Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

55. Phẩm “Học Phương Tiện Xảo” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

12/07/202009:31(Xem: 8691)
55. Phẩm “Học Phương Tiện Xảo” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

 
55_Pham Hoc Phuong Tien Xao


TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 


PHẨM “HỌC PHƯƠNG TIỆN XẢO”

Quyển 337 đến phần đầu quyển 341, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Ma Sầu” và phẩm “Đẳng Học”,quyển thứ 21, MHBNBLM)

 

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le




 

Tóm lược:

 

1.“Ma sầu”(1)

 

Đầu Q.337, phẩm “Học Phương Tiện Xảo”, Hội thứ I, ĐBN (Tương đương phẩm “Ma Sầu” quyển thứ 21, MHBNBLMĐ)

 

Bát Nhã như thế vô cùng sâu xa, khó thấy, khó biết, chẳng thể suy tầm, vượt cảnh suy tầm. Đó là sở chứng của bậc trí tuệ sâu sắc, rốt ráo xa lìa tất cả phân biệt mới có thể đạt được. Nếu các hữu tình đối với Kinh Bát nhã Ba la mật sâu xa nầy, thường lắng nghe, thọ trì đọc tụng, rốt ráo thông lợi, như lý tư duy, y giáo phụng hành, vì người giảng nói mà chẳng xen lẫn các tâm và tâm sở khác thì nên biết, các hữu tình ấy quyết định thành tựu thiện căn to lớn.

Giả sử tất cả hữu tình ở châu Thiệm bộ thành tựu công đức nhờ tu thập thiện đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông v.v... Lại có thiện nam thiện nữ đối với Kinh điển Bát Nhã sâu xa này, thường ưa lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, như lý tư duy, y giáo phụng hành, vì người giảng nói thì công đức đạt được của thiện nam hay thiện nữ ấy, đối với công đức đã thành tựu của các hữu tình trong châu Thiệm bộ nói trên, trăm ngàn lần hơn, trăm ức lần hơn, trăm triệu lần hơn, kể cả tính đếm, thí dụ.

Nếu có thể so sánh thì nên biết công đức trí tuệ của thiện nam thiện nữ ấy, chẳng những hơn các loài hữu tình trong châu Thiệm bộ thành tựu mười thiện nghiệp đạo v.v… mà còn hơn tất cả trời, người, A tu la, hơn cả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác; hơn cả Bồ Tát xa lìa Bát Nhã và phương tiện thiện xảo tu hành lục Ba la mật. Vì sao? Vì thiện nam thiện nữ ấy mau chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, lợi lạc cho vô lượng hữu tình.

Công đức trí tuệ của thiện nam thiện nữ ấy, cũng hơn đại Bồ Tát xa lìa Bát Nhã và phương tiện thiện xảo, an trụ 18 pháp không; an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác v.v…; an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo; tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… Nên biết, công đức trí tuệ của thiện nam thiện nữ ấy, cũng hơn cả Bồ Tát xa lìa Bát Nhã và phương tiện thiện xảo tu Bồ Tát hạnh hay tu quả vị Vô Thượng Bồ đề. Vì sao? Vì thiện nam thiện nữ ấy mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao, lợi lạc vô lượng hữu tình.

Thiện nam thiện nữ ấy tức là đại Bồ Tát, có khả năng tiếp nối giống Phật, không để dứt diệt. Đại Bồ Tát ấy như thuyết tu hành Bát Nhã, nên chẳng bao lâu sẽ ngồi tòa Bồ đề, hàng phục ma quân, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân nhiệm mầu, cứu khổ sanh tử to lớn cho tất cả hữu tình.

