Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

69. Phẩm "Bồ Tát Hạnh"

08/09/202009:57(Xem: 7328)
69. Phẩm "Bồ Tát Hạnh"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-463

 

PHẨM "BỒ TÁT HẠNH"

Phần đầu quyển 464, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Xảo Tiện Hành”, phần sau Q.365

cho đến hết Q.366, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã dạy Bồ Tát phải thực hành Bồ Tát hạnh. Vậy, pháp gì là Bồ Tát hạnh?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bồ Tát hành Bồ Tát hạnh là vì quả vị Vô Thượng Bồ đề, hoặc làm những việc lợi ích cho chúng sanh. Đó gọi là Bồ Tát hạnh.

 

(Vì vậy, Kinh thường bảo tu Bồ Tát hạnh hay Bồ Tát đạo là trên cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, dưới hạ hóa chúng sanh. Đó là một định nghĩa ngắn gọn về tu Bồ Tát hạnh).

 

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát phải hành Bồ Tát hạnh ở đâu?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát phải hành Bồ Tát hạnh nơi sắc không, nơi thọ, tưởng, hành, thức không (hành không, vô tướng, vô nguyện). Phải hành Bồ Tát hạnh nơi mười hai xứ cho đến mười tám giới không. Phải hành Bồ Tát hạnh nơi nhãn xúc cho đến ý xúc không. Phải hành Bồ Tát hạnh nơi các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không. Phải hành Bồ Tát hạnh nơi địa giới cho đến thức giới không. Phải nương vào bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật để hành Bồ Tát hạnh. Phải nương vào pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không để hành Bồ Tát hạnh. Phải nương vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì để hành Bồ Tát hạnh. Phải nương vào Tứ Thánh đế cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo để hành Bồ Tát hạnh. Phải nương vào bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc để hành Bồ Tát hạnh. Phải nương vào tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ để hành Bồ Tát hạnh. Phải nương vào Như Lai mười lực để hành Bồ Tát hạnh. Phải nương vào bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt để hành Bồ Tát hạnh. Phải nương vào đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả để hành Bồ Tát hạnh. Phải nương vào mười tám pháp Phật bất cộng, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả để hành Bồ Tát hạnh. Phải nương vào Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí để hành Bồ Tát hạnh. Phải nương vào việc trang nghiêm cõi Phật, thành thục hữu tình để hành Bồ Tát hạnh. Phải nương vào việc phát sanh văn tự Đà la ni để hành Bồ Tát hạnh. Phải nương vào việc ngộ nhập văn tự Đà la ni để hành Bồ Tát hạnh. Phải nương vào việc ngộ nhập không văn tự Đà la ni để hành Bồ Tát hạnh. Phải nương vào việc làm phát sanh biện tài vô ngại để hành Bồ Tát hạnh. Phải nương vào cảnh giới hữu vi để hành Bồ Tát hạnh. Phải nương vào cảnh giới vô vi để hành Bồ Tát hạnh. Nói chúng, là phải nương tất cả pháp Phật để hành Bồ Tát hạnh.

Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bồ Tát hạnh như thế, như Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đối trong các pháp chẳng tác hai tướng(1).

Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật như thế, gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tu Bồ Tát hạnh. Thiện Hiện! Các Bồ Tát nếu năng tu Bồ Tát hạnh được như thế, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói về Phật đà, Phật đà ấy dựa vào nghĩa gì để gọi là Phật đà?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Này Thiện Hiện! Vì có thể giác ngộ nghĩa chơn thật nên gọi Phật đà, giác ngộ được pháp chơn thật nên gọi Phật đà. Đối với nghĩa chơn thật có thể hiểu thông suốt, có thể hiện Đẳng giác nên gọi Phật đà. Đối với các pháp, giác ngộ hoàn toàn thật tánh của nó, tận cùng tánh của nó nên gọi là Phật đà. Như thật khai ngộ cho tất cả hữu tình xa lìa các phiền não điên đảo nên gọi Phật đà.

