Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

76. Phẩm “Pháp Tánh Vô Động" (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

03/08/202012:10(Xem: 7948)
76. Phẩm “Pháp Tánh Vô Động" (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

76. Pháp Tánh Vô Động QT

 

PHẨM “PHÁP TÁNH VÔ ĐỘNG"


Phần sau quyển 397, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Như Hóa” quyển thứ 29, MHBNBLM)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước






 

Gợi ý:

Như trên đã nói để chấm dứt pháp hội thứ I, Phật thuyết các pháp chẳng thật, như huyễn hóa như mộng, các pháp vô tánh, vô tướng, pháp tánh rỗng không, để đưa đến kết luận là nếu có cái thấy biết như vậy thì được tâm bình đẳng, bình đẳng đó là thanh tịnh.

Nếu tri nhận như thế thì không còn chấp ngã, ngã sở thì tâm mới được như như bất động. Tâm như như bất động thì pháp tánh cũng vô động. Như vậy, trong ngoài đều được an nhiên tịch lặng. Nên phẩm này Phật thuyết “Pháp Tánh Vô Động”, để chúng hữu tình tâm hành dứt, bặt hý luận mà được thanh tịnh!

 

Tóm lược:

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tánh bình đẳng của các pháp đều không, không năng tác sở tác, làm sao các đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã thi thiết bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, làm lợi ích chúng hữu tình?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, pháp tánh bình đẳng của tất cả pháp, đều là bản tánh không, mà bản tánh không này đối với pháp hữu, pháp vô chẳng năng tác, sở tác. (Q. 397, ĐBN)

Này Thiện Hiện! Nếu chúng hữu tình tự biết các pháp tánh bình đẳng đều không, thời Như Lai hay Bồ Tát chẳng hiện thần thông làm các việc hi hữu, đó là trong bản tánh không của các pháp, vì không động nên khiến hữu tình xa lìa các thứ vọng tưởng điên đảo, an trụ các pháp không, giải thoát khổ sanh tử; cũng khiến các hữu tình xa lìa tưởng ngã, tưởng hữu tình, tưởng dòng sanh mạng, tưởng khả năng sanh khởi… cho tới tưởng cái biết, cái thấy; cũng khiến xa lìa tưởng sắc, tưởng thọ, tưởng, hành, thức; cũng khiến xa lìa tưởng 12 xứ, 18 giới; cũng khiến xa lìa tưởng nhân duyên, tưởng đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; cũng khiến xa lìa tưởng các pháp từ duyên sanh ra; cũng khiến xa lìa tưởng 12 duyên khởi; cũng khiến xa lìa tưởng pháp thế gian xuất thế gian, tưởng pháp hữu lậu vô lậu, tưởng pháp hữu vi vô vi, an trụ cảnh giới vô vi, giải thoát khổ sanh tử.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do không nào mà nói các pháp là không?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Do tưởng không nên nói các pháp là không.

Lại nữa, Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Nếu thân biến hóa lại hóa làm ra các việc thì việc này thật sự chẳng không chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Các việc biến hóa hoàn toàn không có thật sự, tất cả đều không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Biến hóa và không, hai pháp như thế chẳng phải hợp, chẳng phải tan; hai pháp đều không, nên chẳng phân biệt là không hay hóa. Vì sao? Vì chẳng phải trong rỗng không, có không có hóa, hai việc có thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Không có sắc nào mà chẳng phải là hóa, không có thọ, tưởng, hành, thức nào mà chẳng phải là hóa. Các sự biến hóa ấy đều là không. Không có 12 xứ 18 giới nào mà chẳng phải là hóa. Các sự biến hóa ấy đều là không. Không có tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí v.v… mà chẳng phải là hóa. Các sự biến hóa ấy đều là không. Không có Bồ Tát hạnh nào mà chẳng phải là hóa, không có quả vị Giác ngộ tối cao nào mà chẳng phải là hóa. Các sự biến hóa ấy đều là không.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các uẩn, xứ, giới, duyên khởi, duyên sanh, các chi duyên khởi v.v... thuộc thế gian đều là hóa. Các Ba la mật, hoặc ba mươi bảy Pháp phần Bồ đề, hoặc ba môn giải thoát, hoặc 18 pháp không, hoặc các Thánh đế, hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, hoặc tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, hoặc pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa, hoặc mười địa Bồ Tát, hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông, hoặc Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, hoặc các quả vị do pháp ấy mà đạt được, hoặc các loại Bổ đặc già la nương vào pháp ấy mà an lập cũng đều là hóa hết sao?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tất cả pháp thế gian và xuất thế gian đều như biến hóa, nhưng trong đó, có pháp là sở hóa của Thanh văn, có pháp là sở hóa của Độc giác, có pháp là sở hóa của Bồ Tát, có pháp là sở hóa của Như Lai, có pháp là sở hóa của phiền não, có pháp là sở hóa của thiện pháp.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này mà nói tất cả pháp đều như biến hóa như nhau không sai khác.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có quả đoạn trừ, đó là quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc bậc Độc giác, hoặc bậc Như Lai, vĩnh viễn đoạn trừ tập khí phiền não tương tục, cũng đâu phải là hóa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các pháp nếu cùng hai tướng sanh diệt hợp nhau, thì đều là hóa. Nếu pháp chẳng cùng với tướng sanh diệt hợp nhau, pháp ấy chẳng phải hóa.

