- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (24 tập)
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 2
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 3
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 4
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 5
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 6
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 7
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 8
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 9
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 10
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 11
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 12
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 13
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 14
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 15
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 16
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 17
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 18
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 19
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 20
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 21
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 22
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 23
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 24
- Tiểu sử dịch giả HT Thích Trí Nghiêm
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
Quyển Thứ 298: Hội thứ nhất Phẩm Công Đức Khó Nghe thứ 39-2
Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối chơn như phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học chơn như; nếu đối pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học pháp giới cho đến bất tư nghì giới. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát này quán chơn như cho đến bất tư nghì giới, ngằn mé trước sau giữa chẳng khá được vậy.
Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối khổ thánh đế phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học khổ thánh đế; nếu đối tập diệt đạo thánh đế phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học tập diệt đạo thánh đế. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát này quán khổ thánh đế, tập diệt đạo thánh đế, ngằn mé trước sau giữa chẳng khá được vậy.
Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối bốn tĩnh lự phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học bốn tĩnh lự; nếu đối bốn vô lượng, bốn vô sắc định phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát này quán bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định, ngằn mé trước sau giữa chẳng khá được vậy.
Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối tám giải thoát phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học tám giải thoát; nếu đối tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát này quán tám giải thoát cho đến mười biến xứ, ngằn mé trước sau giữa chẳng khá được vậy.
Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối bốn niệm trụ phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học bốn niệm trụ; nếu đối bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát này quán bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi, ngằn mé trước sau giữa chẳng khá được vậy.
Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối không giải thoát môn phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học không giải thoát môn; nếu đối vô tướng, vô nguyện giải thoát môn phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát này quán không giải thoát môn, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, ngằn mé trước sau giữa chẳng khá được vậy.
Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối Bồ tát thập địa phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học Bồ tát thập địa. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát này quán Bồ tát thập địa, ngằn mé trước sau giữa chẳng khá được vậy.
Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối năm nhãn phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học năm nhãn; nếu đối sáu thần thông phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học sáu thần thông. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát này quán năm nhãn, sáu thần thông, ngằn mé trước sau giữa chẳng khá được vậy.
Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối Phật mười lực phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học Phật mười lực; nếu đối bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát này quán Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, ngằn mé trước sau giữa chẳng khá được vậy.
Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối pháp vô vong thất phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học pháp vô vong thất; nếu đối tánh hằng trụ xả phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học tánh hằng trụ xả. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát này quán pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả, ngằn mé trước sau giữa chẳng khá được vậy.
Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối nhất thiết trí phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học nhất thiết trí; nếu đối đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát này quán nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, ngằn mé trước sau giữa chẳng khá được vậy.
Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối tất cả đà la ni môn phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học tất cả đà la ni môn; nếu đối tất cả tam ma địa môn phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học tất cả tam ma địa môn. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát này quán tất cả đà la ni môn, tất cả tam ma địa môn, ngằn mé trước sau giữa chẳng khá được vậy.
Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối quả Dự lưu phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học quả Dự lưu; nếu đối quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát này quán quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, ngằn mé trước sau giữa chẳng khá được vậy.
Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối Độc giác Bồ đề phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học Độc giác Bồ đề. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát này quán Độc giác Bồ đề, ngằn mé trước sau giữa chẳng khá được vậy.
Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối tất cả hạnh Bồ tát ma ha tát phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học tất cả hạnh Bồ tát ma ha tát. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát này quán tất cả hạnh Bồ tát ma ha tát, ngằn mé trước sau giữa chẳng khá được vậy.
Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu đối chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề phi trụ phi chẳng trụ, phi học phi chẳng học, đấy là trụ học chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát ma ha tát này quán chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, ngằn mé trước sau giữa chẳng khá được vậy.
Bấy giờ, Xá Lợi Tử thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đa như thế rất là thẳm sâu? Phật nói: Như vậy. Xá Lợi Tử! Sắc chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, thọ tưởng hành thức chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Nhãn xứ chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa. Xá Lợi Tử! Sắc xứ chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, thanh hương vị xúc pháp xứ chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu.
Xá Lợi Tử! Nhãn giới chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Nhĩ giới chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Tỷ giới chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Thiệt giới chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Thân giới chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu; xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Ý giới chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu; pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu.
