp xứ. Khéo biết tác ý nhãn giới, khéo biết tác ý nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Khéo biết tác ý sắc giới, khéo biết tác ý thanh hương vị xúc pháp giới. Khéo biết tác ý nhãn thức giới, khéo biết tác ý nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Khéo biết tác ý nhãn xúc, khéo biết tác ý nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Khéo biết tác ý nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, khéo biết tác ý nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.

Khéo biết tác ý địa giới, khéo biết tác ý thủy hỏa phong không thức giới. Khéo biết tác ý vô minh; khếo biết tác ý hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử sầu thán khổ ưj não. Khéo biết tác ý bố thi ba la mật đa; khéo biết tác ý tịnh giói, an nhẫn, tinh tiến, 6ĩnh lự, bát nhã ba la mật đa.

Khéo biết tác ý nội không; khéo biết tác ý ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Khéo biết tác ý chơn như; khéo biết tác ý pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Khéo biết tác ý khổ thánh đế, khéo biết tác ý tập diệt đạo thánh đế.

Khéo biết tác ý bốn niệm trụ; khéo biết tác ý bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Khéo biết tác ý bốn tĩnh lự; khéo biết tác ý bôén vô lượng, bốn vô sắc định. Khéo biết tác ý tám giải thoát; khéo biết tác ý tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Khéo biết tác ý tất cả đà la ni môn, khéo biết tác ý tất cả tam ma địa môn. Khéo biết tác ý không giải thoát môn; khéo biết tác ý vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Khéo biết tác ý năm nhãn, khéo biết tác ý sáu thần thông.

Khéo biết tác ý phật mười lực; khéo biết tác ý bốn vô sỏ úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng. Khéo biết tác ý pháp vô vong thất, khép biết tác ý tánh hằng trụ xả. Khếo biết tác ý nhất thiết trí; khéo biết tác ý đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.

Phải biết bồ tát ma ha tát này khéo biết sắc, tướng sắc không; khéo biết thọ tưởng hành thức,, tướng thọ tưởng hành thức không. Khéo biết nhãn xứ, tướng nhãn xứ không; khéo biết nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ không. Khéo biết sắc xứ, tướng sắc xứ không; khéo biết thanh hương vị xúc pháp xứ không.

Khéo biết nhãn giới, tướng nhẵn giới không; khéo biết nhĩ tỷ thiệt thân ý giới, tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý giới không. Khéo biết sắc gìới, tướng sắc giới không; khéo biết thanh hương vị xúc pháp giới, tướong thanh hương vị xúc pháp giới không. Khéo biết nhãn thức giới, tướng nhãn thức giới, tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới không. Khéo biết nhãn xúc, tướng nhãn xúc không; khéo biết nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc, tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc không. Khéo biết nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, tướng nhãn xức làm duyên sanh ra các thọ không; khéo biết nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, tướng nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không.

Khéo biết địa giới, tướng địa giới không; khéo biết thủy hỏa phong không thức giới, tướng thủy hỏa phong không thức giới không. Khéo biết vô minh, tướng vô minh không; khéo biết hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử s62u tán khổ ưj não, tươóng hành ch ođến lão tử sầu thán khổ ưj não không. Khéo biết bô thí ba la mật đa, tướng bố thí ba la mật đa không; khéo biết tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa, tướong tịnh giới cho đến bát nhã ba la mật đa không. Khéo biết nội không, tướng nội không không; khéo biết ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, ehắng nghĩa k hông, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướhng không, nhất thiết6 pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không, tướng ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không không.

Khéo bié chon như, tướng chơn như không; khéo biết pháp giới, phháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất thư nghì giới, tướng pháp giới cho đến bất tư nghì tiới không. Khéo biết khổ thánh đế, tướng khổ thánh đế không; khéo biết tập diệt đạo thánh đế, tướng tập diệt đạo thánh đế không.

Khếo biết bốn niệm trụ, tướng bốn niệm trụ không; khéo biêt bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, tướng bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi không. Khéo ciết bốn tĩnh lự, tướong bốn tĩnh lự không; khéo biết bốn vô lượng, bốn vô saúc định, tướng bốn vô lượng, bốn vô sắc định không.

Khéo biết tám giải thoát, tướn gtám giải thoát không; khéo biết tám tháng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, tướn gtám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ không. Khéo biết tất cả đà la ni môn, tướng tất cả đà la ni môn không; khéo biết tất cả tam ma địa môn, tướng tất cả tam ma địa môn không.

Khéo biết không giẳi thoát môn, tướng không giải thoát môn không; khéo biết vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, tướong vô tướng, vô nguyện giải thoát môn không. Khéo biết năm nhãn, tướng năm nhãn không; khéo biết sáu thần thông, tướng sáu thần thông không.

