Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

51. Phẩm “Hạnh Nguyện” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

08/07/202020:24(Xem: 7521)
51. Phẩm “Hạnh Nguyện” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

Pham Hanh Nguyen 


TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 

 

PHẨM “HẠNH NGUYỆN”

Phần đầu quyển 331, Hội thứ I, ĐBN

(Tương đương phần cuối phẩm “Mộng Hành” quyển thứ 19, MHBNBLM)

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le



 


 

 

Tóm lược:

 

Này Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình bị lệ thuộc cảnh chúa tôi thì phát nguyện rằng: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba la mật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Trong cõi Phật của ta, không có ai là chúa, không có ai là tôi, ai muốn làm việc gì đều được tự do, cho đến chẳng thấy hình tượng chúa tể, cũng chẳng nghe danh tự chúa tể, chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng pháp thống nhiếp gọi là Pháp Vương.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy do sáu phép Ba la mật này, mau được viên mãn, gần gũi quả vị Giác ngộ tối cao.

Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình sống trong các cảnh giới sai biệt: Địa ngục, quỷ giới, súc sanh, A tu la, nhơn, thiên, thấy rồi phát nguyện: Khi ta thành đạo, trong cõi Phật ta, không các cảnh giới sai biệt cũng không có danh tự sai biệt là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh v.v… Tất cả hữu tình đều cùng một loài, cùng tu một pháp là lục Ba la mật, an trụ pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh; an trụ chơn như, an trụ pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v…; an trụ tứ Thánh đế, tu hành 37 pháp trợ đạo; tu hành 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc; tu hành 8 giải thoát, 8 thắng xứ, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ; tu hành tam giải thoát môn; tu hành 5 loại mắt, 6 phép thần thông; tu hành pháp môn Đà la ni, Tam ma địa; tu hành Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; tu hành Bồ Tát hạnh; tu hành quả vị Giác ngộ tối cao.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy do sáu phép Ba la mật này, mà mau được viên mãn, gần gũi quả vị Giác ngộ tối cao.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình sanh ra trong bốn loài sai biệt: Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh. Thấy như vậy rồi, mới phát nguyện khi thành Phật rồi trong cõi Phật Ta, các loài hữu tình đều là hóa sanh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình không có 5 loại thần thông, đối với việc làm không được tự tại. Thấy rồi phát nguyện, nếu Ta thành Phật, trong cõi Ta các loại hữu tình có năm tuệ thần thông đều được tự tại.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình thọ dụng đoàn thực(2), thân có các thứ đại tiểu tiện, máu mủ hôi thối, thật đáng chán bỏ, thệ nguyện rằng: Khi Ta thành Chánh Đẳng Chánh giác rồi, trong cõi Phật của Ta, các hữu tình đều cùng thọ dụng món ăn diệu pháp hỷ, thân thể thơm sạch, không có các việc đại tiểu tiện dơ uế.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình thân không ánh sáng, có làm việc gì phải nhờ đến ánh sáng bên ngoài. Nghĩ như thế rồi mới thệ nguyện: Nếu chứng quả vị Giác ngộ tối cao, trong cõi Phật của ta, thân các loài hữu tình đầy đủ ánh sáng, chẳng nhờ ánh sáng bên ngoài.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ 6 phép Ba la mật, thấy nơi cư ngụ của các hữu tình có ngày có đêm, có tháng nửa tháng, thời tiết số năm, chuyển biến chẳng thường, thì ước nguyện rằng: Trong cõi Phật của ta, không có ngày đêm, và tháng nửa tháng, thời tiết số năm v.v…

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình tuổi thọ ngắn ngủi. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, tu học, chóng mau chứng quả, khiến trong cõi Phật của ta, tuổi thọ của các loài hữu tình dài lâu, khó biết kiếp số.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình không có các tướng tốt, mới ước nguyện, khi Ta thành Phật, cõi nước Ta, các loại hữu tình đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc viên mãn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy loài hữu tình xa lìa các căn lành, mới phát nguyện: Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình, tất cả đều thành tựu căn lành vi diệu thù thắng. Do căn lành này, thường cúng dường chư Phật, nương vào phước lực này, tùy theo chỗ thọ sanh, được hưởng nhiều phúc lợi.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình có đủ các bệnh về thân tâm, mới phát nguyện: Khi Ta thành Phật, cõi nước của ta, các loại hữu tình, thân tâm thanh tịnh, không có nỗi khổ về bệnh, cho đến không nghe tên của các loại bệnh cũng chẳng nghe các bệnh phiền não như tham, sân, si, mạn v.v…

