Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

26. Phẩm “Học Bát Nhã” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)

19/06/202008:01(Xem: 8532)
26. Phẩm “Học Bát Nhã” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 

Phẩm Học Bát Nhã_CS Thiện Bửu_Quảng Tịnh_photo
PHẨM “HỌC BÁT NHÔ

 

Quyển 85 cho đến phần đầu quyển 89, Hội thứ I, Kinh ĐBN.

(Tương đương với phần sau quyển thứ 09, phẩm “Tán Hoa”, MHBNBLM)

 
Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước

 



 


 

 

Tóm lược:

 

Khi ấy, Thiên Đế Thích khởi nghĩ: Tôn giả Thiện Hiện trí tuệ thâm sâu, chẳng hoại giả danh mà nói pháp tánh(1). Phật biết ý Kiều thi Ca(tên khác của Thiên Đế Thích), nên nói rằng: Cụ thọ Thiện Hiện trí tuệ thâm sâu, chẳng hoại(2) giả danh mà nói pháp tánh.

Thiên Đế Thích liền bạch Phật rằng: Bạch thế Tôn! Tôn giả Thiện Hiện đối với những pháp nào, chẳng hoại giả danh mà nói pháp tánh?

Phật bảo: Kiều Thi Ca! Sắc chỉ là giả danh; thọ, tưởng, hành, thức chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh; cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại giả danh sắc v.v… ấy mà nói pháp tánh của sắc v.v… Vì sao? Vì pháp tánh của sắc v.v… là không hoại, không phải không hoại. Vì vậy nên điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều Thi Ca! 12 xứ, 18 giới chỉ là giả danh, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, Tứ đế, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, 18 pháp không, chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế…, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí chỉ là giả danh, giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại tất cả pháp giả danh như thế, mà nói tất cả pháp thảy pháp tánh. Vì sao? Vì tất cả pháp thảy pháp tánh không hoại, không chẳng hoại (sắc đẳng pháp tánh hoại bất hoại). Vậy nên những điều mà cụ thọ đã thuyết, cũng không hoại, không chẳng hoại (thị cố thiện hiện sở thuyết diệc hoại bất hoại).

Kiều Thi Ca! Pháp của đại Bồ Tát chỉ là giả danh, quả vị Giác ngộ tối cao chỉ là giả danh, giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại giả danh của pháp đại Bồ Tát, quả vị Giác ngộ tối cao mà nói pháp tánh. Vì sao? Vì pháp tánh của đại Bồ Tát, quả vị Giác ngộ tối cao là không hoại, không chẳng hoại. Vậy nên những điều cụ thọ đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều Thi Ca! Thanh văn thừa chỉ là giả danh; Độc giác thừa, Vô thượng thừa chỉ là giả danh, giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại giả danh của Thanh văn thừa, Độc giác thừa v.v... mà nói pháp tánh. Vì sao? Vì pháp tánh của Thanh văn thừa, Độc giác thừa v.v... là không hoại, không chẳng hoại. Vậy nên những điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không chẳng hoại.

Kiều Thi Ca! Cụ thọ Thiện Hiện đối với những pháp ấy chẳng hoại giả danh mà nói pháp tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện nói với Đế Thích: Kiều Thi Ca! Đúng vậy! Như lời Phật dạy, các pháp sở hữu đều là giả danh.

Đại Bồ Tát biết tất cả pháp là giả danh rồi, nên học Bát nhã Ba la mật. Và khi học như vậy, đại Bồ Tát chẳng học nơi sắc, chẳng học nơi thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong sắc có cái để học; chẳng thấy trong thọ, tưởng, hành, thức có cái để học.

Khi học như vậy, đại Bồ Tát chẳng học nơi mười hai xứ, mười tám giới; chẳng học nơi tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, Tứ đế, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, mười tám pháp không, chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế…, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy chẳng thấy trong tất cả pháp ấy có cái để học kể cả quả vị Giác ngộ tối cao.

Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện: Bạch Đại đức! Vì duyên cớ gì mà đại Bồ Tát chẳng thấy sắc, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức? Bạch Đại đức! Vì duyên cớ gì mà đại Bồ Tát chẳng thấy mười hai xứ, mười tám giới cho tới tất cả pháp Phật?