Đại Bồ Tát ấy như thuyết tu hành Bát nhã Ba la mật, thường học pháp nên học của các chúng đại Bồ Tát nên được các Thiên vương, Thiên đế ở 25 cõi trời Ba mươi, Dạ ma, Đổ sử đa, Lạc biến hóa, Tha hoa tự tại, trời Phạm chúng, Phạm phụ, Phạm hội, trời Quang, trời Thiểu Quang, trời Vô lượng quang, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến… thống lãnh binh tướng đi đến chỗ vị ấy, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, và nói: Đại sĩ hay lắm! Nên siêng năng tinh tấn học các pháp nên học của chúng đại Bồ Tát, chớ học hạnh Thanh văn, Độc giác. Nếu học như vậy thì sẽ mau an tọa tòa Bồ đề mầu nhiệm, chóng chứng quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân, độ vô lượng chúng sanh.

Nên biết, vì Đại Bồ Tát ấy như thuyết tu hành Bát Nhã, nên tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đại Bồ Tát cùng các trời, rồng, A tu la v.v... thường theo hộ niệm. Do nhân duyên nầy tất cả hiểm nạn, bệnh tật trong thế gian đều chẳng xâm hại Bồ Tát ấy được. Đại Bồ Tát ấy như thuyết tu hành Bát Nhã sâu xa, nên đạt được vô lượng, vô biên công đức đời hiện tại, cũng như vị lai.

 

Kinh chia Bồ Tát làm hai hạng: Một hạng dễ bị chúng ma khuynh đảo và một hạng không thể bị ác ma nhiễu loạn được:

Nếu Bồ Tát nào đời trước nghe Bát Nhã chẳng tin, chẳng hiểu, đâm do dự, nghi hoặc rồi sanh tâm phỉ báng, thì Bồ Tát ấy khi tu hành Bát Nhã liền bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Bồ Tát nào đời trước nghe Bát Nhã tâm tin hiểu sâu sắc, chẳng sanh phỉ báng, thì Đại Bồ Tát ấy khi tu hành Bát Nhã chẳng bị ác ma nhiễu loạn.

Nếu Bồ Tát xa lìa thiện hữu tri thức, lại bị các ác hữu chi phối, chẳng nghe, chẳng tin Bát Nhã; do chẳng nghe, chẳng tin nên chẳng hiểu; vì chẳng hiểu nên chẳng có thể tu tập; vì chẳng thể tu tập nên chẳng thể thật chứng Bát nhã Ba la mật thì Bồ Tát ấy, khi tu hành Bát Nhã liền bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Bồ Tát gần gũi thiện hữu, chẳng bị ác hữu ràng buộc, được nghe Bát Nhã sâu xa, do được nghe nên có thể hiểu rõ; do hiểu rõ nên thường tu tập; do thường tu tập nên thật chứng Bát Nhã thì Bồ Tát ấy, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, không bị ác ma nhiễu loạn.

Nếu Đại Bồ Tát xa lìa Bát Nhã, học tập, khen ngợi các pháp tạp nhiễm thì Bồ Tát ấy, khi tu hành Bát Nhã liền bị ác ma nhiễu loạn. Còn nếu Bồ Tát nào gần gũi Bát Nhã chẳng thâu nạp, chẳng khen ngợi pháp tạp nhiễm thì Bồ Tát ấy, khi tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa, chẳng bị ác ma nhiễu loạn.

Nếu Bồ Tát ỷ lại vào danh vị được nhiều người biết hay ỷ lại vào thiện căn công đức của mình, tự khen mình chê người, khinh miệt các Bồ Tát khác. Do tăng thượng mạn, khinh miệt chê bai như vậy mà sanh nhiều phiền não nên dễ bị ác ma khuyến dụ, khuynh đảo, nhiễu loạn. Trái lại, nếu Bồ Tát chẳng ỷ lại vào thiện căn công đức của mình, thường tinh tấn tu các pháp lành nhưng chẳng chấp trước tướng của các pháp lành, thì nên biết Bồ Tát ấy, khi tu hành Bát nhã Ba la mật sâu xa, chẳng bị ác ma khuynh đảo, nhiễu loạn.