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy có hữu tình có đủ các ý thích: Hoặc có người thích hướng đến Thanh văn thừa, hoặc có người thích hướng đến Độc giác thừa, hoặc có người thích hướng đến Vô thượng thừa. Thấy như vậy rồi mới ước nguyện, khi Ta thành Phật rồi thì cõi nước Ta chỉ có một thừa duy nhất, là Đại thừa mà thôi.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình khởi tăng thượng mạn; chưa có thể thật sự xa lìa thập ác mà cho ta đã tu xong thập thiện; chưa đắc thiền, chưa đắc định mà cho ta đắc thiền, đắc định; chưa đắc tứ vô lượng mà cho ta đã hoàn tất từ, bi, hỷ, xả; chưa đắc các thần thông mà cho là đã chứng các thần thông; chưa đắc bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện mà cho là đắc bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện; chưa đắc quả vị Độc giác mà cho là đắc quả vị Độc giác; chưa đắc lục Ba la mật mà cho là đắc lục Ba la mật. Nói rộng ra, chưa đắc tất cả pháp Phật mà cho rằng ta đã chứng đắc tất cả pháp Phật.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta phải làm thế nào để cứu giúp các loại hữu tình như thế, khiến họ xa lìa sự kết buộc của tăng thượng mạn. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba la mật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Trong cõi Phật của ta, không có hạng tăng thượng mạn như thế, tất cả hữu tình lìa tăng thượng mạn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ sáu phép Ba la mật, thấy các hữu tình chấp trước các pháp, đó là chấp trước sắc, chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; chấp trước mười hai xứ, mười tám giới; chấp trước tất cả pháp Phật. Đại Bồ Tát ấy, thấy việc đó rồi, phát thệ nguyện: Trong cõi Phật của ta, các loại hữu tình không có các loại chấp trước như thế.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ 6 phép Ba la mật, thấy có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hào quang giới hạn, tuổi thọ giới hạn, các chúng đệ tử số lượng giới hạn. Đại Bồ Tát ấy, thấy việc đó rồi, nghĩ thế này: Ta làm thế nào để được hào quang vô lượng, thọ mạng vô lượng, và các chúng đệ tử số lượng không giới hạn. Đã nghĩ vậy rồi, phát lời nguyện: Ta phải tinh cần, chẳng tiếc thân mạng, tu hành sáu phép Ba la mật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến mau viên mãn, chóng chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Bấy giờ, thân ta hào quang vô lượng, thọ mạng vô lượng, số lượng đệ tử được tăng lên vô lượng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ 6 Ba la mật, thấy cõi nước của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có chu vi giới hạn. Đại Bồ Tát Ma ha tát này thấy việc đây rồi, liền nghĩ: Ta phải làm sao cho cõi Phật này có chu vi vô hạn. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành 6 Ba la mật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho mau viên mãn chứng quả vị Giác ngộ tối cao. Đại thiên thế giới mười phương đều như số cát sông Hằng hợp làm một cõi, Ta ở trong ấy thuyết pháp giáo hoá vô lượng vô số vô biên hữu tình.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tu đủ 6 Ba la mật, thấy các hữu tình đường sanh tử quá dài, ác cõi hữu tình số ấy vô biên. Đại Bồ Tát này thấy việc đây rồi, liền nghĩ: Ngằn mé sanh tử y như hư không, các cõi hữu tình cũng lại như thế. Tuy không thật có các loại hữu tình trôi lăn trong sanh tử hoặc được Niết bàn, mà các hữu tình vọng chấp là có, xoay quanh sanh tử, chịu khổ vô biên. Ta phải làm sao phương tiện cứu vớt. Đã suy nghĩ rồi, tác lời nguyện này: Ta phải tinh siêng chẳng đoái thân mạng, tu hành sáu Ba la mật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật khiến cho chóng chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Vì các hữu tình thuyết Vô thượng pháp, đều khiến giải thoát đại khổ sanh tử, cũng khiến chứng biết sanh tử, giải thoát đều vô sở hữu, đều rốt ráo không.  

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này do sáu Ba la mật đây, mau được viên mãn gần gũi Vô thượng chánh Đẳng Bồ đề.

 

Thích nghĩa:

(1). Đoàn thực hay suyển thực là thức ăn vo tròn. Theo tục lệ Ấn độ, dân Ấn không dùng muỗng nĩa để ăn mà thường dùng tay vo tròn thức ăn rồi bỏ vào miêng. Đoàn thực, nói chung là thức ăn cõi Dục, chia làm hai loại: 1- Thô thực: Như cơm, bánh, miến, mì v.v... 2- Tế thực: Như bơ, phô mai(cheese) v.v...

 

 

Lược giải:

 

Phần cuối của phẩm “Mộng Hành” quyển thứ 19, MHBNBLMĐ nói lên ước nguyện sâu xa của một vị Bồ Tát giống như ước nguyện của Pháp Tạng Tỳ kheo trong Kinh Vô Lượng Thọ trước khi thành Phật A di đà. Đó cũng là ước nguyện của Văn T, của Phổ Hiền, của Đức Quán Âm Bồ Tát hoặc bất cứ một vị Bồ Tát nào trong hằng sa thế giới.

Tu Bồ Tát đạo hay Bồ Tát hạnh là thực hiện Bồ đề tâm, quyết tâm đạt Bồ đề vì lợi ích hữu tình, nhằm dẫn dắt cho chúng sanh đến Niết bàn dù phải trải qua bao gian nan thử thách trong vô lượng kiếp. Nhưng muốn thực hiện hạnh nguyện đó thì trước nhất phải tu đủ sáu phép Ba la mật còn gọi là tu lục độ vạn hạnh, tu tất cả các pháp mầu Phật đạo, lại phải tích tụ thiện căn công đức mới có thể đạt Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, để phục vụ chúng sanh.