Thiện Hiện đáp: Kiều Thi Ca! Vì sắc và tánh của sắc là không, nên đại Bồ Tát chẳng thấy sắc; vì thọ, tưởng, hành, thức và tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không, nên đại Bồ Tát chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức.

Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ Tát chẳng thấy sắc nên chẳng học nơi sắc, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức nên chẳng học nơi thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ không lại thấy không, chẳng lẽ cái không của sắc, thọ, tưởng, hành, thức lại thấy cái không của sắc thọ, tưởng, hành, thức. Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không có thể học ở cái không, chẳng lẽ cái không của sắc, thọ, tưởng, hành, thức có thể học ở cái không của sắc, thọ, tưởng, hành, thức. (Q.85, ĐBN)

Kiều Thi Ca! Vì mười hai xứ và tánh của nhãn xứ là không, nên đại Bồ Tát chẳng thấy mười hai xứ; vì mười tám giới và tánh của mười tám giới là không, nên đại Bồ Tát chẳng thấy mười tám giới. Kiều Thi Ca! Vì đại Bồ Tát chẳng thấy mười hai xứ nên chẳng học ở mười hai xứ, chẳng thấy mười tám giới nên chẳng học ở mười tám giới. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của mười hai xứ thấy cái không của mười hai xứ; chẳng lẽ cái không của mười tám giới thấy cái không của mười tám giới. Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ cái không của mười hai xứ học ở cái không của mười hai xứ; chẳng lẽ cái không của mười tám giới học cái không của mười tám giới.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát chẳng học ở cái không của mười hai xứ; chẳng học ở cái không của mười tám giới tức là đại Bồ Tát ấy đã học ở cái không của mười hai xứ, đã học ở cái không của mười tám giới. Vì sao? Vì không có hai phần.

(…)Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát chẳng học ở cái không của đại Bồ Tát; chẳng học ở cái không của Tam miệu tam Phật đà(3) tức là đại Bồ Tát ấy đã học ở cái không của đại Bồ Tát, đã học ở cái không của Tam miệu tam Phật đà. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát chẳng học ở cái không của pháp Bồ Tát; chẳng học ở cái không của quả vị Giác ngộ tối cao tức là đại Bồ Tát ấy đã học ở cái không của pháp Bồ Tát, đã học ở cái không của quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì không có hai phần.

Hay nói khác, nếu đại Bồ Tát chẳng học ở cái không của tất cả pháp Phật tức là đại Bồ Tát đã học cái không của tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát học nơi sắc không, không có hai phần; học nơi thọ tưởng hành thức không, không có hai phần. Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát học nơi 12 xứ không, không có hai phần vậy. Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát học nơi 18 giới không, không có hai phần. Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát học nơi địa giới không, không có hai phần; học nơi thủy hỏa phong không thức giới không, không có hai phần, học nơi thủy hỏa phong không thức giới không, không có hai phần. Nói rộng ra, nếu đại Bồ Tát học nơi tất cả pháp Phật không, không có hai phần thì các đại Bồ Tát có khả năng học lục Ba la mật, có khả năng học 18 pháp không, chân như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế…Vì sao? Vì không có hai phần. Đại Bồ Tát có khả năng học ở Tứ Thánh đế, có khả năng học ở bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo. Vì sao? Vì không có hai phần. Đại Bồ Tát có khả năng học ở năm loại mắt, sáu phép thần thông, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì không có hai phần. Đại Bồ Tát ấy có khả năng học ở pháp không quên mất, có khả năng học ở tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì không có hai phần. Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát ấy có khả năng học ở pháp đại Bồ Tát, có khả năng học ở quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì không có hai phần. Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát ấy có khả năng học ở Thanh văn thừa, có khả năng học ở Độc giác thừa, Vô thượng thừa. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát có khả năng học ở lục Ba la mật, mười tám pháp không, chân như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… không có hai phần thì đại Bồ Tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần. Nếu đại Bồ Tát có khả năng học ở Tứ Thánh đế, có khả năng học ở bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, ba mươi bảy pháp trợ đạo không có hai phần thì đại Bồ Tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần. Nếu đại Bồ Tát có khả năng học ở năm loại mắt, sáu phép thần thông, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không có hai phần thì đại Bồ Tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần. Nếu đại Bồ Tát ấy có khả năng học ở pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, có khả năng học ở pháp của đại Bồ Tát, quả vị Giác ngộ tối cao không có hai phần thì đại Bồ Tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần. Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát ấy có khả năng học ở Thanh văn thừa, có khả năng học ở Độc giác thừa, Vô thượng thừa không có hai phần thì đại Bồ Tát ấy có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật pháp thanh tịnh thì đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của sắc mà học, chẳng vì sự tăng giảm của thọ, tưởng, hành, thức mà học. Vì sao? Vì sắc uẩn v.v... không có hai phần.