Khéo biết phật mười lực, tướng phật mười lực không; khéo biết bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp phật bất cộng, tướng bốn vô sỏ úy cho đến mười tám pháp phật bất cộng không. Khéo biết ph1p vô vong thất, tướng pháp vô vong thất không; khéo biết tánh hằng trụ xả, tướng tánh hằng trụ xả không. Khéo biết nhất thiết trí, tướng nhất thiết trí không; khéo biết đạo tướng trí, nhất thiết tướong trí, tướng đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí không.

Khéo biết quả dự lưu, tướng quả dự lưu không; quả nhất lai, bất hoàn, a la hán không. Khéo biết độc giác bồ đề, tướng độc giác bồ đề không. Khéo biết tất cả hạnh bồ tát ma ha tát, tướng tất cả hạnh bồ tát ma ha tát không. Khéo biết chư phật vô thượng chánh đẳng bồ đề, tướng chư phật vô thượng chánh đẳng bồ đề không.

Phải biết bồ tát ma ha tát này khéo biết đạo ngưng thở, khéo biết đạo chẳng ngưng thỏ. Khéo biết sanh, khéo biết diệt, khéo biết trụ eị. Khéo biết tham sân si, khéo biết không tham không sân không si. Khéo biết kiến, khéo biết phi kiến. Khéo biết tà kiến, khéo biết phi tà kiến. Khéo biết tất cẳ kiến, triền, thùy miên, gút trói; khéo biết dứt tất cả kiến, triền, thùy miên, gút trói.

Khéo biết danh, khéo biết sắc, khéo biết danh sắc. Khéo biết nhân duyên, khéo bié đẳng vô gián duhên, khéo biết sỏ duyên, khéo biết đẳng vô gián duyên, khéo bié sỏ duyên duyên, khéo biết tăng thượng duyên. Khéo biết hành, khéo biết giải. Khéo biết tướng, khéo biết trạng. Khéo biết khổ, khéo biết tập, khéo biết diệt, khéo biết đạo.

Khéo biết địa ngục, khéo biết đạo địa ngục; khéo biết bàng sanh, khéo biết đạo bàng sanh; khéo biết qủy giới, khếo biết đạo qủy giới. Khéo biết người, khéo biết đạo người; khéo biết tròi, khéo biết đạo trời. Khéo biết dự lưu, khéo biết quả dự lưu, khéo biết đạo dự lưu; khéo biết nhất lai, khéo biết quả nhất lai, khéo biết đạo nhất lai; khéo biết bất hoàn, khéo biết quả bất hoàn, khéo biết đạo bất hoànn; khéo biết a la hán, khéo biết quả a la hán, khéo biết đạo a la hán. Khéo biết độc giác, khéo biết độc giác bồ đề, khéo biết đạo độc giác. Khéo biết bồ tát ma ha tát, khéo biết hạnh bồ tát ma ha tát. Khéo biết như lai ứng chánh đẳng giác, khéo biết vô thượng chánh đẳng bồ đề. Khếo biết nhất thiết trí, khéo biết đạo nhất thiết trí; khéo biết đạo tướng trí, khéo biết đạo đạo tướng trí; khéo biết nhất theì61t tướng trí, khéo biết đạo nhất thiết tướng trí.

Khéo biết căn, khéo biết căn viên mãn, khéo biết căn thắng liệt. Khếo biết huệ, khéo biết huệ nhanh, khéo biết huệ mạnh, khéo biết huệ bén, khéo biết huệ mau, khéo biết huệ thông, khéo biết huệ rộng, khéo biết huệ sâu, khéo biết huệ lớn, khéo biết huệ đẳng, khếo biết huệ chơn thật, khhéo biết huệ trân bảo.

Khéo biết đời quá khứ, khéo biết đời vị lai, khéo biết đời hiện tại. Khéo biết phương tiện, khếo biết ý vui, khéo biết ý vui thêm lên. Khéo biết chiếu cố hữu tình. Khéo biết tướng văn nghĩa. Khéo biết các thánh pháp. Khéo biết phương tiện an lập tam thừa khéo biết bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa, dẫnn bát nhã ba la mật đa, tu bát nhã ba la mật đa, được các công đức thắng lợi như thế thảy.

Bấy giờ, cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát sao là phải hành bát nhã ba la mật đa, sao là phải dẫn bát nhã ba la mật đa, sao là phải tu bát nhã ba la mật đa?

