Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

30. Phẩm "Phật Quốc"

02/11/202009:19(Xem: 6924)
30. Phẩm "Phật Quốc"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-470

 

PHẨM "PHẬT QUỐC"

Phần sau Q.535 đến phần đầu Q.536, Hội thứ III, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Đạo Sĩ”, quyển 476, Hội thứ II, ĐBN)

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

  

Tóm lược: 

 

Bấy giờ, Thiện Hiện suy nghĩ: Thế nào gọi là Bồ Tát đạo, các Bồ Tát an trụ trong đạo ấy, mặc giáp bị công đức làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình mau chứng được Nhất thiết trí trí.

Phật biết tâm niệm ấy, bảo Thiện Hiện:

- Thiện Hiện nên biết! Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí và vô lượng vô biên các Phật pháp khác đều là đạo của đại Bồ Tát. Lại nữa, này Thiện Hiện! Nói chung tất cả pháp đều là đạo của đại Bồ Tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Không có chút pháp nhỏ nào mà các đại Bồ Tát đều không học. Các đại Bồ Tát nào không học các pháp ấy thì có thể chứng được Nhất thiết trí trí không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không chứng được!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Nhất định không có chút pháp nhỏ nào mà các đại Bồ Tát đều không học cả. Đại Bồ Tát nào không học các pháp ấy thì nhất định không thể chứng được Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì nếu đại Bồ Tát đối với tất cả pháp không thể biết hết thì không thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác được.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp tự tánh đều Không thì chúng đại Bồ Tát làm sao học tất cả pháp? Làm sao Thế Tôn đối với pháp không hý luận mà phát sanh hý luận? Nghĩa là có pháp này, pháp kia, do đây, vì đây. Pháp này là thế gian, pháp kia là xuất thế gian; pháp nọ là hữu lậu, là vô lậu; là hữu vi, là vô vi; đây là pháp phàm phu, đây là pháp Dự lưu. Nói rộng, cho đến đây là pháp Bồ Tát, đây là pháp chư Phật.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Các pháp sở hữu tự tánh đều Không. Nếu tất cả pháp tự tánh chẳng Không thì các đại Bồ Tát làm sao chứng đắc Nhất thiết trí trí, vì tất cả pháp tự tánh đều Không, nên đại Bồ Tát nhất định chứng đắc Nhất thiết trí trí. Cũng như ông đã nói: Nếu tất cả pháp tự tánh đều Không thì chúng đại Bồ Tát làm sao học tất cả pháp, nói rộng cho đến đây là pháp Bồ Tát, pháp chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Các hữu tình nào biết tất cả pháp tự tánh đều không thì các đại Bồ Tát không cần học tất cả pháp, cũng không cần chứng Nhất thiết trí trí và vì các hữu tình mà giảng thuyết, khai thị làm gì. Bởi vì các hữu tình không biết các pháp tự tánh đều Không, nên đại Bồ Tát nhất định phải học tất cả pháp và phải chứng được Nhất thiết trí trí, vì các hữu tình mà giảng thuyết khai thị.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát khi mới tu học, đối với Bồ Tát đạo nên quán sát kỹ các pháp tự tánh đều bất khả đắc, chỉ có hư dối phân biệt tạo ra. Chúng ta quán sát các pháp tự tánh đều hoàn toàn không, không nên ở trong ấy sanh chấp thủ. Nghĩa là không nên chấp thủ sắc, cũng không nên chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng cho đến không nên chấp thủ tất cả Bồ Tát hạnh, cũng không nên chấp thủ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật. Vì sao? Vì tất cả pháp tự tánh đều Không, tánh Không chẳng nên chấp trước. Trong Không, tánh Không còn bất khả đắc, huống là tánh Không làm sao chấp trước cái Không được.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát khi quán sát tất cả pháp như vậy, đối với các pháp tánh, tuy không chấp trước nhưng đối với các pháp thường siêng tu học, chưa từng nhàm chán.

Đại Bồ Tát này an trụ trong đây, tu học quán sát tâm hành của các hữu tình sai khác. Nghĩa là quán sát tâm hành của các hữu tình này ở chỗ nào, đã quán sát rồi, như thật biết rõ tâm của chúng chỉ hành nơi hư vọng, phân biệt, chấp trước. (Q.535, ĐBN)

Bấy giờ, Bồ Tát suy nghĩ: Tâm hành này đã hành chỗ hư vọng, phân biệt, chấp trước. Ta độ chúng giải thoát, nhất định không khó. Đại Bồ Tát này nghĩ rồi an trụ Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo dạy bảo giáo giới các hữu tình: “Nay các ngươi nên xa lìa chỗ hư vọng, phân biệt, chấp trước, đạt đến chánh pháp, tu các hạnh lành”.