Nếu Bồ Tát cùng với người cầu Thanh văn, Độc giác thừa, Bồ Tát thừa hay Phật thừa hủy nhục, tranh cãi, phỉ báng nhau thì biết đó là những người xa lìa chánh giác, tiến gần địa ngục, bàng sanh hay quỷ giới. Bọn vị này trước sau gì cũng trở thành đồng đảng với ma, nên bọn ma vui mừng. Trái lại, nếu Bồ Tát nào không cùng với thiện nam thiện nữ cầu quả Tam thừa hủy nhục, tranh cãi, phỉ báng nhau, lại nhắc nhở nhau siêng tu thiện pháp, để mau chứng đắc Nhất thiết trí, thì nên biết, các Bồ Tát ấy khi tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng bị ác ma nhiễu loạn.

Một khi bị ác ma khuynh đảo, khởi tội rồi thì phải bị lưu chuyển nhiều đời nhiều kiếp, nếu không biết phát lồ sám hối sẽ không có cơ hội xuất tội. Bằng ngược lại, nếu hồi tâm, tu Bồ Tát hạnh chân thật thì cũng có cơ hội để xuất tội bù lại.

Nói tóm lại, Bồ Tát tu chánh hạnh, chẳng lìa Bát Nhã, sớm chứng Vô Thượng Chánh giác, thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, quay xe diệu pháp độ chúng hữu tình được giác ngộ như mình. Do đó, thiện đạo càng ngày càng tăng trưởng, ác đạo ngày càng giảm đi, ác ma và bè lũ hết đất dụng võ, trở nên sầu khổ, giãy chết như kẻ trúng phải tên.

 

2. “Đẳng học"

 

Phẩm “Học Phương Tiện Xảo” từ Q.338 - Q.341, Hội thứ I, ĐBN

 (Tương đương với phẩm “Đẳng Học”

quyển thứ 21, MHBNBLMĐ).

 

Các vị đồng tu trên nguyên tắc phải kính trọng lẫn nhau, coi nhau như thiện tri thức, coi nhau như bạn đồng hội, như kẻ đồng thuyền. Chỗ học, thời gian học và pháp học của chúng ta và vị ấy, tất cả đều không khác. Các vị ấy phải học lục Ba la mật, ta cũng phải học; các vị ấy cần phải học 18 pháp không, phải học chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v…, ta cũng phải học; các vị ấy phải học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, ta cũng phải học; các vị ấy phải học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo, ta cũng phải học; các vị vị ấy phải học tam giải thoát môn, ta cũng phải học; các vị ấy phải học Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí, ta cũng phải học như thế. Các vị ấy vì chúng sanh nói đạo Bồ đề, tức là bạn lành chơn thật của ta, cũng là thầy ta. Nếu các vị ấy tạp loạn, điên đảo xa lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí, thì ta chẳng cùng học với các vị ấy. Trái lại, nếu các vị ấy lìa tạp loạn, điên đảo chẳng rời tác ý tương ưng Nhất thiết trí, thì ta luôn luôn cùng học. Nếu các vị ấy luôn luôn học như thế, thì tư lương Bồ đề mau viên mãn. Vì sao? Vì học như thế thì gọi là đẳng học.

Vì vậy, Kinh nói các pháp nội không, ngoại không, nội ngoại không, hữu vi không, vô vi không, thắng nghĩa không, tự tướng không, tự tánh không v.v…cho đến pháp không không tánh tự tánh là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Các đại Bồ Tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là đẳng học. Do cái học bình đẳng đó, nên mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao.

Sắc và tự tánh không của sắc là tánh bình đẳng của Bồ Tát; thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh không của thọ, tưởng, hành, thức là tánh bình đẳng của Bồ Tát. Các đại Bồ Tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là đẳng học. Do cái học bình đẳng đó, nên mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao. 12 xứ và tự tánh không của 12 xứ; 18 giới và tự tánh không của 18 giới là tánh bình đẳng của Bồ Tát... cho đến tất cả pháp Phật và tự tánh không của tất cả pháp Phật là tánh bình đẳng của Bồ Tát. Các đại Bồ Tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là đẳng học. Do cái học bình đẳng đó, nên mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Này Thiện Hiện! Như ông đã hỏi là, nếu đại Bồ Tát vì sự tận của sắc mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Nếu đại Bồ Tát vì sự xa lìa của sắc mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Vì sự xa lìa của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Nếu đại Bồ Tát vì sự diệt của sắc mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Nếu đại Bồ Tát vì sự vô sanh của sắc mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Nếu đại Bồ Tát vì sự vô diệt của sắc mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Nếu đại Bồ Tát vì bản lai tịch tịnh(2) của sắc mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tịnh của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Nếu đại Bồ Tát vì tự tánh Niết bàn của sắc mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết bàn của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học Nhất thiết trí chăng? Thì này Thiện Hiện! Theo ý ông? Chân như của sắc có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Theo ý ông? Chân như của thọ, tưởng, hành, thức có tận, diệt, đoạn chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát đối với chân như học như thế là học Nhất thiết trí.