Nếu đại Bồ Tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của 12 xứ mà học, chẳng vì sự tăng giảm của 18 giới mà học. Vì sao? Vì mười hai xứ, mười tám giới không có hai phần.

Nếu đại Bồ Tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật pháp thanh tịnh thì đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của tứ Thánh đế cho đến Nhất thiết chủng trí mà học. Vì sao? Vì Tứ Thánh đế cho đến Nhất thiết chủng trí không hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ Tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật pháp thanh tịnh thì đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Thanh văn thừa mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Độc giác thừa, Vô thượng thừa mà học. Vì sao? Vì Thanh văn thừa, Độc giác thừa v.v... không có hai phần(4).

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Này Thiện Hiện! Khi đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ sự hoại diệt của sắc mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt của mười hai xứ mà học, đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt của mười tám giới mà học chăng? Khi đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt lục Ba la mật cho đến Nhất thiết tướng trí mà học, đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt pháp đại Bồ Tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt của quả vị Giác ngộ tối cao mà học chăng? Thiện Hiện! Khi đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt của Thanh văn thừa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt của Độc giác thừa, Vô thượng thừa mà học chăng?

Thiện Hiện đáp: Đúng vậy! Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt của sắc mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học. Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt của mười hai xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt của mười tám giới mà học. Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt của lục Ba la mật cho đến Nhất thiết tướng trí mà học, đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt pháp đại Bồ Tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt của quả vị Giác ngộ tối cao mà học. Thiện Hiện! Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt của Thanh văn thừa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt của Độc giác thừa, Vô thượng thừa mà học.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Vì duyên nào khi đại Bồ Tát học như thế, chẳng vì sắc nhiếp thọ hoại diệt nên học, chẳng vì thọ tưởng hành thức nhiếp thọ hoại diệt nên học? Thiện Hiện! Vì duyên nào khi đại Bồ Tát học như thế, chẳng vì mười hai xứ nhiếp thọ hoại diệt nên học, chẳng vì mười tám giới nhiếp thọ hoại diệt nên học? Thiện Hiện! Vì duyên nào khi đại Bồ Tát học như thế, chẳng vì lục Ba la mật nhiếp thọ hoại diệt nên học, chẳng vì Nhất thiết chủng trí nhiếp thọ hoại diệt nên học? Vì duyên nào khi đại Bồ Tát học như thế, chẳng vì pháp đại Bồ Tát nhiếp thọ hoại diệt nên học, chẳng vì quả vị Giác ngộ tối cao nhiếp thọ hoại diệt nên học? Thiện Hiện! Nói tóm lại, vì duyên nào khi đại Bồ Tát học như thế, chẳng vì tất cả pháp Phật nhiếp thọ hoại diệt nên học?

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện đáp Xá Lợi Tử rằng: Đại Bồ Tát học như thế, chẳng thấy có sắc là khá nhiếp thọ và sở hoại diệt; cũng chẳng thấy có kẻ năng nhiếp thọ sắc và hoại diệt. Chẳng thấy có thọ tưởng hành thức là khá nhiếp thọ và sở hoại diệt; cũng chẳng thấy có kẻ năng nhiếp thọ thọ tưởng hành thức và hoại diệt. Vì sao? Vì sắc uẩn thảy hoặc năng hoặc sở, trong ngoài đều không, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Khi đại Bồ Tát học như thế, chẳng thấy có mười hai xứ là khá nhiếp thọ và sở hoại diệt; cũng chẳng thấy có kẻ năng nhiếp thọ mười hai xứ và hoại diệt. Chẳng thấy có mười tám giới là khá nhiếp thọ và sở hoại diệt; cũng chẳng thấy có kẻ năng nhiếp thọ 18 giới và hoại diệt. Vì sao? Vì xứ giới thảy hoặc năng hoặc sở, trong ngoài đều không, chẳng thế nắm bắt được.

