- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (24 tập)
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 2
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 3
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 4
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 5
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 6
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 7
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 8
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 9
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 10
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 11
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 12
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 13
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 14
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 15
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 16
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 17
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 18
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 19
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 20
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 21
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 22
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 23
- Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 24
- Tiểu sử dịch giả HT Thích Trí Nghiêm
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
Quyển Thứ 288: Hội thứ nhất Phẩm Trước Chẳng Trước Tướng thứ 36-2
Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân thảy trụ Bồ tát thừa, nếu đem hữu sở đắc làm phương tiện, từ sơ phát tâm đối bố thí Ba la mật đa khởi tưởng trước hành; đối tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa khởi tưởng trước hành. Hoặc đối nội không khởi tưởng trước hành; đối ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không khởi tưởng trước hành. Hoặc đối chơn như khởi tưởng trước hành; đối pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới khởi tưởng trước hành. Hoặc đối khổ thánh đế khởi tưởng trước hành, đối tập diệt đạo thánh đế khởi tưởng trước hành. Hoặc đối bốn tĩnh lự khởi tưởng trước hành, đối bốn vô lượng, bốn vô sắc định khởi tưởng trước hành. Hoặc đối tám giải thoát khởi tưởng trước hành; đối tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ khởi tưởng trước hành. Hoặc đối bốn niệm trụ khởi tưởng trước hành; đối bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi khởi tưởng trước hành. Hoặc đối không giải thoát môn khởi tưởng trước trước hành; đối vô tướng, vô nguyện giải thoát môn khởi tưởng trước hành. Hoặc đối Bồ tát thập địa khởi tưởng trước hành. Hoặc đối năm nhãn khởi tưởng trước hành, đối sáu thần thông khởi tưởng trước hành. Hoặc đối Phật mười lực khởi tưởng trước hành; đối bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng khởi tưởng trước hành. Hoặc đối pháp vô vong thất khởi tưởng trước hành, đối tánh hằng trụ xả khởi tưởng trước hành. Hoặc đối nhất thiết trí khởi tưởng trước hành; đối đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí khởi tưởng trước hành. Hoặc đối tất cả đà la ni môn khởi tưởng trước hành, đối tất cả tam ma địa môn khởi tưởng trước hành. Hoặc đối quả Dự lưu khởi tưởng trước hành; đối quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán khởi tưởng trước hành. Hoặc đối Độc giác Bồ đề khởi tưởng trước hành. Hoặc đối tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát khởi tưởng trước hành. Hoặc đối chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề khởi tưởng trước hành.
Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát khi hàh Bát nhã Ba la mật đa, nếu không có phương tiện khéo léo, đem hữu sở đắc làm phương tiện, khởi tưởng trước những bao như vậy thảy, thời gọi là trước tướng.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Trước ngài hỏi rằng, vì sao Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng trước tướng ấy. Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa có phương tiện khéo léo, đối sắc chẳng khởi tưởng không bất không, đối thọ tưởng hành thức cũng chẳng khởi tưởng trước không. Đối nhãn xứ chẳng khởi tưởng không bất không, đối nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối sắc xứ chẳng khởi tưởng không bất không, đối thanh hương vị xúc pháp xứ cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối nhãn giới chẳng khởi tưởng không bất không; đối sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối nhĩ giới chẳng khởi tưởng không bất không; đối thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc,nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối tỷ giới chẳng khởi tưởng không trước không; đối hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối thiệt giới chẳng khởi tưởng không bất không; đối vị giới, thiệt thức giới, và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối thân giới chẳng khởi tưởng không bất không; đối xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối ý giới chẳng khởi tưởng không trước không; đối pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng khởi tưởng không bất không.
Đối địa giới chẳng khởi tưởng không bất không, đối thủy hỏa phong không thức giới cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối vô minh chẳng khởi tưởng không bất không; đối hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối bố thí Ba la mật đa chẳng khởi tưởng không bất không; đối tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối nội không chẳng khởi tưởng không bất không; đối ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối chơn như chẳng khởi tưởng không bất không; đối pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới cũng chẳng khởi tưởng không bất không.