Phật nói: thiện hiện! Bồ tát ma ha tát vì quán sắc vắg lặng, vì ph1 hoại được, vì chẳng tự tại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa. vì quán thọ tưởng hành thức vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tự tại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát vì quán nhãn xứ vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tự tại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa. vì quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tự tại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát vì quán sắc xứ vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tụ tại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa. vì quán thanh hương vị xúc pháp xứ vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tự tại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát vì quán nhãn giới vắng lặng, vì phá hoạì được, vì chẳng tự tại , vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa. vì quán nhĩ tỷ thiệt thân ý giới vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tự tại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát vì quán sắc giới vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tự tại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa. vì quán thanh hương vị xúc pháp giới vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tự tại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát vì quán nhãn thức giới vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tự tại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa. vì quán nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tự tại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát vì quán nhãn xúc vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tự tại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa. vì quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tự tại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát vì quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tự tại, vì thề hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa. vì quán nhhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duhên sanh ra các thọ vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tự tại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát vì quán địa giới vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tự gại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bat nhã ba la mật đa. vì quán thủy hỏa phong không thức giới vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tự gại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa.

Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát vì quán vô minh vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tự tại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa. vì quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh lão tử sầu thán khổ ưu não vắng lặng, vì phá hoại được, vì chẳng tự tại, vì thể hư dối, vì chẳng bền chắc, nên phải hành bát nhã ba la mật đa.

Thiện hiện! Người hỏi bồ tát ma ha tát sao là phải dẫn bát nhã ba la mật đa ấy, bồ tát ma ha tát như dẫn không của hư không, nên dẫn bát nhã ba la mật đa.

Thiện hiện! Người hỏi bồ tát ma ha tát sao là phải tu bát nhã ba la mật đa ấy, bồ tát ma ha tát như tu không của hư không, nên tu bát nhã ba la mật đa.

Cụ thọ thiện hiện lại thưa phật rằng: bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát trải bao nhiêu đời phải hành bát nhã ba la mật đa, phải dẫn bát nhã ba la mật đa, phải tu bát nhã ba la mật đa? phật nói: thiện hiện! Bồ tát ma ha tát từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa diệu bồ đề phải hành bát nhã ba la mật đa, phải dẫn bát nhã ba la mật đa, phải tu bát nhã ba la mật đa.

Cụ thọ thiện hiện lại thưa phật rằng: bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát trụ những tâmnào không xen hở, nên hành bát nhã ba la mật đa, nên dẫn bát nhã ba la mật đa, nên tu bát nhã ba la mật đa? phật nói: thiện hiện! Bồ tát ma ha tát từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa diệu bồ đề, chẳng cho pháp khỏi các tác ý khác, duy thường an trụ tác ý tương ưng nhất thiết trí trí, nên hành bát nhã ba la mật đa, nên dẫn bát nhã ba la mật đa, nên tu bát nhã ba la mật đa. bồ tát ma ha tát này nên hành ba la mật đa như thế, nên tu bát nhã ba la mật đa như thế. Cho đến năn gkhiến pháp tâm, tâm sỏ dối cảnh chẳng lây chuyển.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát hành bát nhã ba la mật đa, dẫn bát nhã ba la mật đa, tu bát nhã ba la mật đa sẽ được nhất thiết trí trí chăng? Chẳng được, thiện hiện!

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát chẳng hành bát nhã ba la mật đa, chẳng dẫn bát nhã ba la mật đa. chẳng tu bát nhã ba la mật đa sẽ được nhất thiết trí trí chăng? Chẳng được, thiện hiện!

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát cũng hành cũng chẳng hành bát nhã ba la mật đa, cũng dẫn cũng chẳng dẫn bát nhã ba la mật đa, cũng tu cũng chẳng tu bát nhã ba la mật đa, sẽ được nhất thiết trí trí chăng? Chẳng được, thiện hiện!

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát chẳng hành chẳng phải chẳng hành bát nhã ba la mật đa, chẳng dẫn chẳng phải chẳng dẫnn bát nhã ba la mật đa, chẳng tu chẳng phải chẳng tu bát nhã ba la mật đa sẽ được nhất thiết trí trí chăng? Chẳng được, thiện hiện!

Bạch thế tôn! Nếu vậy bồ tát ma ha tát làm sao sẽ được nhất thiết trí trí? Thiện hiện! Bồ tát ma ha tát sẽ được nhất thiết trí trí phải như chơn như.

Bạch thế tôn! Chơn như ra sao? Thiện hiện! Như thật tế. Bạch thế tôn! Thật tế ra sao? Thei65n hiện! Như pháp giới. Bạch thế tôn! Pháp giới ra sao? Thiện hiện! Như ngã giới, hữu tình giới, mạng giả giới, sanh giả giới, dưỡng giả giới, sĩ phu giới, bỗ đặc già la giới.

Bạch thế tôn! Ngã giới, hữu tình giới, mạng giả giới, sanh giả giới, gưỡng giả giới, sĩ phu giới, bổ đặc già la giới ra sao? Phật bảo: thiện hiện! Nơi 71 hiểu sao? Hoặc ngã, hoặc hữu tình, hoặc mạng giả, hoặc sanh giả, hoặc dưỡng giả, hoặc sĩ phu, hoặc bổ đặc già la hãy khá được chăng? Thiện hiện thưa rằng: bạch thế tôn! Chẳng được.