Đại Bồ Tát học như thế, chẳng thấy có lục Ba la mật cho đến Nhất thiết chủng trí là khá nhiếp thọ và sở hoại diệt; cũng chẳng thấy có kẻ năng nhiếp thọ lục Ba la mật cho đến Nhất thiết chủng trí và hoại diệt. Chẳng thấy có pháp đại Bồ Tát cho đến quả vị Giác ngộ tối cao là khá nhiếp thọ và sở hoại diệt; cũng chẳng thấy có kẻ năng nhiếp thọ pháp đại Bồ Tát cho đến quả vị Giác ngộ tối cao và hoại diệt. Vì sao? Vì tất cả pháp Phật thảy hoặc năng hoặc sở, trong ngoài đều không, chẳng thế nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát đối sắc, đối thọ tưởng hành thức; đối mười hai xứ, mười tám giới; đối lục Ba la mật cho đến Nhất thiết chủng trí; đối pháp đại Bồ Tát, quả vị Giác ngộ tối cao chẳng thấy là khá nhiếp thọ và sở hoại diệt; cũng chẳng thấy có kẻ năng nhiếp thọ và hoại diệt mà học Bát nhã Ba la mật, là đại Bồ Tát này năng thành xong Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện đáp: Đại Bồ Tát học Bát nhã Ba la mật như vậy có khả năng hoàn thành Nhất thiết trí trí vì đối với tất cả pháp chẳng vì nhiếp thọ, hoặc hoại diệt làm phương tiện mà học.

Xá Lợi Tử hỏi: Nếu đại Bồ Tát đối với tất cả pháp chẳng vì lấy nhiếp thọ, hoại diệt làm phương tiện mà học thì tại sao có khả năng hoàn thành Nhất thiết trí trí?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy khi hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy sắc hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc sanh, hoặc diệt; chẳng thấy sắc hoặc thủ, hoặc xả, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc thủ, hoặc xả; chẳng thấy sắc hoặc nhiễm, hoặc tịnh, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc nhiễm, hoặc tịnh; chẳng thấy sắc hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy sắc hoặc tụ, hoặc tán; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức hoặc tăng, hoặc giảm. Vì sao? Vì tánh của sắc uẩn v.v… là không, vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. (Q.88, ĐBN)

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy học Bát nhã Ba la mật như vậy có khả năng hoàn thành Nhất thiết trí trí vì lấy cái vô học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã chẳng thấy 12 xứ, 18 giới, tứ Thánh đế, 12 nhân duyên, lục Ba la mật, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, ba mươi bảy pháp trợ đạo, Nhất thiết trí cho đến quả vị Giác ngộ tối cao hoặc sanh, hoặc diệt; hoặc thủ, hoặc xả; hoặc nhiễm, hoặc tịnh; hoặc tụ, hoặc tán; hoặc tăng, hoặc giảm; Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp là không, vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy học Bát nhã Ba la mật như vậy có khả năng hoàn thành Nhất thiết trí trí, vì lấy cái vô học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

Như vậy, Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy khi hành Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả pháp, chẳng thấy hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc thủ, hoặc xả, hoặc nhiễm, hoặc tịnh, hoặc tụ, hoặc tán, hoặc tăng, hoặc giảm mà học Bát nhã Ba la mật thì có khả năng thành tựu Nhất thiết trí trí, vì lấy cái vô học và cái không thành tựu làm phương tiện vậy.

 

Thích nghĩa:

(1). Pháp tánh: Cái chân tánh tuyệt đối của vạn hữu là bất biến, bất chuyển và vượt ra ngoài mọi khái niệm phân biệt. Đồng nghĩa với pháp định, pháp trụ, pháp giới, pháp thân, thực tế, thực tướng, không tánh, Phật tánh, vô tướng, chân như, Như Lai tạng, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, vô ngã tánh, Hư không giới, bất tư nghì giới, bất biến dị tánh, tự tánh thanh tịnh tâm. ( Từ điển Phật học Việt Anh - Thiện Phúc)

(2). Hoại () là hủy hoại, hư nát. Nguyên văn câu chữ Hán là :

bất hoại giả danh nhi thuyết Pháp tánh” .