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Thế Tôn đã nói về Bồ đề, Bồ đề ấy nương vào nghĩa gì mà gọi là Bồ đề?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Bồ đề là nghĩa không, là chơn như, là thật tế, là pháp tánh, là pháp giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Giả lập danh tướng, thi thiết lời nói, năng chơn thật giác được tối thượng thắng diệu, nên gọi Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nghĩa không thể hoại là nghĩa Bồ đề, nghĩa không phân biệt là nghĩa Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Là chân chánh, là thật, chẳng hư dối, chẳng đổi thay, nên gọi là Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Duy giả danh tướng, không thật khá được, nên gọi Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Chư Phật sở hữu chơn tịnh khắp giác nên gọi Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Chư Phật do đây đối tất cả  pháp, tất cả chủng tướng hiện Đẳng chánh giác nên gọi Bồ đề.

Bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát vì Bồ đề nên khi tu hành sáu Ba la mật cho đến Nhất thiết trí trí, đối những pháp nào làm ích làm tổn, làm tăng làm giảm, làm sanh làm diệt, làm nhiễm làm tịnh?

Phật bảo Thiện Hiện:

Các đại Bồ Tát vì Bồ đề, nên khi tu hành sáu Ba la mật cho đến Nhất thiết trí trí, đối tất cả pháp không ích không tổn, không tăng không giảm, không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh. Vì sao? Đại Bồ Tát này vì Bồ đề nên hành Bát Nhã thẳm sâu, đối tất cả pháp đều vô sở duyên làm phương tiện, chẳng làm ích tổn, chẳng làm tăng giảm, chẳng làm sanh diệt, chẳng làm nhiễm tịnh, vì hiện tiền vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát vì Bồ đề, nên khi tu hành sáu Ba la mật cho đến Nhất thiết trí trí, đối với tất cả pháp đều không lấy sở duyên làm phương tiện, chẳng làm ích tổn, chẳng làm tăng giảm, chẳng làm sanh diệt, chẳng làm nhiễm tịnh, vì hiện tại tiền vậy. Đại Bồ Tát này hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu làm sao nhiếp thọ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Làm sao nhiếp thọ nội Không cho đến vô tánh tự tánh không. Làm sao nhiếp thọ chơn như cho đến bất tư nghì giới? Làm sao nhiếp thọ tứ đế cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo. Nói rông ra là làm sao nhiếp thọ Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Làm sao vượt các Thanh văn, Duyên giác… vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, lần hồi chứng được Nhất thiết trí trí?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu chẳng lấy hai nên nhiếp thọ tu hành sáu Ba la mật, cho đến chẳng lấy hai nên lần hồi chứng được Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Nếu đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu chẳng lấy hai nên nhiếp thọ tu hành sáu Ba la mật, cho đến chẳng lấy hai nên lần hồi chứng Nhất thiết trí trí, làm sao đại Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến thành chánh quả, hằng thời tăng trưởng tất cả thiện pháp?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát lấy hai mà hành, thời các thiện pháp chẳng thể tăng trưởng. Vì sao? Ngu phu dị sanh đều nương đối đãi, nên sở khởi thiện pháp chẳng tăng trưởng được. Nếu đại Bồ Tát hành chẳng hai, từ sơ phát tâm cho đến khi thành chánh quả, hằng thời tăng trưởng tất cả thiện pháp.

Vậy nên, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát căn lành kiên cố, thế gian trời, người, A tu la… chẳng thể hủy hoại khiến đọa Thanh văn, Độc giác… Các pháp dục ác bất thiện thế gian chẳng năng chế phục, khiến cho khi hành sáu Ba la mật cho đến Nhất thiết trí trí chẳng ngừng tăng trưởng.

Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên hành Bát Nhã thẳm sâu không hai.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát vì căn lành nên hành Bát Nhã thẳm sâu chăng?

Phật nói:

- Chẳng phải. Khi ấy các đại Bồ Tát chẳng vì căn lành mà hành Bát Nhã thẳm sâu. Cũng chẳng vì căn chẳng lành mà hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu. Vì sao? Các đại Bồ Tát phải hành như thế. Nếu chưa gần gũi chư Phật Thế Tôn, nếu các căn lành chưa cực viên mãn, nếu chưa được chơn thiện hữu nhiếp thọ, quyết chẳng năng được Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Đại Bồ Tát làm sao gần gũi chư Phật, viên mãn căn lành, được chơn thiện hữu nhiếp thọ, chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí?