Phật nói: thiện hiện! Hoặc ngã, hoặc hữu tình hoặc mạng giả, hoặc sanh giả, hoặc dưỡng giả, hoặc sĩ phu, hoặc bổ đặc già la, đã chẳng khá được. Ta phải làm sao khá thi thiết được ngã giới, hữu tình giới, mạng giả giới, sanh giả giới, dưỡng giả giới, sĩ phu giới, bố đặc già la giới? Như vậy, thiện hiện! Nếu bồ tát ma ha tát chẳng thi thiết bát nhã ba la mật đa; cũng chẳng thi thiết nhất thiết trí trí và tất cả pháp, bồ tát ma ha tắt này quyết định sẽ chứng được nhất thiết trí trí.

Khi ấy, cụ thọ thiện hiện lại thứ phật rằng:; bạch thế tôn! Vì chỉ bát nhã ba la mật đa chẳng khá thi thiết, hay tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí ba lamật đa cũng chẳng khá thi thiết ư?

Phật nói: thiện hiện! Chẳng những bát nhã ba la mật đa chẳng khá thi thiết, mà tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí ba la mật đa cũng chẳng khá thi thiết. Thiện hiện! Hoặc pháp thanh văn, hoặc pháp độc giác, hoặc pháp bồ tát, hoặc pháp chư phật, hoặc pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi, tất cả pháp như thế thảy đều chẳng khá thi thiết được.

Cụ thọ thiện hiện lại thưa phật rằng: bạch thế tôn! Nếu tất cả pháp đều chẳng khá thi thiết, thì làm sao khá thi thiết là địa ngục, là bàng sanh, là quỷ giới, là người, là trời, là dự lưu, là nhất lai, là bất hoàn, là a la hán, là độc giác, là bồ tát, là chư phật, là tất cả pháp ư?

Phật nói: thiện hiện! Nơi ý hiểu sao? Thi thiết hữu tình và thi thiết pháp thật khá được chăng? Thiện hiện thưa rằng: bạch thế tôn! Chẳng khá được.

Phật nói: thiện hiện! Nếu thi thiết hữu tình và thi thiết pháp thật chẳng khá được, ta làm sao khá thi thiết được là điạ ngục, là bàng sanh, là quỷ giới, là người, là trới, là dự lưu, là nhất lai, là bất hoàn, là a la hán, là độc giác, là bồ tát, là chư phật, là tất cả pháp. Như vậy, thiện hiện! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa, nên học tấc cả pháp đều chẳng khá thi thiết được.

Cụ thọ thiện hiện thưa phật rằng: bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi sắc, cũng nên học nơi thọ tưởng hành thức. Bạchthế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi nhãn xứ, cũng nên học noi nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi sắc xứ, cũng nên học noi thanh hương vị xúc pháp xứ.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi nhãn giới cũng nên học nơi nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nênn học nơi sắc giới, cũng nên học nơi thanh hương vị xúc pháp giới. Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi nhãn thức giới, cũng nên học nơi nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi nhãn xúc, cũng nên học nơi nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, cũng nên học nơi nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi địa giới, cũng nên học nơi thủy hỏa phong không thức giới. Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành tát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi vô minh; cũng nên học noi hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi bố thí ba la mật đa; cũng nên học nơi tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã ba la mật đa.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi nội không; cũng nên học nơi ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khẳ đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi chơn như; cũng nên học nơi pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi khổ thánh đế, cũng nên học noi tập diệt đạo thánh đế.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi bốn niệm trụ; cũng nên học nơi bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi bốn tĩnh lự; cũng nên học nơi bốn vô lượng, bốn vô sắc định.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học noi tám giải thoát, cũng nên học nơi tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi tất cả đà la ni môn, cũng nên học nơi tất cả tam ma địa môn.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi không giải thoát môn; cũng nên học nơi vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi năm nhãn cũng nên học nơi sáu thần thông.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học noi phật mười lực; cũng nên học nơi bốn vô sở úy, bốn vô ngãi giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mười tám pháp phật bất cộng.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi pháp vô vong thất, cũng nên học nơi tánh hằng trụ xả.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi nhất thiết tri; cũng nên học nơi đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma h atát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi quả dự lưu; cũng nên học nơi quả nhất lai, bất hoàn, a la hán.

Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi độc giác bồ đề. Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi tất cả hạnh bồ tát ma ha tát. Bạch thế tôn! Bồ tát ma ha tát khi hành bát nhã ba la mật đa đâu chẳng nên học nơi chư phật vô thượng đẳng bồ đề.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com