Lại nói: “Nay các ngươi nên hành bố thí, sẽ được tài sản đầy đủ, nhưng đừng ỷ lại, sanh tâm kiêu mạn, buông lung. Vì sao? Vì trong đây đều không chắc thật. Nay các ngươi nên hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật sẽ được các thứ công đức đầy đủ, nhưng đừng ỷ lại, sanh tâm kiêu mạn, buông lung. Vì sao? Vì trong đây đều không chắc thật. Nói rộng, cho đến ngày nay các ngươi nên hành quả Dự lưu cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và vô lượng vô biên các Phật pháp khác, nhưng đừng ỷ lại, sanh tâm kiêu mạn, buông lung. Vì sao? Vì trong đây đều không chắc thật”.

Đại Bồ Tát này khi an trụ Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo dạy bảo giáo giới các hữu tình hành Bồ Tát đạo, tâm không còn chấp trước. Vì sao? Vì tất cả pháp tánh không nên chấp trước, hoặc mình chấp, hoặc đối tượng để chấp đều vô tự tánh. Vì tất cả pháp tự tánh đều Không.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bồ Tát đạo, đối với tất cả pháp đều không chỗ trụ. Đem không chỗ trụ mà làm phương tiện, tuy hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, nhưng ở trong ấy đều không chỗ trụ. Nói rộng, cho đến tuy hành Bồ Tát hạnh, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật và vô lượng vô biên các Phật pháp khác, nhưng ở trong ấy đều không chỗ trụ. Vì sao? Vì tự tánh như thế, người hành, tướng được hành, tất cả đều Không, nên ở trong ấy đều không chỗ trụ.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát tuy có thể chứng đắc quả Dự lưu, nói rộng cho đến Độc giác Bồ đề, nhưng ở trong ấy không muốn chứng trụ. Vì sao? Vì có hai lý do: Một là quả kia đều không tự tánh, người trụ, chỗ trụ đều bất khả đắc; hai là đối với chỗ trụ không sanh vui mừng, không cho là đủ. Vì vậy, ở trong ấy không muốn chứng trụ. Nghĩa là chúng đại Bồ Tát thường suy nghĩ: Ta nhất định phải chứng đắc quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề, không thể không được, nhưng ở trong ấy không nên chứng trụ. Vì sao? Vì ta từ lúc mới phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đến nay, trong thời gian ấy không có lúc nào sanh ý tưởng khác, chỉ một lòng cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ta nhất định sẽ chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không thể nửa chừng an trụ trong các quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này từ lúc mới phát tâm cho đến khi nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh không có ý tưởng nào khác, chỉ cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này từ khi nhập sơ địa cho đến thập địa không có ý tưởng nào khác, chỉ cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này chuyên tâm cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không có lúc nào sanh tâm tán loạn. Nếu có khởi các nghiệp nơi thân, khẩu, ý thì cũng đều cùng tương ưng với tâm Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này trụ Bồ đề tâm, phát sanh Bồ đề đạo, không bị các việc khác làm rối loạn nơi tâm. (Q.535, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp hoàn toàn không sanh thì làm sao chúng đại Bồ Tát phát sanh Bồ đề đạo?

Phật bảo:

- Đúng vậy! Đúng như ngươi nói! Tất cả pháp đều chẳng sanh, hoạt động, tạo tác của thân, khẩu, ý nghiệp hoàn toàn tương ưng với tâm Bồ đề.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có phải chư Phật xuất hiện ở đời, hoặc không xuất hiện thì pháp tánh, pháp giới các pháp vẫn thường trụ không?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Nhưng các hữu tình không hiểu rõ được pháp tánh các pháp là thường trụ, nên luân hồi sanh tử, chịu các khổ não. Các đại Bồ Tát vì làm lợi ích cho hữu tình nên phát sanh Bồ đề đạo. Nhờ Bồ đề đạo làm cho hữu tình giải thoát hoàn toàn các khổ sanh tử, chứng được Niết bàn thanh tịnh an vui.

 

(Đại Bồ Tát làm thế nào chứng được Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác?)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát nhờ dùng đạo nào để phát sanh Bồ đề?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Không phải!