Này Thiện Hiện! Nên biết, chân như không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng(3). Nếu đại Bồ Tát đối với chân như, học như thế là học Nhất thiết trí”. (Q.339, ĐBN)

Không những chân như của ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí v.v… mà cả đến chân như của quả vị Giác ngộ tối cao không tận, không diệt, không đoạn, chẳng thể tác chứng. Nếu đại Bồ Tát đối với chân như học như thế là học Nhất thiết trí. (Q.340, ĐBN)

Nếu đại Bồ Tát khi học như thế là học bố thí, là học tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã chính là học Nhất thiết trí. Nếu đại Bồ Tát khi học như thế là học pháp không nội, là học pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không v.v… cho đến pháp không không tánh tự tánh. Nếu đại Bồ Tát khi học như thế là học pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh, chính là học Nhất thiết trí. Nếu đại Bồ Tát khi học như thế là học chơn như, là học pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v… Nếu đại Bồ Tát học chơn như, pháp giới cho đến thật tế v.v… chính là học Nhất thiết trí. Nói tóm lại, nếu đại Bồ Tát học tất cả pháp Phật chính là học Nhất thiết trí.

Do đại Bồ Tát khi học như thế là đạt đến chỗ rốt ráo viên mãn của tất cả sự học. Nếu đại Bồ Tát học như thế, thì tất cả thiên ma và các ngoại đạo không thể phá hoại. Nếu đại Bồ Tát học như thế, thì mau đạt đến địa vị Bất thối chuyển. Nếu đại Bồ Tát học như thế là tự tu hành chỗ nên tu hành của tổ phụ tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nếu đại Bồ Tát học như thế, thì đối với pháp năng hộ không bị chuyển theo điên đảo. Nếu đại Bồ Tát học như thế thì có khả năng tu hành pháp thích ứng để xa lìa hôn ám. Nếu đại Bồ Tát học như thế là học pháp nghiêm tịnh cõi Phật. Nếu đại Bồ Tát học như thế là học pháp thành thục hữu tình. Nếu đại Bồ Tát học như thế, thì có khả năng nghiêm tịnh cõi Phật, có khả năng thành thục hữu tình. Nếu đại Bồ Tát học như thế, thì có khả năng phát khởi đại từ, đại bi thương yêu tất cả. Nếu đại Bồ Tát học như thế, là học ba lần chuyển mười hai hành pháp luân vi diệu(4). Nếu đại Bồ Tát học như thế, là học độ thoát tất cả hữu tình đưa vào cảnh giới Niết bàn tuyệt đối. Nếu đại Bồ Tát học như thế, là học diệu hạnh không đoạn giống Phật. Nếu đại Bồ Tát học như thế, là học chư Phật mở cửa cam lồ cho loài hữu tình. Nếu đại Bồ Tát học như thế, là học an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình trụ ở pháp Ba thừa. Nếu đại Bồ Tát học như thế, là học thị hiện cảnh giới chơn vô vi, rốt ráo, tịch diệt của tất cả hữu tình, là chân tu Nhất thiết trí. Nếu đại Bồ Tát học như thế, thì có khả năng thật sự cứu vớt sanh, lão, bệnh, tử của tất cả hữu tình, làm cho họ siêng năng tu học điều nên tu học. Việc học như thế thì hữu tình hạ liệt không có thể học được.