- Bạch Thế Tôn! Pháp nào là pháp chẳng phải là hóa?

- Này Thiện Hiện! Pháp chẳng hư dối tức là Niết bàn. Pháp này chẳng hợp với tướng sanh diệt, vì vậy chẳng phải là hóa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Như Thế Tôn đã nói, pháp tánh bình đẳng, tất cả đều không, không kẻ năng động, không hai khá được, không có chút pháp chẳng tự tánh không. Vì sao Niết bàn khá nói chẳng phải hóa?

- Này Thiện Hiện! Không có bất cứ một pháp nào dù nhỏ nhặt bằng đầu mảy lông mà tự tánh chẳng không, tự tánh không này không do ai làm ra, tánh nó thường không, đây tức là Niết bàn. Vì không ai làm ra, tự tánh thường không, chẳng lúc nào chẳng không, nên mới gọi là Niết bàn. Niết bàn là vô sanh, vô diệt, phi hóa.

 

Lược giải:

 

Phẩm này một lần nữa đề cập “tất cả pháp là hóa, bản tánh không, tự tướng không”. Phật bảo: Không có bất cứ một pháp nào dù nhỏ nhiệm bằng đầu mảy lông mà tự tánh chẳng không, tự tánh không này không do ai làm ra, tánh nó thường không, đây tức là Niết bàn. Vì không ai làm ra, tự tánh thường không, chẳng lúc nào chẳng không, nên mới gọi là Niết bàn. Niết bàn là vô sanh, vô diệt, phi hóa”. (Q.397, ĐBN)

 

Tất cả chư Phật biết tất cả pháp đều không, nên thân tâm không dao động. Do đó, chư Phật có thể chuyển các pháp mà không bị các pháp chuyển.

Quyển 576, phần “Na Già Thất Lợi”, ĐBN, Bồ Tát Long Cát Tường bảo: “Thiện Tử phải biết! Nếu những ai thân tâm dao động thì thấy đại địa… cũng dao động. Chư Phật Thế Tôn, Bồ Tát Bất thối chuyển, Độc giác và A la hán thân tâm an tĩnh, xa lìa mọi dao động; ở trong các pháp không thấy, không biết có động, có chuyển, có nghiêng, có lay. Vì sao? Vì các Ngài thường an trụ pháp không động, không chuyển, không nghiêng, không lay, nghĩa là chứng tướng Không, Vô tướng, Vô nguyện, vắng lặng, pháp xa lìa, Bản tánh không. Do trụ pháp này nên thân tâm không động”.

Suốt đại phẩm Bát Nhã từ trên xuống dưới, Phật lặp đi lặp lại: Các pháp như huyễn như hóa, không thật, giả có, chúng chỉ do duyên hợp, không có tự tánh nên bảo là không. Các pháp là như tướng. Quán tưởng như thế lâu ngày thì tâm sẽ được bình đẳng. Tâm bình đẳng tức bất động, bất động là không nghiêng, không chuyển, không lay nên bảo là thanh tịnh. Tu hành tám mươi bốn vạn pháp môn rốt lại chỉ cốt muốn được thanh tịnh. Thanh tịnh đó là Niết bàn. Niết bàn là vô sanh, vô diệt, phi hóa.