Đối khổ thánh đế chẳng khởi tưởng không bất không, đối tập diệt đạo thánh đế cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối bốn tĩnh lự chẳng khởi tưởng không bất không; đối bốn vô lượng, bốn vô sắc định cũng chẳng khởi tưởng không bất không, đối tám giải thoát chẳng khởi tưởng không bất không; đối tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối bốn niệm trụ chẳng khởi tưởng không bất không; đối bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối không giải thoát môn chẳng khởi tưởng không bất không; đối vô tướng, vô nguyện giải thoát môn chẳng khởi tưởng không bất không. Đối Bồ tát thập địa chẳng khởi tưởng không bất không. Đối năm nhãn chẳng khởi tưởng không bất không, đối sáu thần thông cũng chẳng khởi tưởng không bất không.
Đối Phật mười lực chẳng khởi tưởng không bất không; đối bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối pháp vô vong thất chẳng khởi tưởng không bất không; đối tánh hằng trụ xả cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối nhất thiết trí chẳng khởi tưởng không bất không; đối đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối tất cả đà la ni môn chẳng khởi tưởng không bất không, đối tất cả tam ma địa môn cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối quả Dự lưu chẳng khởi tưởng không bất không; đối quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán cũng chẳng khởi tưởng không bất không. Đối Độc giác Bồ đề chẳng khởi tưởng không bất không. Đối tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát chẳng khởi tưởng không bất không. Đối chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng khởi tưởng không bất không. Đối pháp quá khứ chẳng khởi tưởng không bất không; đối pháp vị lai, hiện tại cũng chẳng khởi tưởng không bất không.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa, đem vô sở đắc làm phương tiện chẳng tác nghĩ này: Ta năng hành thi ơn cho kẻ thọ giả kia, đây vật đem bố thí và tánh ơn thí. Chẳng tác nghĩ này: Ta năng hộ giới, giới đây được hộ. Chẳng tác nghĩ này: Ta năng tu nhẫn, nhẫn đây được tu. Chẳng tác nghĩ này: Ta năng tinh tiến, đây được tinh tiến. Chẳng tác nghĩ này: Ta năng nhập định, định đây được nhập. Chẳng tác nghĩ này: Ta năng tu huệ, huệ đây được tu. Chẳng tác nghĩ này: Ta năng trồng phước, phước đây đã trồng và sẽ được quả. Chẳng tác nghĩ này: Ta năng vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh.Chẳng tác nghĩ này: Ta năng thành thục hữu tình. Chẳng tác nghĩ này: Ta năng nghiêm tịnh cõi Phật. Chẳng tác nghĩ này: Ta năng chứng được nhất thiết trí trí. Chẳng tác nghĩ này: Ta năng trụ không chứng pháp thực tánh. Chẳng tác nghĩ này: Ta năng tu tập các hạnh Bồ tát. Chẳng nghĩ tác này: Ta năng chứng đủ các công đức chư Phật.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát có phương tiện khéo léo, đem vô sở đắc làm phương tiện, khi hành Bát nhã Ba la mật đa thời không có tất cả phân biệt vọng tưởng chấp trước như thế thảy. Do vì khéo thông đạt nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không vậy. Xá Lợi Tử! Đấy gọi tên là Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa có phương tiện khéo léo, đem vô sở đắc làm phương tiện, không có tướng chấp trước.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích hỏi cụ thọ Thiện Hiện rằng: Thưa Đại đức! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân thảy trụ Bồ tát thừa, khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa sao là trước tướng?
Thiện Hiện đáp: Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân thảy trụ Bồ tát thừa, khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa không có phương tiện khéo kéo, đem hữu sở đắc làm phương tiện, khởi tâm tưởng trước: Khởi tưởng trước bố thí Ba la mật đa; khởi tưởng trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Khởi tưởng trước nội không; khởi tưởng trước ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Khởi tưởng trước chơn như; khởi tưởng trước pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Khởi tưởng trước khổ thánh đế, khởi tưởng trước tập diệt đạo thánh đế. Khởi tưởng trưóc bốn tĩnh lự; khởi tưởng trước bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Khởi tưởng trước tám giải thoát; khởi tưởng trước tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Khởi tưởng trước bốn niệm trụ; khởi tưởng trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Khởi tưởng trước không giải thoát môn; khởi tưởng trước vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.Khởi tưởng trước Bồ tát thập địa. Khởi tưởng trước năm nhãn, khởi tưởng trước sáu thần thông. Khởi tưởng trước Phật mười lực; khởi tưởng trước bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Khởi tưởng trước pháp vô vong thất, khởi tưởng trước tánh hằng trụ xả. Khởi tưởng trước nhất thiết trí; khởi tưởng trước đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Khởi tưởng trước tất cả đà la ni môn, khởi tưởng trước tất cả tam ma địa môn. Khởi tưởng trước quả Dự lưu; khởi tưởng trước quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Khởi tưởng trước Độc giác Bồ đề. Khởi tưởng trước tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Khởi tưởng trước chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Khởi tưởng trước các Bồ tát Ma ha tát. Khởi tưởng trước các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Khởi tưởng trước đã trồng các căn lành nơi Phật. Khởi tưởng trước đã trồng các căn lành hòa hợp như thế đem hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Kiều Thi Ca! Đấy gọi tên là các thiện nam tử, thiện nữ nhân thảy trụ Bồ tát thừa không có phương tiện khéo léo, đem sở hữu sở đắc làm phương tiện, khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa có trước tướng.
Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân thảy trụ Bồ tát thừa, do vì trước tưởng nên chẳng năng tu hành vô trước Bát nhã Ba la mật đa, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì chẳng phải bản tánh sắc khá năng hồi hướng, chẳng phải bản tánh thọ tưởng hành thức khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh nhãn xứ khá năng hồi hướng, chẳng phải bản tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh sắc xứ khá năng hồi hướng, chẳng phải bản tánh thanh hương vị xúc pháp xứ khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh nhãn giới khá năng hồi hướng; chẳng phải bản tánh sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh nhĩ giới khá năng hồi hướng; chẳng phải bản tánh thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh tỷ giới khá năng hồi hướng; chẳng phải bản tánh hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh thiệt giới khá năng hồi hướng; chẳng phải bản tánh vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh thân giới khá năng hồi hướng; chẳng phải bản tánh xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh ý giới khá năng hồi hướng; chẳng phải bản tánh pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh địa giới khá năng hồi hướng, chẳng phải bản tánh thủy hỏa phong không thức giới khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh vô minh khá năng hồi hướng; chẳng phải bản tánh hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não khá năng hồi hướng.
Kiều Thi Ca! Vi chẳng phải bản tánh bố thí Ba la mật đa khá năng hồi hướng; chẳng phải bản tánh tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa khá năng hồi hướng. Vi chẳng phải bản tánh nội không khá năng hồi hướng; chẳng phải bản tánh ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh chơn như khá năng hồi hướng; chẳng phải bản tánh pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh khổ thánh đế khá năng hồi hướng, chẳng phải bản tánh tập diệt đạo thánh đế hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh bốn tĩnh lự khá năng hồi hướng; chẳng phải bản tánh bốn vô lượng, bốn vô sắc định khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh tám giải thoát khá năng hồi hướng; chẳng phải bản tánh tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh bốn niệm trụ khá năng hồi hướng; chẳng phải bản tánh bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh không giải thoát môn khá năng hồi hướng; chẳng phải bản tánh vô tướng, vô nguyện giải thoát môn khá năng hồi hướng.Vì chẳng phải bản tánh Bồ tát thập địa khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh năm nhãn khá năng hồi hướng, chẳng phải bản tánh sáu thần thông khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh Phật mười lực khá năng hồi hướng; chẳng phải bản tánh bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh pháp vô vong thất khá năng hồi hướng, chẳng phải bản tánh tánh hằng trụ xả khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh nhất thiết tướng trí khá năng hồi hướng; chẳng phải bản tánh đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh tất cả đà la ni môn khá năng hồi hướng, chẳng phải tất cả tam ma địa môn khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh quả Dự lưu khá năng hồi hướng; chẳng phải bản tánh quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh Độc giác Bồ đề khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát khá năng hồi hướng. Vì chẳng phải bản tánh chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề khá năng hồi hướng.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề thị hiện dạy dẫn, khuyên gắng, khen mừng hữu tình kia ấy, nên đem ý như thật tướng mà thị hiện dạy dẫn, khuyên gắng , khen mừng. Lại nên thị hiện dạy dẫn, khuyên gắng, khen mừng như vầy, nghĩa là khi hành bố thí Ba la mật đa chẳng nên phân biệt ta năng ơn cho, hoặc khi hành tịnh giới Ba la mật đa chẳng nên phân biệt ta năng hộ giới, hoặc khi hành an nhẫn Ba la mật đa chẳng nên phân biệt ta năng tu nhẫn, hoặc khi hành tinh tiến Ba la mật đa chẳng nên phân biệt ta năng tinh tiến, hoặc khi hành tĩnh lự Ba la mật đa chẳng nên phân biệt ta năng vào định, hoặc khi hành bát nhã Ba la mật đa chẳng nên phân biệt ta năng tập huệ. Hoặc khi hành nội không chẳng nên phân biệt ta năng trụ nội không; hoặc khi hành ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghiã không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không chẳng nên phân biệt ta năng trụ ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không. Hoặc khi hành chơn như chẳng nên phân biệt ta năng trụ chơn như; hoặc khi hành pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư khônggiới, bất tư nghì giới chẳng nên phân biệt ta năng trụ pháp giới cho đến bất tư nghì giới. Hoặc khi hành khổ thánh đế chẳng nên phân biệt ta năng trụ khổ thánh đế; hoặc khi hành tập diệt đạo thánh đế chẳng nên phân biệt ta năng trụ tập diệt đạo thánh đế.