Lại nữa, nếu đại Bồ Tát học như thế, quyết định chẳng đọa trở lại địa ngục, bàng sanh, quỷ giới. Nếu đại Bồ Tát học như thế, quyết định chẳng sanh dòng hạ liệt ở chốn biên địa ác kiến. Nếu đại Bồ Tát học như thế, quyết định chẳng sanh vào nhà hạ tiện, vào nhà làm nghề khiêng xác chết và các nhà bần cùng, ti tiện, chẳng biết phép tắc. Nếu đại Bồ Tát học như thế, chẳng bao giờ bị đui mù, câm điếc, ngọng nghịu, cùi cụt, căn chi thiếu sót, lưng gù, điên cuồng và bao nhiêu bệnh ung nhọt nguy hiểm khác. Nếu đại Bồ Tát học như thế, thì đời đời thường được quyến thuộc đông đảo, hình mạo đẹp đẽ, lời nói oai nghiêm, mọi người kính mến. Nếu đại Bồ Tát học như thế, thì đời đời sanh ở chốn lành xa lìa giết hại sanh mạng, xa lìa việc không cho mà lấy, xa lìa dâm dục, tà hạnh, xa lìa lời nói hư dối, xa lìa lời nói thô ác, xa lìa lời nói ly gián, xa lìa lời nói hỗn tạp, cũng xa lìa tham dục, sân nhuế, tà kiến. Nếu đại Bồ Tát học như thế, đời đời sanh vào chốn chẳng dùng tà pháp để sanh sống, chẳng bao giờ dung túng tà pháp hư dối, cũng chẳng chấp nhận hữu tình phá giới, ác kiến hủy báng chánh pháp. Nếu đại Bồ Tát học như thế, thì chẳng bao giờ sanh cõi trời trường thọ, đam mê dục lạc, trí tuệ kém cỏi. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy thành tựu thế lực phương tiện thiện xảo. Do sức phương tiện thiện xảo này, nên tuy thường nhập định vô lượng và định vô sắc, nhưng chẳng theo thế lực ấy mà thọ sanh. Vì được Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ nên thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, ở trong các định tuy thường nhập xuất tự tại, nhưng chẳng theo thế lực của các định ấy mà sanh cõi trời trường thọ, bỏ tu Bồ Tát hạnh.

Nếu đại Bồ Tát học như thế, thì đối với các pháp như Phật 10 lực, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng, cùng vô lượng, vô số, vô biên Phật pháp khác, đều được thanh tịnh, quyết định chẳng rơi vào các bậc Thanh văn và Độc giác.

Tự tánh bản lai của các pháp là thanh tịnh, đại Bồ Tát ấy ở trong bản tánh thanh tịnh của tất cả pháp tinh cần tu học Bát Nhã, như thật thông đạt, không chìm đắm, không ngưng trệ, xa lìa tất cả phiền não nhiễm trước, cho nên nói là Bồ Tát được thanh tịnh. Tuy tất cả pháp bản tánh thanh tịnh nhưng các phàm phu chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu. Đại Bồ Tát ấy vì muốn cho họ biết, thấy, hiểu, nên tu hành bố thí, tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã ba la mật; an trụ pháp không nội, an trụ pháp không ngoại v.v… cho đến an trụ pháp không không tánh tự tánh; an trụ chơn như, an trụ pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v…; an trụ Thánh đế khổ, an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; tu hành 4 tịnh lự, 4 vô lương, 4 định vô sắc; tu hành 8 giải thoát, tu hành 8 thắng xứ, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ; tu hành 37 pháp trợ đạo; tu hành pháp môn giải thoát không, tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; tu hành Bồ Tát thập địa; tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông; tu hành Phật 10 lực, tu hành 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng; tu hành pháp không quên mất, tu hành tánh luôn luôn xả; tu hành tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa; tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí. Đại Bồ Tát ấy đối với bản tánh thanh tịnh của tất cả pháp, khi học như thế thì đối với Phật 10 lực, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng v.v... cùng vô lượng, vô số, vô biên Phật pháp khác đều được thanh tịnh, chẳng rơi vào bậc Thanh văn hay Độc giác; đối với tâm hành sai biệt của các hữu tình đều có thể thông đạt đến chỗ rốt ráo, phương tiện khéo léo làm cho các hữu tình chứng bản tánh thanh tịnh của tất cả pháp.