 (3). Tam miệu tam Phật đà (Phạm: Samyak-saôbuddha. Pàli: Sammà-sambuddha) Cũng gọi Tam da tam Phật, Tam da tam Phật đà. Hán dịch: Chính biến tri, Chính đẳng giác, Chính đẳng giác giả. Một trong mười danh hiệu của Như Lai. Cứ theo luận Đại trí độ quyển 2, trong Tam miệu tam Phật đà thì Tam miệu nghĩa là Chính, Tam nghĩa là Biến, Phật nghĩa là Tri, cho nên Tam miệu tam Phật đà nghĩa là Chính biến tri nhất thiết pháp. Như Lai có năng lực biết rõ lí Tứ đế, biết tướng của tất cả các pháp thực không hoại, không tăng, không giảm, lại biết danh hiệu của các thế giới trong mười phương và danh hiệu của chúng sinh trong sáu đường... vì thế Như Lai được gọi là Tam miệu tam Phật đà. (Tự điển Phật Quang)

(4). Đoạn kinh này tương đương với đoạn kinh trong phẩm “Tán Hoa” thứ thứ 29 Kinh MHBNBLMĐ nhưng Kinh MHBNBLMĐ ngắn gọn và dễ hiểu hơn:

Thiên Đế hỏi: “Bạch Đại Đức! Do nhơn duyên gì mà chẳng thấy sắc đến chẳng thấy Nhất thiết chủng trí?”

Ngài Tu Bồ Đề nói: “Sắc sắc không nhẫn đến Nhất thiết chủng trí Nhất thiết trí không.

Nầy Kiều Thi Ca! Sắc không chẳng học sắc không, nhẫn đến Nhất thiết chủng trí không chẳng học Nhất thiết chủng trí không.

Nầy Kiều Thi Ca! Nếu chẳng học không như vậy thời gọi là học không, vì chẳng hai vậy.

Đại Bồ Tát nầy học sắc không nhẫn đến học Nhất thiết chủng trí không, vì chẳng hai vậy.

Nếu học sắc không vì chẳng hai, nhẫn đến học Nhất thiết chủng trí không vì chẳng hai, đại Bồ Tát nầy có thế học Đàn na Ba la mật đến Bát nhã Ba la mật vì chẳng hai vậy. Có thể học tứ niệm xứ đến mười tám pháp bất cộng vì chẳng hai vậy. Có thể học quả Tu Đà Hoàn đến Nhất thiết chủng trí vì chẳng hai vậy”.

 

Lược giải:

 

Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 29, “Rải Hoa”, tập 3, quyển 55, tương đương với phẩm này, nói rằng “Hết thảy các pháp đều do duyên hòa hợp sanh, nên đều là giả danh là vô tướng vậy. Bát nhã Ba la mật dung nhiếp hết thảy các pháp, mà chẳng thủ chấp các tướng. Học Bát nhã Ba la mật như vậy là học sắc không… dẫn đến học Nhất thiết chủng trí không, là được vào “bất nhị pháp” vậy”.

Kinh nói: Sắc chỉ là giả danh; thọ, tưởng, hành, thức chỉ là giả danh; giả danh ấy chẳng lìa pháp tánh; cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại giả danh sắc v.v… mà nói pháp tánh của sắc v.v… Vì sao? Vì pháp tánh của sắc v.v… là không hoại, không phải không hoại (pháp tánh hoại bất hoại). Vì vậy, nên những điều Thiện Hiện đã nói cũng không hoại, không phải không hoại.

Bản tánh, bản thể, bản chất, pháp thể là cái tự có, còn gọi là tự tánh của tất cả pháp như nói bản tánh của nước thì lạnh, lửa thì nóng, gió thì động v.v... Đó là bản thể của mỗi vật thể cá biệt. Nhưng chẳng có gì cá biệt trong chúng. Bởi vì vạn hữu trong tổng tướng vốn là những sản phẩm của vô số nhân duyên hợp thành và chẳng có gì đáng gọi một bản chất nguyên sơ nó độc lập đơn độc, tự hữu của nó. Nên bảo tất cả đều là không.