Hoặc khi hành bốn tĩnh lự chẳng nên phân biệt ta năng tu bốn tĩnh lự; hoặc khi hành bốn vô lượng, bốn vô sắc định chẳng nên phân biệt ta năng tu bốn vô lượng, bốn vô sắc định. hoặc khi hành tám giải thoát chẳng nên phân biệt ta năng tu tám giải thoát; hoặc khi hành tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ chẳng nên phân biệt ta năng tu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Hoặc khi hành bốn niệm trụ chẳng nên phân biệt ta năng tu bốn niêm trụ; hoặc khi hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi chẳng nên phân biệt ta năng tu bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi. Hoặc khi hành không giải thoát môn chẳng nên phân biệt ta năng tu không giải thoát môn; hoặc khi hành vô tướng, vô nguyện giải thoát môn chẳng nên phân biệt ta năng tu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Hoặc khi hành Bồ tát thập địa chẳng nên phân biệt ta năng tu Bồ tát thập địa. Hoặc khi hành năm nhãn chẳng nên phân biệt ta năng tu năm nhãn; hoặc khi hành sáu thần thông chẳng nên phân biệt ta năng tu sáu thần thông.
Hoặc khi hành Phật mười lực chẳng nên phân biệt ta năng tu Phật mười lực; hoặc khi hành bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng nên phân biệt ta năng tu bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc khi hành pháp vô vong thất chẳng nên phân biệt ta năng tu pháp vô vong thất; hoặc khi hành tánh hằng trụ xả chẳng nên phân biệt ta năng tu tánh hằng trụ xả. Hoặc khi hành nhất thiết trí chẳng nên phân biệt ta năng tu nhất thiết trí; hoặc khi hành đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng nên phân biệt ta năng tu đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Hoặc khi hành tất cả đà la ni môn chẳng nên phân biệt ta năng tu tất cả đà la ni môn; hoặc khi hành tất cả tam ma địa môn chẳng nên phân biệt ta năng tu tất cả tam ma địa môn.
Hoặc khi hành pháp tương tự quả Dự lưu chẳng nên phân biệt ta năng tu pháp tương tự quả Dự lưu; hoặc khi hành pháp tương tự quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán chẳng nên phân biệt ta năng tu pháp tương tự quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Hoặc khi hành pháp tương tự Độc giác Bồ đề chẳng nên phân biệt ta năng tu pháp tương tự Độc giác Bồ đề. Hoặc khi hành tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát chẳng nên phân biệt ta năng tu tát cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Hoặc khi hành chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng nên phân biệt ta năng tu chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Kiều Thi Ca! Các Bồ tát ma ha tát đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, nên thị hiện dạy dẫn, khuyên gắng, khen mừng loại hữu tình kia như thế. Nếu Bồ tát Ma ha tát đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, năng thị hiện dạy dẫn, khuyên gắng, khen mừng hữu tình kia được như thế ấy, thời đối tự mình không tổn, cũng chẳng tổn kia. Vì như các Đức Như Lai đã bằng lòng hứa khả thị hiên dạy dẫn, khuyên gắng, khen mừng các hữu tình vậy.
Kiều Thi Ca! Các Thiện nam tử, thiện nữ nhân thảy trụ Bồ tát thừa, nếu năng thị hiện dạy dẫn, khuyên gắng, khen mừng các loại hữu tình đến Bồ tát thừa, được như thế là bèn năng xa lìa được tất cả tưởng trước.