Nên biết, các thiện nam thiện nữ trụ Bồ Tát thừa, nếu chẳng xa lìa phương tiện thiện xảo, thì nhất định có khả năng nhập vào bậc Bất thối chuyển. Nếu xa lìa phương tiện thiện xảo, thì nhất định đối với quả vị Giác ngộ tối cao sẽ bị thối chuyển. Cho nên, đại Bồ Tát muốn đắc, muốn nhập vào hàng ngũ Bồ Tát Bất thối chuyển, nên siêng tu học phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật sâu xa. (Q.341, ĐBN)

Nếu Đại Bồ Tát tu học phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật như thế, thì chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng xan tham, phá giới, sân hận, giải đãi, tán loạn, ác tuệ; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng tham dục, sân nhuế, ngu si, kiêu mạn; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng các tội lỗi khác; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng sự chấp thủ sắc tướng, cũng chẳng phát khởi tâm tương ưng chấp thủ tướng thọ, tưởng, hành, thức; chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng chấp thủ 12 xứ, 18 giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí v.v… cho đến chẳng bao giờ phát khởi tâm tương ưng chấp thủ tướng quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy tu hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã hoàn toàn chẳng thấy có pháp nào là pháp có thể đạt được; vì không có sở đắc nên chẳng khởi tâm chấp thủ các pháp.

Nếu đại Bồ Tát muốn đứng trên tất cả hữu tình, thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn làm lợi ích cho khắp tất cả hữu tình, đối với người không ai cứu hộ, làm người cứu hộ; đối với người không nơi nương tựa, làm chỗ nương dựa; người không nơi hướng về, làm chỗ hướng về; người lạc đường thì chỉ cho đường về, người chưa được Niết bàn, khiến được Niết bàn. Nếu đại Bồ Tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, muốn đi trên cảnh giới chư Phật đã đi, muốn dạo chơi chỗ chư Phật đã dạo chơi, muốn rống tiếng rống sư tử của chư Phật, muốn đánh trống pháp, muốn dộng chuông pháp, muốn thổi loa pháp, muốn ngồi tòa vô thượng, muốn nói pháp nghĩa vô thượng của chư Phật, muốn phá lưới nghi của tất cả hữu tình, muốn vào cõi pháp cam lồ của chư Phật, muốn hưởng hỷ lạc vi diệu của chư Phật, thì nên học Bát nhã Ba la mật. (Q.341, ĐBN)

Lại nữa, nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã như thế, thì không có bất cứ thiện căn công đức nào mà không có thể đạt được. Nếu đại Bồ Tát học như thế, thì vượt lên trên phước điền của Sa môn, Phạm chí, Thanh văn và Độc giác, chóng đến Nhất thiết trí, mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Nếu đại Bồ Tát học như thế, thì tùy thọ sanh chỗ nào cũng chẳng bỏ, chẳng lìa Bát Nhã mà trái lại thường hành Bát Nhã không ngừng nghỉ.

Nếu đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm mà nghĩ tưởng: Đây là lúc tu, đây là chỗ tu, đây là người tu, đây là pháp phải tu, đây là pháp phải chứng, và nhờ đây mà xa lìa được các chướng ngại phiền não và chứng đắc. Nếu nghĩ tưởng như thế thì không hiểu Bát Nhã, không hiểu Bát Nhã thì không thể hành Bát Nhã, không thể hành Bát Nhã thì không thể chứng đắc. Nhưng nếu khi hành Bát Nhã, Bồ Tát lại tác nghĩ như vầy: Đây chẳng phải Bát Nhã, đây chẳng phải thời tu, đây chẳng phải xứ tu, đây chẳng kẻ tu, chẳng phải nhờ Bát Nhã mà có sở ly, sở đắc. Vì sao? Vì tất cả pháp đều trụ chơn như, pháp giới, thật tế, không phân biệt vậy. Nếu hành được như vậy là hành thậm thâm Bát nhã Ba la mật.