Phật nói:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát từ sơ phát tâm gần gũi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nghe thuyết Chánh pháp, chỗ gọi Khế Kinh cho đến Luận nghị. Nghe rồi thọ trì, hằng hằng ôn tập cho khéo thông lợi. Đã khéo thông lợi, suy nghĩ quán sát. Đã quán sát rồi, thấy ý thú sâu. Thấy ý thú rồi, lại giải thông suốt. Đã giải thông suốt, được Đà la ni khởi vô ngại biện, cho đến chứng được Nhất thiết trí trí. Tùy sanh chỗ nào, đối giáo nghĩa Chánh pháp đã nghe trì thường chẳng quên mất. Ở chỗ chư Phật rộng trồng căn lành. Do sức căn lành nhiếp thọ, nên chẳng đọa sanh trong các cảnh giới ác và các nạn xứ. Lại nhờ căn lành đã nhiếp thọ nên ý lạc thanh tịnh. Được sức ý lạc thanh tịnh nhiếp thọ nên thường thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật không trái ngược. Lại nhờ căn lành nhiếp thọ nên thường chẳng xa lìa bạn lành chơn tịnh là các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đại Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn và những vị năng ngợi khen Phật Pháp Tăng khác nữa.

Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát gần gũi chư Phật, viên mãn căn lành, được chơn thiện hữu thường nhiếp thọ, chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí.

Vậy nên, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật muốn mau chứng được Nhất thiết trí trí, phải siêng tinh tấn gần gũi chư Phật, nhiếp thọ viên mãn căn lành đã trồng, vâng thờ bạn lành chớ sanh nhàm mỏi.

 

Thích nghĩa:

(1). Chẳng tác hai tướng hay chẳng tạo hai tướng: Tăng ích-tổn giảm, sanh-diệt, nhiễm-tịnh, có-không… Đó là các pháp tương đãi, do thức phân biệt tạo nên. Do phân biệt nên có chấp, vì có chấp nên mới có thiên lệch, đứng bên này hay bên kia, tâm không còn tự tại nữa. Đại thừa nghĩa chương quyển 1 nói, lý Nhất thực mầu nhiệm, vắng lặng, lìa các tướng, như như bình đẳng, không đây, không kia, cho nên gọi là Bất nhị. Kinh Hoa nghiêm còn đi xa hơn khi tuyên bố “đừng chấp hai tướng, vì một cũng không mà hai cũng không!” Phẩm “Tịnh Đạo”, quyển 507, Hội thứ III, ĐBN, Phật bảo: “Như vậy, vì tất cả pháp nhất tánh chẳng hai. Tu Bồ Đề phải biết: Các pháp nhất tánh tức là vô tánh. Các pháp vô tánh tức là nhất tánh. Các pháp nhất tánh vô tánh như thế vốn là thật tánh. Vốn thật tánh đây vô tạo vô tác. Nếu Bồ Tát Ma ha tát năng như thật biết được nhất tánh, vô tánh, vô tạo, vô tác, tức năng xa lìa được tất cả chấp trước”. TB

 

Sơ giải:

 

1. Phần đầu thuyết về “Bồ Tát Hạnh”

 

Hội thứ I, thuyết về tất cả hạnh của Bồ Tát tu hành để phục vụ chúng sanh. Bồ Tát hạnh chẳng qua là học tất cả pháp Phật để thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ. Nên phẩm thứ 72, “Bồ Tát Hạnh”, tập 5, quyển 85, Đại Trí Độ Luận, thuyết rằng:

“Ở phẩm trước đã nói nhiều về Bát nhã Ba la mật. Ở phẩm này nói về hành Bồ Tát hạnh.

Hỏi: Nếu Bát nhã Ba la mật nhiếp hết thảy pháp, thì hành Bát nhã Ba la mật tức là hành Bồ Tát hạnh. Như vậy, vì sao còn hỏi nữa?

Đáp: Hành hết thảy các đạo của Bồ Tát gọi là hành Bồ Tát hạnh. Còn biết tận tướng của hết thảy pháp là do trí huệ, nên gọi là hành Bát nhã Ba la mật.

Tuy rằng hành Bát nhã Ba la mật và hành Bồ Tát hạnh có chỗ sai khác nhau, nhưng Bát nhã Ba la mật và Bồ Tát hạnh có cùng cộng tướng, tương nhiếp nhau, nên chẳng có sai khác vậy”.