Bấy giờ, Thế Tôn khen cụ thọ Thiện Hiện rằng: Hay thay, hay thay! Như lời ngươi vừa nói. Nay ngươi khéo hay vì các Bồ tát thuyết tướng chấp trước. Thiện Hiện! Lại còn có bao nhiêu tướng chấp trước vi tế hơn khác nữa, Ta phải vì ngươi mà thuyết, ngươi lắng nghe suy nghĩ rất khéo. Thiện Hiện thưa: Dạ, dạ. Cúi xin Thế Tôn thuyết cho, chúng tôi muốn nghe.
Phật nói: Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân thảy trụ Bồ tát thừa muốn đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, nếu đối Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác lấy tướng nhớ nghĩ đều là chấp trước. Hoặc đối công đức vô trước của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ, vị lai, hiện tại từ sơ phát tâm cho đến pháp trụ có bao căn lành lấy tướng nhớ nghĩ. Đã nhớ nghĩ rồi, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Tất cả lấy tướng nhớ nghĩ như thế, đều gọi tên chấp trước.
Hoặc đối đệ tử tất cả của Như Lai và các hữu tình khác đều tu pháp lành, lấy tướng nhớ nghĩ hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Tất cả như thế cũng đều gọi tên chấp trước. Sở dĩ vì sao? Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có bao vô trước công đức thiện căn, chẳng nên lấy tướng mà nhớ nghĩ vậy. Đối đệ tử Phật và các hữư tình khác có bao pháp lành chẳng nên lấy tướng mà nhớ nghĩ vậy. Các lấy tướng ấy đều là hư vọng!
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đa như vậy rất là thẳm sâu? Phật nói: Như vậy, vì tất cả pháp bản tánh lìa vậy. Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đa như vậy đều nên lễ kính? Phật nói: Như vậy, vì công đức nhiều lắm vậy. Nhưng Bát nhã Ba la mật đa đây không tạo không tác, không có kẻ năng giác.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch thế tôn! Tánh tất cả pháp đều khó giác được? Phật nói: Như vậy, vì tất cả pháp nhất tánh phi nhị. Thiện Hiện! Phải biết các pháp nhất tánh tức là vô tánh, các pháp vô tánh tức là nhất tánh . Các pháp như vậy nhất tánh vô tánh, không tạo không tác. Nếu Bồ tát Ma ha tát năng biết được như thật các sở hữu pháp nhất tánh vô tánh, không tạo không tác, thời năng xa lìa đưọc tất cả chấp trước.
Cu thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đa nhưvậy khó giác trọn được? Phật nói: Như vậy, bởi Bát nhã Ba la mật đa đây không kẻ năng kiến, không kẻ năng văn, không kẻ năng giác, không kẻ năng tri, vì lìa tướng chứng vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể nghĩ bàn? Phật nói: Như vậy. Sở dĩ vì sao? Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem tâm biết tướng lìa tâm vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem sắc biết tướng lìa sắc vậy, chẳng thể đem thọ tưởng hành thức biết tướng lìa thọ tưởng hành thức vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem nhãn xứ biết tướng lìa nhãn xứ vậy, chẳng thể đem nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ biết tướng lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem sắc xứ biết tướng lìa sắc xứ vậy, chẳng thể đem thanh hương vị xúc pháp xứ biết tướng lìa thanh hương vị xúc pháp xứ vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem nhãn giới biết tướng lìa nhãn giới vậy; chẳng thể đem sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ biết tướng lìa sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem nhĩ giới biết tướng nhĩ giới vậy; chẳng thể đem thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ biết tướng lìa thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem tỷ giới biết tướng lìa tỷ giới vậy; chẳng thể đem hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ biết tướng lìa hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem thiệt giới biết tướng lìa thiệt giới vậy; Chẳng thể đem vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ biết tướng lìa vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem thân giới biết tướng lìa thân giới vậy; chẳng thể đem xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ biết tướng lìa xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem ý giới biết tướng lìa ý giới vậy; chẳng thể đem pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ biết tướng lìa pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vậy.
Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem địa giới biết tướng lìa địa giới vậy, chẳng thể đem thủy hỏa phong không thức giới biết tướng lìa thủy hỏa phong không thức giới vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem vô minh biết tướng lìa vô minh vậy; chẳng thể đem hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não biết tướng lìa hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem bố thí Ba la mật đa biết tướng lìa bố thí Ba la mật đa vậy; chẳng thể đem tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa biết tướng lìa tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem nội không biết tướng lìa nội không vậy; chẳng thể đem ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không biết tướng lìa ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không vậy.
Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem chơn như biết tướng lìa chơn như vậy; chẳng thể đem pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới biết tướng lìa pháp giới cho đến bất tư nghì giới vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem khổ thánh đế biết tướng lìa khổ thánh đế vậy, chẳng thể đem tập diệt đạo thánh đế biết tướng lìa tập diệt đạo thánh đế vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem bốn tĩnh lự biết tướng lìa bốn tĩnh lự vậy; chẳng thể đem bốn vô lượng, bốn vô sắc định biết tướng lìa bốn vô lượng, bốn vô sắc định vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem tám giải thoát biết tướng lìa tám giải thoát vậy; chẳng thể đem tám thắng xứ , chín thứ đệ định, mười biến xứ biết tướng lìa tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem bốn niệm trụ biết tướng lìa bốn niệm trụ vậy; chẳng thể đem bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi biết tướng lìa bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem không giải thoát môn biết tướng lìa không giải thoát môn vậy; chẳng thể đem vô tướng, vô nguyện giải thoát môn biết tướng lìa vô tướng, vô nguyện giải thoát môn vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem Bồ tát thập địa biết tướng lìa Bồ tát thập địa vậy. Bát nhã Ba la mật như vậy chẳng thể đem năm nhãn biết tướng lìa năm nhãn vậy, chẳng thể đem sáu thần thông biết tướng lìa sáu thần thông vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem Phật mười lực biết tướng lìa Phật mười lực như vậy; chẳng thể đem bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng biết tướng lìa bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vậy.
Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem pháp vô vong thất biết tướng lìa pháp vô vong thất vậy, chẳng thể đem tánh hằng trụ xả biết tướng lìa tánh hằng trụ xả vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem nhất thiết trí biết tướng lìa nhất thiết trí vậy; chẳng thể đem đạo tướng trí, nhất thiết trí biết tướng lìa đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem tất cả đà la ni môn biết tướng lìa tất cả đà la ni môn vậy, chẳng thể đem tất cả tam ma địa môn biết tướng lìa tất cả tam ma địa môn vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem quả Dự lưu biết tướng lìa quả Dự lưu vậy; chẳng thể đem quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán biết tướng lìa quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán biết tướng lìa quả Nhất lai, Bát hoàn, A la hán vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem Độc giác Bồ đề biết tướng lìa tướng Độc giác Bồ đề vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát biết tướng lìa tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát vậy. Bát nhã Ba la mật đa như vậy chẳng thể đem chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề biết tướng lìa chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề vậy.
Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiên lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đa như vậy không bị tạo tác? Phật nói: Như vậy, vì các tác giả chẳng khá được vậy.
Thiện Hiên! Sắc chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được, thọ tưởng hành thức chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được, thọ tưởng hành thức chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiện Hiện! Nhãn xứ chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiên Hiện! Sắc xứ chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được, thanh hương vị xúc pháp xứ chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiện Hiện! Nhãn giới chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiên Hiện! Nhĩ giới chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiện Hiện! Tỷ giới chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được; huơng giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiện Hiện! Thiệt giới chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được.Thiện Hiện! Thân giới chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được; xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiện Hiện! Ý giới chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được; pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được.
Thiện Hiện! Địa giới chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được, thủy hỏa phong không thức giới chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiện Hiện! Vô minh chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiện Hiện! Bố thí Ba la mật đa chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được.
Thiện Hiện! Nội không chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được; ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được.
Thiện Hiên! Chơn như chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được; pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được.
Thiện Hiện! Bốn tĩnh lự chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được; bốn vô lượng, bốn vô sắc định chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiện Hiện! Tám giải thoát chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được.
Thiện Hiện! Bốn niệm trụ chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được.
Thiện Hiện! Không giải thoát môn chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiện Hiện! Bồ tát thập địa chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiện Hiện! Năm nhãn chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được, sáu thần thông chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được.
Thiện Hiện! Phật mười lực chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiện Hiện! Pháp vô vong thất chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được, tánh hằng trụ xả chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiện Hiện! Nhất thiết trí chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiện Hiện! Tất cả đà la ni môn chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được, tất cả tam ma địa môn chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được.
Thiện Hiện! Quả Dự lưu chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được; quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiện Hiện! Độc giác Bồ đề chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiện Hiện! Tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được. Thiện Hiện! Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chẳng khá được nên tác giả chẳng khá được.
Thiện Hiện! Do vì các tác giả và sắc thảy các pháp chẳng khá được, nên Bát nhã Ba la mật đa như vậy không bị tạo tác.