 

Kết luận cho 3 phẩm:

(“Vô Tánh Tự Tánh”, “Thắng Nghĩa Du Già”

và  “Pháp Tánh Vô Động”)

 

Phẩm “Vô Tánh Tự Tánh” được thuyết ở cuối quyển 395 đến đầu quyển 396. Phẩm “Thắng Nghĩa Du Già” hay còn gọi là phẩm “Bình Đẳng”, được thuyết ở cuối quyển 396 đến cuối quyển 397. Phẩm “Pháp Tánh Vô Động” được thuyết ở cuối quyển 397. Thật sự ba phẩm này diễn tả cùng một ý, vì có liên hệ hỗ tương nhau: Thấy tất cả pháp là không hay bản tánh không, thấy tất cả pháp tự tướng không, lấy vô tánh làm tự tánh thì được tâm bình đẳng bất động nên nói là thanh tịnh. Thanh tịnh này chính là Niết bàn. Niết bàn còn nói là an nhiên tịch tịnh.

Ba phẩm này có thể xem là kết luận của Hội thứ I nói riêng và Đại Bát Nhã nói chung. Bố cục này hết sức chặt chẽ dường như ở trong cùng một tiến trình có tánh cách vừa diễn dịch vừa qui nạp trong phương thức suy luận thường tục. Nhưng chả có gì gọi là suy luận ở đây, pháp nhĩ tự nhiên dù chư Phật có xuất hiện hay không, pháp thế gian và xuất thế gian vốn dĩ là như vậy. Kinh nói: “Thật tánh các pháp đều bất động”.

 

1. Phẩm “Vô Tánh Tự Tánh”:

 

1- Trong phẩm “Vô Tánh Tự Tánh”, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- “Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy, đối với tất cả pháp quán sát thật tướng như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Quán thật tướng các pháp là đối với tất cả pháp đều quán là không.

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy, đối với tất cả pháp quán pháp nào là không?

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, đối với tất cả pháp quán tự tướng không.

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, dùng Tỳ bà xá na quán tất cả pháp tự tướng không, hoàn toàn không thấy có tự tánh có thể an trụ trong ấy mà chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì quả vị Giác ngộ và tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh; vô tánh như thế chẳng phải chư Phật tạo ra, chẳng phải Độc giác tạo ra, chẳng phải Bồ Tát tạo ra, chẳng phải chư Thanh văn hướng quả tạo ra, chỉ vì hữu tình đối với tất cả pháp chẳng biết chẳng thấy như thật đều không. Do nhân duyên này, các đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã, phương tiện thiện xảo, vì hữu tình như thật tuyên thuyết, khiến lìa chấp trước, thoát khổ sanh tử”.

 

2- Thay vì đối với tất cả pháp quán tự tướng là không” thì phẩm “Hành Tướng” quyển thứ 03, Kinh MHBNBLMĐ, lại quan niệm: “Tự tánh của tất cả pháp chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh. Do nhân duyên này, nên nếu đại Bồ Tát, khi tu hành Bát Nhã, đối với tất cả pháp, hoặc chấp thủ cái có, hoặc chấp thủ cái chẳng có, hoặc chấp thủ cái cũng có, cũng chẳng có, hoặc chấp thủ cái chẳng có chẳng phải chẳng có, hoặc chấp thủ cái chẳng chấp thủ, thì chẳng phải là tu hành Bát Nhã. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không có tự tánh, nên chẳng thể chấp thủ”.

Vậy, tu hành Bát Nhã muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao thì phải quán tất cả pháp đều không, không thể nắm bắt, lấy vô tánh làm tự tánh. Vì vậy, Kinh nói: “Vô tánh ấy là Vô Thượng Bồ Đề”.

 

2. Phẩm “Thắng Nghĩa Du Già”:

 

Còn gọi là phẩm “Bình Đẳng” cũng nói: “tất cả pháp đều dùng vô tánh làm tự tánh” và “trong rỗng không, tất cả tướng sai khác đều chẳng thể nắm bắt được”.