Xá Lợi Tử! Địa giới chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, thủy hỏa phong không thức giới chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Vô minh chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! bố thí Ba la mật đa chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu.
Xá Lợi Tử! Nội không chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu; ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Chơn như chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu; pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! khổ thánh đế chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, tập diệt đạo thánh đế chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu.
Xá Lợi Tử! Bốn tĩnh lự chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu; bốn vô lượng, bốn vô sắc định chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Tám giải thoát chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Không giải thoát môn chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Bồ tát thập địa chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Năm nhãn chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, sáu thần thông chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu.
Xá Lợi Tử! Phật mười lực chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Pháp vô vong thất chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, tánh hằng trụ xả chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Nhất thiết trí chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Tất cả đà la ni môn chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, tất cả tam ma địa môn chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu.
Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu; quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! Độc giác Bồ đề chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! tất cả hạnh Bồ tát ma ha tát chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu. Xá Lợi Tử! chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chơn như thẳm sâu nên Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu.
Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đa như thế khó so lường được? Phật nói: Như vậy. Xá Lợi Tử! Sắc chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được, thọ tưởng hành thức chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Nhãn xứ chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Sắc xứ chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được, thanh hương vị xúc pháp xứ chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được.
Xá Lợi Tử! Nhãn giới chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Nhĩ giới chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Tỷ giới chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Thiệt giới chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Thân giới chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được; xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Ý giới chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được; pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được.
Xá Lợi Tử! Địa giới chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được, thủy hỏa phong không thức giới chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Vô minh chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! bố thí Ba la mật đa chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Nội không chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được; ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được.
Xá Lợi Tử! Chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được; pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Khổ thánh đế chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được, tập diệt đạo thánh đế chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được.
Xá Lợi Tử! Bốn tĩnh lự chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được; bốn vô lượng, bốn vô sắc định chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Tám giải thoát chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Không giải thoát môn chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Bồ tát thập địa chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Năm nhãn chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được, sáu thần thông chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được.
Xá Lợi Tử! Phật mười lực chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Pháp vô vong thất chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được, tánh hằng trụ xả chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Nhất thiết trí khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Tất cả đà la ni môn khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được, tất cả tam ma địa môn chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được.
Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được; quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! Độc giác Bồ đề chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa chơn như khó so lường được. Xá Lợi Tử! Tất cả hạnh Bồ tát ma ha tát chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được. Xá Lợi Tử! chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chơn như khó so lường nên Bát nhã Ba la mật đa khó so lường được.
Khi ấy, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đa như thế rất là vô lượng? Phật nói: Như vậy. Xá Lợi Tử! Sác chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng, thọ tưởng hành thức chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Nhãn xứ chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Sắc xứ chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng, thanh hương vị xúc pháp xứ chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng.
Xá Lợi Tử! Nhãn giới chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Nhĩ giới chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Tỷ giới chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! thiệt giới chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Thân giới chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng; xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Ý giới chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng; pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng.
Xá Lợi Tử! Địa giới chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng, thủy hỏa phong không thức giới chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Vô minh chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! bố thí Ba la mật đa chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa Bát nhã Ba la mật đa vô lượng.
Xá Lợi Tử! nội không chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng; ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Chơn như chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng; pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Khổ thánh đế chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng, tập diệt đạo thánh đế chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Bốn tĩnh lự chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng; bốn vô lượng, bốn vô sắc định chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Tám giải thoát chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Bốn niệm trụ chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Không giải thoát môn chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Bồ tát thập địa chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Năm nhãn chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng, sáu thần thông chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng.
Xá Lợi Tử! Phật mười lực chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng.Xá Lợi Tử! Pháp vô vong thất chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng, tánh hằng trụ xả chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Nhất thiết trí chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Tất cả đà la ni môn chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng, tất cả tam ma địa môn chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng.
Xá Lợi Tử! Quả Dự lưu chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng; quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Độc giác Bồ đề chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Tất cả hạnh Bồ tát ma ha tát chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng. Xá Lợi Tử! Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chơn như vô lượng nên Bát nhã Ba la mật đa vô lượng.