 

Thích nghĩa:

(1). Kinh MHBNBLMĐ không có phẩm “Học Phương Tiện Xảo” như Kinh ĐBN, nhưng lại có hai phẩm “Ma Sầu” và phẩm “Đẳng Học” tương đương với phẩm “Học Phương Tiện Xảo” của Kinh ĐBN.

(2). Bản lai tịch tịnh: Cái chân tánh từ vô thủy vốn tịch lặng hay nói khác tức chân như.

(3). Tác chứng: Kinh nghiệm chứng ngộ rốt ráo riêng của một người. Thành tựu công phu tu đạo. Sự ấn chứng trạng thái giác ngộ cho một người. (Từ điển Phật học Anh Hán Việt, C. Muller soạn - Thích Nhuận Châu Việt dịch).

(4). Còn gọi là “Ba lần chuyển mười hai hành pháp luân” đã thích nghĩa chi tiết trong phẩm “So Lường Công Đức”.

 

Lược giải:

 

1. Ma sầu:

 

Kinh Phật thường ví những phần tử xấu ác là ma, ma quân và người chân thiện, giác ngộ thì gọi là Bồ Tát, Phật. Nếu ác ma nhiều thì Bồ Tát ít đi, Bồ Tát nhiều thì bọn Ma giảm. Đó thế đối địch hai đầu của thiện ác. Vì vậy, bè đảng bọn Ma lo sợ những người tu đắc quả Bồ Tát hay quả vị Giác ngộ tối cao, thì bọn ma không còn đất sống nữa.

Phẩm “Ma Sầu” trong Bát nhã Ba la mật mục đích nêu lên: Người tu các thiện pháp nhất là tu Bát nhã Ba la mật càng đông, càng nhiều thì bè lũ ma xấu ác càng giảm sụt. Nên bọn ma luôn luôn tìm cách nhiễu loạn, không muốn ai cũng trở thành Bồ Tát, Phật. Kinh luôn luôn cảnh giác nên sáng suốt tránh xa các cạm bẩy của chúng ma và Kinh nói phương tiện hữu hiệu nhất là học và hành Bát nhã Ba la mật. Một khi chứng được Bát nhã Ba la mật thì mọi chuyện đều xong hết! Kinh nói: “Bồ Tát tu chánh hạnh, chẳng lìa Bát nhã Ba la mật, sớm chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác, thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, quay xe diệu pháp độ chúng hữu tình được giác ngộ như mình. Do đó, thiện đạo càng ngày càng tăng trưởng, ác đạo ngày càng giảm đi, ác ma và bè lũ hết đất dụng võ, trở nên sầu khổ, giãy chết như kẻ trúng phải tên độc”.

 

2. Đẳng học:

 

Các vị đồng tu phải thương yêu, kính trọng lẫn nhau, xem như thiện tri thức, như bạn đồng hội, như kẻ đồng thuyền. Chỗ học, thời gian học và pháp học của chúng ta và vị ấy, tất cả đều không khác. Các vị ấy phải học lục Ba la mật, ta cũng phải học; các vị ấy cần phải học 18 pháp không, phải học chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v…, ta cũng phải học như thế; các vị ấy phải học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, ta cũng phải học như thế; các vị ấy phải học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo, ta cũng phải học như vậy; các vị vị ấy phải học Tam giải thoát môn, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí, ta cũng phải học như vậy.

Các vị ấy vì chúng sanh nói đạo Bồ đề, tức là bạn lành chơn thật của ta, cũng là thầy ta. Nếu các vị ấy tạp loạn, điên đảo xa lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, thì ta chẳng cùng học với các vị ấy. Trái lại, nếu các vị ấy lìa tạp loạn, điên đảo chẳng rời tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, thì ta luôn luôn cùng học. Nếu các vị ấy luôn luôn học như thế, thì tư lương Bồ đề mau viên mãn. Vì sao? Vì học như thế thì gọi là đẳng học.