Nên, quyển thứ 29, Kinh MHBNBLMĐ nói: “Tướng bình đẳng của các pháp hữu vi, vô vi ấy tức là đệ nhất nghĩa. Lúc hành Bát nhã Ba la mật, đại Bồ Tát ở trong đệ nhất nghĩa chẳng động mà làm lợi ích cho chúng hữu tình”.

Phật bảo Thiện Hiện: “Ta nói tánh bình đẳng của tất cả pháp là pháp thanh tịnh”.

 

3. Phẩm “Pháp Tánh Vô Động”.

 

Kinh cũng lặp lại các pháp là không thật, không có tự tánh nên gọi là vô tánh. Người thấy các pháp là không, vô tánh thì được tâm bất động. Nếu thấy pháp mà phân biệt pháp thì bị pháp chuyển. Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy: Trần cảnh có lớn có nhỏ, cái “thấy” không có lớn nhỏ, nên bảo ông A Nan:

- “Này A Nan, tất cả chúng sanh từ vô thủy đến giờ vì mê mình (tâm) làm vật, bỏ mất chơn tâm của mình, bị cảnh vật xoay chuyển nên thấy có lớn nhỏ, rộng hẹp, tốt xấu v.v... Nếu ai xoay chuyển được cảnh vật, thân tâm sáng suốt viên mãn, thì đồng với chư Phật. Lúc bấy giờ không rời đạo tràng mà trên đầu một mảy lông, có thể chứa đựng mười phương thế giới”.

Khi thấy cảnh vật phân biệt lớn nhỏ, tốt xấu... Đó là chấp tâm, “mê mình làm vật”, bị vật chuyển nên nói là mất tâm. Khi tâm không còn vọng động nữa và trở về với cái an nhiên tịch lặng, thì cảnh vật không còn lăng xăng níu kéo nữa, tâm được như như bất động. Lúc bấy giờ, một sợi lông hay mười phương thế giới cũng đều là chân tâm. Đã đồng là chân tâm cả, thì không còn thấy thế giới là lớn hay sợi lông là nhỏ mà thấy bình đẳng (đồng một thể tánh), nên nói “trên đầu một mảy lông, có thể chứa đựng mười phương thế giới”.

“Mưa ngoài trời cũng như mưa trong lòng”. Một câu nói thật thi vị, ướt át: Nó diễn tả một cách sống động cảnh một người trần mắt thịt như chúng ta, nhìn mưa rơi ngoài trời mà lòng thổn thức đau buồn chẳng khác nào như mưa rơi trong lòng. Đó là người đầy tâm sự, nên bị cảnh vật chuyển như thi hào Nguyễn Du nói: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”. Nhưng lại có câu “Vào cao lâu, tửu điếm như ngồi tại đạo tràng” (Dâm phòng tửu tứ vô phi thanh tịnh đạo tràng). Đó là tâm như như bất động dù trước các sự cám dỗ của ngũ dục lục trần, của bát phong(1) hay của tất cả thị phi nhân ngã khác. Điều đó có nghĩa là vật không chuyển được tâm. Vật không chuyển được tâm thì trái lại tâm có thể chuyển được vật. Nên ngay lúc ấy có thể... “dùng một sợi lông buộc núi Tô mê lô, núi Luân vi, các núi nhỏ khác và vạn vật trong tam thiên đại thiên thế giới, ném qua vô lượng, vô số, vô biên thế giới phương khác, mà không tổn hại các loài hữu tình.”

Vì vậy, dong ruỗi bên ngoài, dao động bên trong, nên nói là mờ mịt. Đó là chi mạc vô minh. Lúc nào cũng rõ ràng thường biết, làm chủ được thân tâm, trong ngoài bất động thì được cái diệu minh chân tánh. Yếu chỉ tu hành chỉ có thế!

Thích nghĩa cho phần lược giải này:

(1). Bát phong là được, mất, khen, chê, vinh, nhục, khổ, vui./.

 

---o0o---

 

 


 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2590)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5764)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 113043)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5925)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5964)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6536)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12304)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8474)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14691)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25112)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567