Bấy giờ, Xá Lợi Tử lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bồ tát ma ha tát làm sao hành Bát nhã Ba la mật đa? Phật nói: Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh sắc thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh thọ tưởng hành thức thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh sắc thẳm sâu thời chẳng phải sắc, tánh thọ tưởng hành thức thẳm sâu thời chẳng phải thọ tưởng hành thức vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh nhãn xứ thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ thẳm sâu thời chẳng phải nhãn xứ, tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ thẳm sâu thời chẳng phải nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh sắc xứ thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh thanh hương vị xúc pháp xứ thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh sắc xứ thẳm sâu thời chẳng phải sắc xứ, tánh thanh hương vị xúc pháp xứ thẳm sâu thời chẳng phải thanh hương vị xúc pháp xứ vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh nhãn giới thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh nhãn giới thẳm sâu thời chẳng phải nhãn giới; tánh sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thẳm sâu, thời chẳng phải sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh nhĩ giới thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh nhĩ giới thẳm sâu thời chẳng phải nhĩ giới; tánh thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ thẳm sâu, thời chẳng phải thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh tỷ giới thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh tỷ giới thẳm sâu thời chẳng phải tỷ giới; tánh hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ thẳm sâu, thời chẳng phải hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh thiệt giới thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh thiệt giới thẳm sâu thời chẳng phải thiệt giới, tánh vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ thẳm sâu, thời chẳng phải vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh thân giới thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh thân giới thẳm sâu thời chẳng phải thân giới; tánh xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ thẳm sâu, thời chẳng phải xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh ý giới thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh ý giới thẳm sâu thời chẳng phải ý giới; tánh pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ thẳm sâu, thời chẳng phải pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh địa giới thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh thủy hỏa phong không thức giới thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh địa giới thẳm sâu thời chẳng phải địa giới, tánh thủy hỏa phong không thức giới thẳm sâu thời chẳng phải thủy hỏa phong không thức giới vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh vô minh thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh vô minh thẳm sâu thời chẳng phải vô minh; tánh hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não thẳm sâu, thời chẳng phải hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh bố thí Ba la mật đa thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh bố thí Ba la mật đa thẳm sâu thời chẳng phải bố thí Ba la mật đa; tánh tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, thời chẳng phải tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật đa vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh tánh nội không thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh nội không thẳm sâu thời chẳng phải nội không; tánh ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không thẳm sâu, thời chẳng phải ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh chơn như thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh chơn như thẳm sâu thời chẳng phải chơn như; tánh pháp giói cho đến bất tư nghì giới thẳm sâu, thời chẳng phải pháp giới cho đến bất tư nghì giới vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh khổ thánh đế thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh tập diệt đạo thánh đế thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh khổ thánh đế thẳm sâu thời chẳng phải khổ thánh đế, tánh tập diệt đạo thánh đế thẳm sâu thời chẳng phải tánh tập diệt đạo thánh đế vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh bốn tĩnh lự thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh bốn vô lượng, bốn vô sắc định thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh bốn tĩnh lự thẳm sâu thời chẳng phải bốn tĩnh lự; tánh bốn vô lượng, bốn vô sắc định thẳm sâu thời chẳng phải bốn vô lượng, bốn vô sắc định vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh tám giải thoát thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh tám giải thoát thẳm sâu thời chẳng phải tám giải thoát; tánh tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ thẳm sâu thời chẳng phải tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh bốn niệm trụ thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh bốn niệm trụ thẳm sâu thời chẳng phải bốn niệm trụ, tánh bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi thẳm sâu thời chẳng phải bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh không giải thoát môn thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh vô tướng, vô nguyện giải thoát môn thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh không giải thoát môn thẳm sâu thời chẳng phải không giải thoát môn; tánh vô tướng, vô nguyện giải thoát môn thẳm sâu thời chẳng phải vô tướng, vô nguyện giải thoát môn vậy.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hành tánh năm nhãn thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa; chẳng hành tánh sáu thần thông thẳm sâu, đấy hành Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì tánh năm nhãn thẳm sâu thời chẳng phải năm nhãn, tánh sáu thần thông thẳm sâu thời chẳng phải sáu thần thông vậy.