Vì vậy, Kinh nói các pháp nội không, ngoại không, nội ngoại không, hữu vi không, vô vi không, thắng nghĩa không, tự tướng không, tự tánh không v.v… là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Các đại Bồ Tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là đẳng học. Do cái học bình đẳng đó, nên mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao.

Sắc và tự tánh không của sắc là tánh bình đẳng của Bồ Tát; thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh không của thọ, tưởng, hành, thức là tánh bình đẳng của Bồ Tát. Các đại Bồ Tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là đẳng học. Do cái học bình đẳng đó, nên mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Mười hai xứ, mười tám giới và tự tánh không của mười hai xứ, mười tám giới là tánh bình đẳng của Bồ Tát. Cho đến tất cả pháp Phật và tự tánh không của tất cả pháp Phật là tánh bình đẳng của Bồ Tát. Các đại Bồ Tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là đẳng học. Do cái học bình đẳng đó, nên mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao.

Mười tám pháp không là tánh bình đẳng của Bồ Tát, uẩn xứ giới tự tánh không cũng là tánh bình đẳng của Bồ Tát, cho đến tất cả pháp Phật và tự tánh không của tất cả pháp Phật là tánh bình đẳng của các Bồ Tát. Vì sao? Vì Không cọng với 0 bằng không (0+0=0); không trừ với 0 cũng là không (0 - 0=0); không nhân với 0 cũng là không (0 X 0=0); không chia với 0 cũng là không (0 : 0=0. Chẳng có đáp số nào trong phương trình trống rỗng này. Tất cả đều là không, trong không làm gì có hơn kém, cao thấp, lớn nhỏ… nên nói là bình đẳng. Bồ Tát học là học cái không này, nên gọi là đẳng học. Học như hư không mà học, học chẳng khác nào “ảo nhân thính” pháp. Học như vậy mới gọi là học Bát nhã Ba la mật. Học tận bờ mé của hư không!

 

Nếu đại Bồ Tát muốn đứng trên tất cả hữu tình, thì nên học Bát Nhã. Nếu đại Bồ Tát muốn làm lợi ích cho khắp tất cả hữu tình, đối với người không ai cứu hộ, làm người cứu hộ; đối với người không nơi nương tựa, làm chỗ nương dựa; người không nơi hướng về, làm chỗ hướng về; người lạc đường thì chỉ cho đường về, người chưa được Niết bàn, khiến được Niết bàn. Nếu đại Bồ Tát muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, muốn đi trên cảnh giới chư Phật đã đi, muốn dạo chơi chỗ chư Phật đã dạo chơi, muốn rống tiếng rống sư tử của chư Phật, muốn đánh trống pháp, muốn dộng chuông pháp, muốn thổi loa pháp, muốn ngồi tòa vô thượng, muốn nói pháp nghĩa vô thượng của chư Phật, muốn phá lưới nghi của tất cả hữu tình, muốn vào cõi pháp cam lồ của chư Phật, muốn hưởng hỉ lạc vi diệu của chư Phật, thì nên học Bát nhã Ba la mật”.

 

Tất cả pháp Phật đều thâu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật, nên phải xem Bát nhã Ba la mật là phương tiện xảo diệu mầu nhiệm của các Bồ Tát trong việc học tập cũng như thực hành để được giác ngộ, ngoài phương tiện đó không còn phương tiện nào khác. Tất cả Bồ Tát dùng phương tiện đó để học, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mới có thể thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, quay xe diệu pháp cứu độ muôn loài tận đời vị lai an lạc không ngừng nghỉ.

Đây là lối thuyết giảng theo trần thuật rất dễ hiểu nên không cần nói thêm nữa./.

 

---o0o---

 

 

 
Tu Viện Quảng Đức Youtube Channel

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2595)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5765)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 113077)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5927)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5969)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6538)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12309)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8479)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14695)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25124)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567