Vậy, hành Bồ Tát đạo hay hành Bồ Tát hạnh là tu tất cả đạo của Bồ Tát, mà đạo của Bồ Tát là tu lục độ vạn hạnh và tất cả các pháp mầu Phật đạo để tự độ và độ tha, trên cầu Vô Thượng Bồ đề dưới hóa độ chúng sanh.

 

2. Phần thứ hai thuyết về Bồ đề:

 

Đại Trí Độ Luận, cùng phẩm trên, “Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Y theo nghĩa gì mà gọi là Bồ Đề?

Phật dạy: Nghĩa không, nghĩa như, nghĩa pháp tánh, nghĩa thật tế là nghĩa Bồ Đề. “Không tam muội” tương ứng với thật tướng trí huệ duyên như pháp tánh thật tế, nên gọi là Bồ Đề. Tất cả các hạng người tu theo Thanh Văn đạo, Bích Chi Phật đạo và Bồ Tát đạo, tuy chưa đoạn sạch phiền não, nhưng đều tu tập trí huệ. Cả 3 hạng người tu trên đây, khi dứt sạch vô minh, thì vào được “vô học vị”, được trí huệ Bát nhã Ba la mật, nên gọi là Bồ Đề. Hàng “vô học” Nhị Thừa chưa được Nhất thiết chủng trí, chưa có chánh trí biến khắp, nên trí huệ Nhị thừa chẳng được gọi là Vô Thượng Bồ Đề. Chỉ có trí huệ của Phật mới được gọi là Vô Thượng Bồ Đề.

Lại nữa, danh tướng ngôn thuyết là nghĩa Bồ Đề, mà thật nghĩa của Bồ Đề là chẳng thể phân biệt, chẳng thể phá hoại.

Lại nữa, Bồ Đề cùng với “như” chẳng sai khác, là chân thật, là chẳng hư dối. Vì sao? Vì trí huệ của chúng sanh thường chuyển mãi cho đến nơi Phật trí là trí huệ vô thượng. Các pháp cũng chuyển từ nơi hư vọng đến nơi chân thật, gọi là Bồ Đề.

Lại có thuyết nói “như như” là Bồ Đề. Được “như như” tức là được Bồ Đề.

Lại có thuyết nói “tận trí” biết rõ hết thảy pháp sanh diệt gọi là Bồ Đề.

Lại có thuyết nói “tận trí” và “ vô sanh trí” là Bồ Đề.

Lại có thuyết nói “vô ngại giải thoát” là Bồ Đề. Vì sao? Vì khi đã được giải thoát, thì ở nơi hết thảy pháp đều được thông đạt.

Lại có thuyết nói bốn vô ngại trí là Bồ Đề. Vì sao? Vì biết được thật tướng pháp là “nghĩa vô ngại”; Phân biệt các ngữ ngôn, danh tự, khiến chúng sanh được giải rõ gọi là “từ vô ngại”; thuyết pháp chẳng cùng tận, để giáo hóa chúng sanh gọi là “lạc thuyết vô ngại”. Có đầy đủ cả 4 vô ngại trí mới làm lợi ích cho chúng sinh nên bốn vô ngại trí  được gọi là Bồ Đề.

Lại có thuyết nói 10 Phật lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại trí, 18 bất cộng pháp, đại từ, đại bi, Nhất thiết chủng trí, cùng vô lượng Phật pháp đều gọi là Bồ Đề. Vì sao? Vì được như vậy là được đại trí huệ, nên hết thảy các thiện pháp đều gọi là Bồ Đề.

Lại có thuyết nói được chân Bồ Đề, thì được gọi là Phật. Vì sao? Vì thành tựu được trí huệ vô lậu; 10 trí tương ứng với thọ, tưởng, hành và thức; Các nghiệp thân, khẩu và ý tương ứng với các hạnh, cộng duyên, cộng sanh, cộng tương trợ, nên gọi là Bồ Đề.

Lại có thuyết  nói nghĩa Bồ Đề vô lượng, vô biên, mà Phật thường khắp biết tất cả. Ví như vị Chuyển luân thánh vương biết rõ tất cả các bảo vật trong kho, biết rõ giá trị của từng món, chẳng có lầm lẫn”.