Hạnh nguyện của một vị Bồ Tát là muốn thực hiện một thế giới lý tưởng, tạo một mô hình gương mẫu mà vô lượng vô biên thế giới hằng ước mơ về mọi phương diện vật chất cũng như tinh thần.

Phần cuối phẩm “Mộng Hành” quyển thứ 19, MHBNBLMĐ ghi như sau. Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề:

 

- “Có đại Bồ Tát lúc hành bố thí Ba la mật, hoặc thấy chúng sanh đói rét, y phục rách rưới, phát nguyện rằng: Trong thời gian tôi hành bố thí Ba la mật đó, nguyện lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi không có sự đói rét như vậy. Những đồ dùng, thức ăn, thức uống, y phục… giống như cõi Trời Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi, Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự tại.

- Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát tu hành như vậy thì có thể đầy đủ bố thí Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ đề.

 

Lại nầy Tu Bồ Đề! Lúc hành trì giới Ba la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh sát sanh, trộm cướp nhẫn đến tà kiến, bị chết yểu, nhiều bịnh, tướng xấu, thiếu oai đức, nghèo hèn, tàn tật, phải phát nguyện rằng: Trong thời gian tôi hành Trì giới Ba la mật đây, nguyện lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi không có nghiệp ác và quả báo xấu như vậy.

Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát tu hành như vậy thì có thể đầy đủ Trì giới Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ đề.

 

- Lại này Tu Bồ Đề! Lúc hành Nhẫn nhục Ba la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh giận dữ, thù ghét, mắng nhiếc, đánh đập, tàn sát lẫn nhau, phải phát nguyện rằng: Trong thời gian tôi hành Nhẫn nhục Ba la mật đây, nguyện lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi không có những sự đó, tất cả đều xem nhau như cha, như mẹ, như anh chị em, như thiện tri thức, đều có lòng từ bi.

Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát tu hành như vậy thì có thể đầy đủ Nhẫn nhục Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ đề.

 

- Lại này Tu Bồ Đề! Lúc thực hành Tinh tấn Ba la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh lười biếng, chẳng siêng tu pháp lành, rời bỏ ba thừa Thanh Văn, Bích Chi Phật, Phật thừa, phải phát nguyện rằng: Trong thời gian tôi hành Tinh tấn Ba la mật, nguyện lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi không có sự như vậy, tất cả đều siêng tu tinh tấn, đều được đắc độ nơi pháp Nhất thừa.

Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát tu hành như vậy có thể đầy đủ Tinh tấn Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ đề.

 

- Lại này Tu Bồ Đề! Lúc hành Thiền Ba la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh bị ngũ cái che đậy: dâm dục, ngủ nghỉ, điệu hối, nghi ngờ, mất thiền, mất định, mất vô lượng tâm, phát nguyện rằng: Lúc tôi tu Thiền Ba la mật, nguyện khi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi đều không có sự như vậy.

Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát tu hành như vậy có thể đầy đủ Thiền Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ đề.

 

- Lại này Tu Bồ Đề! Lúc hành Bát nhã Ba la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh ngu si, mất chánh kiến thế gian, xuất thế gian hoặc cho rằng không nghiệp, không nhân duyên, hoặc cho rằng thân là thường còn, hoặc cho rằng đoạn diệt, hoặc nói là vô sở hữu, phải phát nguyện rằng: Trong thời gian tôi hành Bát nhã Ba la mật, tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh, nguyện lúc tôi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi không có sự như vậy.

Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát tu hành như vậy thì có thể đầy đủ Bát nhã Ba la mật, gần kề Vô thượng Bồ đề.

 

Lại này Tu Bồ Đề! Lúc hành sáu Ba la mật, đại Bồ Tát thấy chúng sanh an trụ nơi ba tụ: Một là chánh định tụ, hai là tà định tụ, ba là bất định tụ, phải phát nguyện rằng: Lúc tôi hành lục Ba la mật, tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh, nguyện khi tôi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi không có tà định tụ, cũng không có danh từ tà tụ.

Nầy Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát tu hành như vậy có thể đầy đủ sáu Ba la mật, gần kề Nhất thiết tướng trí”.

 

Bồ Tát sống lăn lóc với chúng sanh, hiểu rõ thế gian đầy thống khổ này, nên Bồ Tát lập nguyện khi thành Phật sẽ xây dựng thế giới của mình là một thế giới lý tưởng, trong đó tất cả chúng sanh đều sống an lạc, thái bình về mọi phương diện vật chất lẫn tinh thần!

Đó là lý tưởng hoằng độ chúng sanh của Bồ Tát đạo với tứ vô lượng tâm -từ bi hỷ xả, duy trì huyết mạch của Đại thừa, làm đẹp thế gian này dù trải qua muôn ngàn kiếp khổ nhọc.

 

---o0o---

 


Tu Viện Quảng Đức Youtube Channel

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2587)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5760)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 112995)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5924)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5959)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6535)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12287)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8468)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14683)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25091)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567