Vì sắc và tánh của sắc là không, nên đại Bồ Tát chẳng thấy sắc; thọ, tưởng, hành, thức và tánh của thọ tưởng hành thức là không, nên đại Bồ Tát chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức. Đại Bồ Tát chẳng thấy tất cả pháp cũng vậy. Nên chẳng học nơi tất cả pháp tánh. Vì sao? Vì chẳng lẽ không lại thấy không! Vì chẳng lẽ cái không có thể học ở cái không.

Nếu đại Bồ Tát chẳng học ở cái không của tất cả pháp Phật tức là đại Bồ Tát đã học cái không của tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì không có hai phần. Nếu đại Bồ Tát học nơi ngũ uẩn, 12 xứ không, 18 giới, 18 pháp không, thập nhị chân như, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, 37 pháp trợ đạo... cho đến quả vị Vô Thượng Bồ đề không có hai phần. Không hai phần là không phân biệt, không phân biệt là không rơi vào nhị nguyên đối đãi, tức nhập được đệ nhất nghĩa đế, thời các đại Bồ Tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật pháp thanh tịnh.

Vì sao? Vì chẳng thấy các pháp có tăng có giảm, có sinh có diệt... Tăng-giảm, sinh-diệt… là pháp đối đãi, nếu thấy đối đãi là còn phân biệt, còn chấp đắm thì không thể học Bát Nhã và vô lượng pháp môn Phật học được.

Vì vậy, Kinh nói: Nếu đại Bồ Tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật pháp thanh tịnh thì đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ và sự hoại diệt của tất cả pháp mà học. Đại Bồ Tát học như thế, chẳng thấy tất cả pháp là khá nhiếp thọ và sở hoại diệt; cũng chẳng thấy kẻ năng nhiếp thọ và hoại diệt. Vì sao? Vì tất cả pháp hoặc năng hoặc sở, trong ngoài đều không, chẳng thể nắm bắt được. Nếu năng học được như vậy là đại Bồ Tát này năng thành xong Nhất thiết trí trí.

Muốn được như vậy, đại Bồ Tát ấy khi hành Bát Nhã đối với tất cả pháp chẳng thấy hoặc sanh hoặc diệt; hoặc thủ hoặc xả, hoặc nhiễm hoặc tịnh, hoặc tụ hoặc tán, hoặc tăng hoặc giảm… Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp là không, vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Nếu đại Bồ Tát học Bát nhã Ba la mật như vậy thì có khả năng hoàn thành Nhất thiết trí trí vì lấy cái vô học và cái không hoàn thành làm phương tiện.

 

Kết luận:

 

“Học Bát Nhã” thì phải tri nhận tất cả pháp là không, “Nhất thiết pháp không”, mới có thể nhập được Tánh không, mới thấy được nhân không, pháp không. Nhân không là không thấy ngã-ngã sở, pháp không thì mới có thể xa lìa tướng. Đó là chủ đề then chốt của ĐBN. Nếu tất cả pháp là không thì bản tánh cũng không, tự tánh cũng không, nên nói pháp tánh của nó không hoại, không bất hoại.

Tri nhận các pháp là giả danh rồi, đại Bồ Tát chẳng học ở tất cả pháp. Vì sao? Vì trong rỗng không, chẳng có gì để học, không lẽ cái không có thể học không.

Lại nữa, phải tri nhận tất cả pháp là bất nhị. Bồ Tát học như thế, chẳng thấy tất cả pháp là khá nhiếp thọ và sở hoại diệt; cũng chẳng thấy kẻ năng nhiếp thọ và hoại diệt. Vì tất cả pháp hoặc năng hoặc sở, hoặc trong hoặc ngoài đều không, chẳng thể nắm bắt được. Tất cả đều rốt ráo không, mà chẳng phá các pháp tướng, chẳng làm mất các hạnh nghiệp nhân duyên quả báo. Đó là ý nghĩa chẳng hoại pháp tướng mà vẫn thuyết được thật tướng các pháp”. Nếu năng học được như vậy thì đại Bồ Tát năng thành xong Nhất thiết trí trí, lấy cái vô sở học và cái không sở thành làm phương tiện./.

 

---o0o---

 

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2590)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5764)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 113035)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5925)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5963)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6536)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12300)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8473)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14690)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25109)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567