 

3. Phần thứ ba nói về pháp môn bất nhị:

 

Luận thuyết tiếp:

“Ngài tu Bồ Đề hỏi: Nếu Bồ Đề là rốt ráo không, là bất hoại tướng thì Bồ Tát hành sáu pháp Ba La Mật làm sao tăng trưởng thiện căn?

Phật dạy: Bồ Tát hành sáu pháp Ba la mật, nên biết rõ ở nơi thật tướng Bồ Đề, hết thảy pháp đều chẳng có chỗ tăng ích, huống nữa tăng ích thiện căn. Vì sao? Vì việc Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật chẳng phải vì được hay mất, tăng hay giảm, sanh hay diệt, cấu hay tịnh mà phát khởi, vì Bát nhã Ba la mật là rốt ráo thanh tịnh vậy.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: nếu chẳng vì được hay mất, tăng hay giảm, sanh hay diệt, cấu hay tịnh, thì làm sao Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật mà có thể thành tựu được Bồ Tát hạnh?

Phật dạy: Bồ Tát chẳng dùng “ hai pháp” (nhị pháp hay gọi là lưỡng nguyên pháp), nên tuy có hành các pháp, mà là hành rốt ráo không vậy. Chẳng nên nạn hỏi làm gì nữa.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Nếu chẳng dùng “ hai pháp” thì từ sơ phát tâm đến tối hậu tâm Bồ Tát làm sao có thể tăng trưởng thiện căn?

Phật dạy: Người dùng “hai pháp” mới là điên đảo, chẳng có thể tăng trưởng thiện căn. Ví như người nằm mộng, dù thấy rất nhiều của cải mà chẳng sao nắm bắt được. Phàm phu do chấp “hai pháp”, nên chẳng tăng trưởng được thiện căn. Còn Bồ Tát hành thật tướng pháp là hành “bất nhị pháp”. Do chẳng hành “hai pháp”, nên từ sơ phát tâm dẫn đến tối hậu tâm, Bồ Tát thường tăng trưởng thiện căn. Bởi vậy nên hết thảy thế gian, Trời, Người, A tu La đều chẳng có thể phá hoại được thiện căn của Bồ Tát, chẳng thể khiến Bồ Tát lạc về Nhị Thừa địa. Vì sao? Vì các bất thiện pháp chẳng thể ngăn Bồ Tát hành 6 pháp Ba la mật nhằm tăng trưởng thiện căn vậy”.

 

Bát nhã Ba la mật và pháp chẳng hai (pháp môn bất nhị) được thuyết trong phẩm “Biển Học”, quyển 465, ĐBN thuật lại đàm thoại của Phật và cụ thọ Thiện Hiện như sau:

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Những gì là có, những gì là chẳng có?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Hai là có, không hai là chẳng có.

Thiện Hiện lại hỏi:

- Thế nào là hai? Thế nào là không hai?

Phật bảo:

