- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (24 tập)
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 2
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 3
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 4
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 5
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 6
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 7
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 8
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 9
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 10
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 11
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 12
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 13
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 14
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 15
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 16
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 17
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 18
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 19
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 20
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 21
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 22
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 23
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 24
- Tiểu sử dịch giả HT Thích Trí Nghiêm
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 14
Quyển Thứ 348: Hội thứ nhất Phẩm Vô Tận thứ 59-2
Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Thiện Hiện phải biết, bố thí Ba la mật đa hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã Ba la mật đa hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, nội không hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, chơn như hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, khổ thánh đế hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Tập diệt đạo thánh đế hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, bốn tĩnh lự hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Bốn vô lượng, bốn vô sắc định hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, tám giải thoát hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, bốn niệm trụ hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, không giải thoát môn hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, năm nhãn hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Sáu thần thông hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, Phật mười lực hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, pháp vô vong thất hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Tánh hằng trụ xả hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, nhất thiết trí hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, tất cả đà la ni môn hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Tất cả tam ma địa môn hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, quả Dự lưu hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Quả Nhất lai, Bất hoàn, A La Hán hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, Độc giác Bồ đề hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, tất cả hạnh Bồ Tát Ma Ha Tát hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hư không vô tận nên Bồ Tát Ma Ha Tát phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ Tát Ma Ha Tát quán vô minh như hư không vô tận nên phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Bồ Tát Ma Ha Tát quán hành như hư không vô tận nên phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Bồ Tát Ma Ha Tát quán thức như hư không vô tận nên phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Bồ Tát Ma Ha Tát quán danh sắc như hư không vô tận nên phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Bồ Tát Ma Ha Tát quán sáu chỗ như hư không vô tận nên phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Bồ Tát Ma Ha Tát quán xúc như hư không vô tận nên phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Bồ Tát Ma Ha Tát quán thọ như hư không vô tận nên phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Bồ Tát Ma Ha Tát quán ái như hư không vô tận nên phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Bồ Tát Ma Ha Tát quán thủ như hư không vô tận nên phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Bồ Tát Ma Ha Tát quán hữu như hư không vô tận nên phải dẫn Bát Nhã ba la mật đa. Bồ Tát Ma Ha Tát quán sanh như hư không vô tận nên phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Bồ Tát Ma Ha Tát quán lão tử sầu thán khổ ưu não như hư không vô tận nên phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa. Như vậy, Thiện Hiện! Bồ Tát Ma Ha Tát nên phải dẫn Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, các Bồ Tát Ma Ha Tát quán sát mười hai duyên khởi như thế xa lìa hai bên, các Bồ Tát Ma Ha Tát này chẳng cộng diệu quán. Thiện Hiện phải biết, các Bồ Tát Ma Ha Tát ngồi tòa Bồ đề như thật quán sát mười hai duyên khởi in như hư không chẳng thể tận, nên mau năng chứng được Nhất thiết trí trí.
Thiện Hiện phải biết, Nếu Bồ Tát Ma ha tát đem hành tướng như hư không vô tận hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, như thật quán sát mười hai duyên khởi, chẳng đọa vào Thanh Văn và bậc Độc giác, sẽ trụ Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Có các người trụ Bồ Tát thừa bổ đặc già la, nếu đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề có quay lui ấy, thảy đều chẳng nương tác ý khéo léo dẫn phát Bát Nhã Ba la mật đa. Bởi kia chẳng rõ Bồ Tát Ma Ha Tát vì sao tu hành Bát Nhã Ba la mật đa, năng đem hành tướng như hư không vô tận như thật quán sát mười hai duyên khởi dẫn phát Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, có các người an trụ Bồ Tát thừa, nếu đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề mà có quay lui, đều bởi xa lìa phương tiện khéo léo dẫn phát Bát Nhã Ba la mật đa. Thiện Hiện phải biết, Nếu Bồ Tát Ma ha tát năng đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng quay lui ấy là đều nương phương tiện khéo léo dẫn phát bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Bồ Tát Ma Ha Tát này nhờ nương phương tiện khéo léo như thế tu hành Bát Nhã Ba la mật đa, đem hành tướng như hư không vô tận như thật quán sát mười hai duyên khởi dẫn phát Bát Nhã Ba la mật đa. Bồ Tát Ma Ha Tát này nhờ nương phương tiện khéo léo như thế tu hành Bát Nhã Ba la mật đa, đem hành tướng như hư không vô tận như thật quán sát Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Do đây dẫn phát Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi quán sát pháp duyên khởi như thế, chẳng thấy có pháp vô nhân mà sanh, chẳng thấy có pháp vô nhân mà diệt, chẳng thấy có pháp thường còn chẳng diệt, chẳng thấy có pháp ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, khiến tác giả, khởi giả, khiến khởi giả, thọ giả, khiến thọ giả, tri giả, khiến tri giả, kiến giả, khiến kiến giả; chẳng thấy có pháp hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Thiện Hiện phải biết, các Bồ Tát Ma Ha Tát muốn hành Bát Nhã Ba la mật đa nên phải quán sát duyên khởi như thế mà hành Bát Nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện phải biết, Nếu Bồ Tát Ma ha tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy thọ tưởng hành thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy nhãn xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy sắc xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy nhãn giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy sắc giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy nhãn thức giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy nhãn xúc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy địa giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy thủy hỏa phong không thức giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy vô minh hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy bố thí Ba la mật đa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã Ba la mật đa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy nội không hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy chơn như hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy khổ thánh đế hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy tập diệt đạo thánh đế hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy tám giải thoát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy bốn niệm trụ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy không giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy vô tướng, vô nguyện giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy năm nhãn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy sáu thần thông hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy Phật mười lực hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy pháp vô vong thất hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy tánh hằng trụ xả hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy nhất thiết trí hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy tất cả đà la ni môn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy tất cả tam ma địa môn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy quả Dự lưu hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng thấy quả Nhất lai, Bất hoàn, A La Hán hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy Độc giác Bồ đề hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy tất cả hạnh Bồ Tát ma ha tát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Nếu khi Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng thấy chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy hành Bát Nhã Ba la mật đa mà chẳng thấy có sở hành Bát Nhã Ba la mật đa, lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở hành Bát Nhã Ba la mật đa. Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy hành tĩnh lự, tinh tiến, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật đa mà chẳng thấy có sở hành tĩnh lự cho đến bố thí Ba la mật đa, lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở hành tĩnh lự cho đến bố thí Ba la mật đa.
Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy trụ nội không mà chẳng thấy có sở trụ nội không, lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở trụ nội không. Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy trụ ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không, lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở trụ ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không.
Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy trụ chơn như mà chẳng thấy có sở trụ chơn như, lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở trụ chơn như. Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới mà chẳng thấy có sở trụ pháp giới cho đến bất tư nghì giới.
Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy trụ khổ thánh đế mà chẳng thấy có sở trụ khổ thánh đế, lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở trụ khổ thánh đế. Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy trụ tập diệt đạo thánh đế mà chẳng thấy có sở trụ tập diệt đạo thánh đế, lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở trụ tập diệt đạo thánh đế.
Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy tu bốn tĩnh lự mà chẳng thấy có sở tu bốn tĩnh lự, lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tu bốn tĩnh lự. Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy trụ bốn vô lượng bốn vô sắc định mà chẳng thấy có sở tu bốn vô lượng, bốn vô sắc định, lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tu bốn vô lượng, bốn vô sắc định.
Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy tu tám giải thoát mà chẳng thấy có sở tu tám giải thoát lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tu tám giải thoát. Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy tu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ mà chẳng thấy có sở tu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ.
Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy tu bốn niệm trụ mà chẳng thấy có sở tu bốn niệm trụ, lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tu bốn niệm trụ. Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi mà chẳng thấy có sở tu bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tu bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi.
Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy tu không giải thoát môn mà chẳng thấy có sở tu không giải thoát môn, lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tu không giải thoát môn. Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy vô tướng, vô nguyện giải thoát môn mà chẳng thấy có sở tu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.
Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy tu năm nhãn mà chẳng thấy có sở tu năm nhãn lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở năm nhãn. Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy sáu thần thông mà chẳng thấy có sở tu sáu thần thông lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tu sáu thần thông.
Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy tu Phật mười lực mà chẳng thấy có sở tu Phật mười lực lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tu Phật mười lực Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy tu bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà chẳng thấy có sở tu bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tu mười tám pháp Phật bất cộng.
Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy pháp vô vong thất mà chẳng thấy có sở tu pháp vô vong thất lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tu pháp vô vong thất. Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy tu tánh hằng trụ xả mà chẳng thấy có sở tu tánh hằng trụ xả lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tu tánh hằng trụ xả.
Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy tu nhất thiết trí mà chẳng thấy có sở tu nhất thiết trí lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tu nhất thiết trí. Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí mà chẳng thấy có sở tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở trụ đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy tất cả đà la ni môn mà chẳng thấy có sở trụ tất cả đà la ni môn, lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tu tất cả đà la ni môn. Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy tu tất cả tam ma địa môn mà chẳng thấy có sở tu tất cả tam ma địa môn lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tu tất cả tam ma địa môn.
Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy tu tất cả hạnh Bồ Tát Ma Ha Tát mà chẳng thấy có sở tu tất cả hạnh Bồ Tát ma ha tát lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tu tất cả hạnh Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, khi ấy Bồ Tát Ma Ha Tát tuy tu chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề mà chẳng thấy có sở tu chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề lại cũng chẳng thấy có pháp năng kiến sở tu chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện phải biết, các Bồ Tát Ma Ha Tát đối tất cả pháp đều vô sở đắc mà làm phương tiện, nên hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế.
Thiện Hiện! Nếu khi Bồ Tát Ma Ha Tát đối tất cả pháp đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, khi ấy ác ma sanh buồn rầu lớn như trúng tên độc, ví như có người cha mẹ mới chết, rất nỗi đau đớn. Bấy giờ ác ma thấy các Bồ Tát Ma Ha Tát đối tất cả pháp đem vô sở đắc mà làm phương tiện, tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế, sanh đau buồn lớn như trúng tên độc cũng lại như thế.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Là một ác ma thấy các Bồ Tát Ma Ha Tát đối tất cả pháp đem vô sở đắc mà làm phương tiện, hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, sanh buồn rầu lớn như trúng tên độc, hay là tất cả ác ma khắp Tam thiên đại thiên thế giới thấy các Bồ Tát Ma Ha Tát, đối tất cả pháp đem vô sở đắc mà làm phương tiện, hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, sanh buồn rầu lớn như trúng tên độc?
Phật nói: Thiện Hiện! Tất cả ác ma khắp đầy Tam thiên đại thiên thế giới, thấy các Bồ Tát Ma Ha Tát đối tất cả pháp đem vô sở đắc mà làm phương tiện, hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, sanh buồn rầu lớn như trúng tên độc, đều ở chỗ ngồi chẳng năng tự yên được.
Thiện Hiện phải biết, các Bồ Tát Ma Ha Tát nên thường an trụ Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu hành trụ rốt hơn. Nếu Bồ Tát Ma ha tát thường năng an trụ Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu hành trụ rốt hơn, thế gian, trời, người, a tố lạc thảy rình tìm chỗ dở không thể tìm được, lại cũng chẳng thể khiến sanh ưu não được. Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát muốn chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, phải siêng an trụ Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu hành trụ tốt hơn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát năng chính an trụ Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu hành trụ tốt hơn, thời năng tu mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã Ba la mật đa. Nếu Bồ Tát Ma ha tát năng chính tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, bèn năng đầy đủ tu mãn tất cả Ba la mật đa.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát làm sao năng chính tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, bèn năng đầy đủ tu mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã Ba la mật đa?
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu không trái, đem tâm Nhất thiết trí trí mà tu bố thí. Lại đem công đức bố thí như thế cùng tất cả hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát Ma Ha Tát năng chính tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, bèn năng đầy đủ tu mãn bố thí Ba la mật đa.
Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu không trái, đem tâm Nhất thiết trí trí mà tu tịnh giới. Lại đem công đức tịnh giới như thế cùng tất cả hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát Ma Ha Tát năng chính tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, bèn năng đầy đủ tu mãn tịnh giới Ba la mật đa.
Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu không trái, đem tâm Nhất thiết trí trí mà tu an nhẫn. Lại đem công đức an nhẫn như thế cùng tất cả hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát Ma Ha Tát năng chính tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, bèn năng đầy đủ tu mãn an nhẫn Ba la mật đa.
Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu không trái, đem tâm Nhất thiết trí trí mà tu tinh tiến. Lại đem công đức tinh tiến như thế cùng tất cả hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát Ma Ha Tát năng chính tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, bèn năng đầy đủ tu mãn tinh tiến Ba la mật đa.
Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu không trái, đem tâm Nhất thiết trí trí mà tu tĩnh lự. Lại đem công đức tĩnh lự như thế cùng tất cả hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát Ma Ha Tát năng chính tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, bèn năng đầy đủ tu mãn tĩnh lự Ba la mật đa.
Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu không trái, đem tâm Nhất thiết trí trí mà tu bát nhã. Lại đem công đức bát nhã như thế cùng tất cả hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát Ma Ha Tát năng chính tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, bèn năng đầy đủ tu mãn bát nhã Ba la mật đa.
Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma Ha Tát năng chính tu hành Bát Nhã Ba la mật đa thẳm sâu, bèn năng đầy đủ tu mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã Ba la mật đa.