- Tưởng sắc cho đến tưởng thức là hai, tưởng sắc không cho đến tưởng thức không là không hai. Tưởng nhãn xứ cho đến tưởng ý xứ là hai; tưởng nhãn xứ không cho đến tưởng ý xứ không là không hai. Tưởng sắc xứ cho đến tưởng pháp xứ là hai; tưởng sắc xứ không cho đến tưởng pháp xứ không là không hai. Tưởng nhãn giới cho đến tưởng ý giới là hai; tưởng nhãn giới không cho đến tưởng ý giới không là không hai. Tưởng sắc giới cho đến tưởng pháp giới là hai; tưởng sắc giới không cho đến tưởng pháp giới không là không hai. Tưởng nhãn thức giới cho đến tưởng ý thức giới là hai; tưởng nhãn thức giới không cho đến tưởng ý thức giới không là không hai. Tưởng nhãn xúc cho đến tưởng ý xúc là hai; tưởng nhãn xúc không cho đến tưởng ý xúc không là không hai. Tưởng về các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến tưởng về các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là hai; tưởng về các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không, cho đến tưởng về các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không là không hai. Tưởng địa giới cho đến tưởng thức giới là hai; tưởng địa giới không cho đến tưởng thức giới không là không hai. Tưởng nhân duyên cho đến tưởng tăng thượng duyên là hai; tưởng nhân duyên không cho đến tưởng tăng thượng duyên không là không hai. Tưởng vô minh cho đến tưởng lão tử là hai; tưởng vô minh không cho đến tưởng lão tử không là không hai; tưởng bố thí cho đến tưởng Bát nhã Ba la mật là hai; tưởng bố thí không cho đến tưởng Bát nhã Ba la mật không là không hai. Tưởng pháp nội không cho đến tưởng pháp vô tánh tự tánh không là hai; tưởng pháp nội không không cho đến tưởng pháp vô tính tự tính không không là không hai. Tưởng chơn như cho đến tưởng cảnh giới bất tư nghì là hai; tưởng chơn như không cho đến tưởng cảnh giới bất tư nghì không là không hai. Tưởng Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo là hai; tưởng Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo không là không hai. Tưởng bốn niệm trụ cho đến tưởng tám chi Thánh đạo là hai; tưởng bốn niệm trụ không cho đến tưởng tám chi Thánh đạo không là không hai. Tưởng bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là hai; tưởng bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không là không hai. Tưởng tám giải thoát cho đến tưởng mười biến xứ là hai; tưởng tám giải thoát không cho đến tưởng mười biến xứ không là không hai. Tưởng pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện là hai; tưởng pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện không là không hai. V.v…Tưởng Như Lai mười lực cho đến tưởng mười tám pháp Phật bất cộng là hai; tưởng Như Lai mười lực không cho đến tưởng mười tám pháp Phật bất cộng không là không hai. Tưởng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ là hai; tưởng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ không là không hai. Tưởng pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là hai; tưởng pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không là không hai. Tưởng Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là hai; tưởng Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không là không hai. Tưởng quả Dự lưu cho đến tưởng Độc giác Bồ đề là hai; tưởng quả Dự lưu không cho đến tưởng Độc giác Bồ đề không là không hai. Tưởng tất cả Bồ Tát hạnh và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là hai; tưởng tất cả hạnh của đại Bồ Tát và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không là không hai. Tưởng cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi là hai; tưởng cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi không là không hai. (Q. 465, ĐBN)

Thiện Hiện! Cho đến tất cả tưởng đều là hai, cho đến tất cả hai đều là có, cho đến tất cả có đều là sanh tử. Đã sanh tử thì không thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, sầu than, lo, buồn, khổ não.

Thiện Hiện! Không các tưởng đều là không hai. Các pháp không hai đều là chẳng có. Các pháp chẳng có đều không sanh tử. Người không sanh tử thì có thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử v.v...

Thiện Hiện! Do nhân duyên này nên biết tất cả những người có tưởng hai thì chắc chắn không thể bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, không chứng đắc, không hiện quán cho đến thuận nhẫn, người ấy còn chẳng có huống chi có thể biết khắp tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, cho đến không thể biết khắp tất cả Nhất thiết trí trí, người ấy còn không thể tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, huống chi có thể đắc quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề, hoặc là có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí và có thể dứt hẳn tất cả phiền não tập khí nối nhau”.

Đó là pháp môn bất nhị. Ngày nào còn lẩn quẩn trong vòng đối đãi của thế giới lưỡng nguyên, thì ngày đó không tránh khỏi luân hồi khổ ải!

Đoạn kinh này có vẻ dài dòng nhưng thật sự giúp ích chúng ta hiểu thế nào là pháp nhị nguyên đối đãi. Còn sống là còn ý thức phân biệt, có phân biệt là có uế-tịnh, còn-mất, có-không… Đó là sự phân hóa bất tận của cuộc đời thường, làm sao tránh khỏi mất mát? Cái tệ hại của của nhị nguyên là như thế.

Muốn chấm dứt đảo điên nghiêng chấp thì đừng phân biệt, chia chẻ. Nếu không muốn chia chẻ mất mát thì phải có nhất quán. Có nhất quán tâm sẽ tịnh, tâm tịnh thì hạnh tịnh. Đó là tịnh đạo Bồ đề. Con đường tốt nhất để cho trí tuệ khai mỡ, dẫn đến thánh trí tự giác./.

 

---o0o---

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2587)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5762)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 112997)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5924)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5963)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6535)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12295)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8472)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14685)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25099)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567