- Bạch Thế Tôn! Không dùng đạo để phát sanh Bồ đề chăng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Không phải

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nhờ dùng đạo hay vô đạo để phát sanh Bồ đề chăng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Không phải!

- Bạch Thế Tôn! Nhờ chẳng phải đạo chẳng phải vô đạo để phát sanh Bồ đề chăng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Không phải!

Cụ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thì đại Bồ Tát làm thế nào để chứng được Bồ đề?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Bồ đề không do đạo hay chẳng phải đạo mà đắc. Vì sao? Vì Bồ đề tức là đạo, đạo tức là Bồ đề. Vì vậy, không do đạo hay chẳng phải đạo mà đắc.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ đề tức là đạo, đạo tức là Bồ đề thì đại Bồ Tát đã đạt được Bồ đề đạo, không thể không đạt được. Nếu vậy, lý do nào Thế Tôn lại vì các Bồ Tát nói Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp và vô lượng vô biên các Phật pháp khác, làm cho họ tu chứng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Ngươi cho Phật đạt Bồ đề chăng?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không có! Vì sao? Vì Phật tức là Bồ đề, Bồ đề tức là Phật, nên không nói Phật đạt Bồ đề.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Nhưng ông đã hỏi: Đại Bồ Tát đã đạt được Bồ đề đạo, không thể không đạt được.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát tu Bồ đề đạo chưa được viên mãn, làm sao nói đạt được Bồ đề?

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát nào đã viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến Nhất thiết tướng trí và vô lượng vô biên các Phật pháp khác. Từ đây không gián đoạn, dùng Kim cang dụ định trong một sát na tương ưng với Bát nhã, đoạn trừ vĩnh viễn các tập khí tương tục của hai tướng thô trọng là phiền não chướng và sở tri chướng, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối với tất cả pháp được đại tự tại. (Q.535, ĐBN)

 

(Thế nào là nghiêm tịnh cõi Phật)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nghiêm tịnh cõi Phật là như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát từ lúc mới phát tâm cho đến khi rốt ráo, thường tự thanh tịnh ba nghiệp thô trọng thân, ngữ, ý; cũng làm cho người khác thanh tịnh ba nghiệp thô trọng thân, ngữ, ý mới có thể nghiêm tịnh cõi Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát thường tự thanh tịnh ba nghiệp thô trọng thân, ngữ, ý là như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu sát hại sanh mạng, lấy của không cho, làm việc tà hạnh, ba việc bất thiện này gọi là thân nghiệp thô trọng của Bồ Tát. Hoặc nói lời dối trá, lời chia rẽ, lời thô tục, lời tạp uế, bốn điều bất thiện này gọi là ngữ nghiệp thô trọng của Bồ Tát. Hoặc tham dục, sân hận, tà kiến, ba điều bất thiện này gọi là ý nghiệp thô trọng của Bồ Tát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào còn xan tham, phá giới, sân giận, giải đãi, tán loạn, ác tuệ, cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào mà giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát trí kiến uẩn đều không được thanh tịnh cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào xa lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo. Nói rộng, cho đến xa lìa tất cả Bồ Tát hạnh, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào tham đắm quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào tưởng sắc uẩn cho đến thức uẩn cũng gọi là thô trọng. Nói rộng cho đến tưởng tất cả Bồ đề đạo và tưởng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng gọi là thô trọng. Tưởng phàm phu, tưởng Thanh văn, tưởng Độc giác, tưởng Bồ Tát, tưởng Như Lai cũng gọi là thô trọng. Tưởng địa ngục, tưởng bàng sanh, tưởng ngạ quỷ, tưởng người, tưởng trời, tưởng nam, tưởng nữ cũng gọi là thô trọng. Tưởng cõi Dục, tưởng cõi Sắc, tưởng cõi Vô sắc cũng gọi là thô trọng. Tưởng thiện, tưởng phi thiện, tưởng hữu lậu, tưởng vô lậu, tưởng thế gian, tưởng xuất thế gian, tưởng hữu vi, vô vi cũng gọi là thô trọng.

Thiện Hiện nên biết! Như vậy, vô lượng, vô biên các sự chấp trước của các pháp và các hữu tình hư vọng, phân biệt cùng chỗ phát sanh, các nghiệp thân, ngữ, ý và những chủng loại hư vọng khác mà hữu tình không thể kham nhận nỗi đều gọi là thô trọng. Các đại Bồ Tát đối với thô trọng này đều nên xa lìa. (Q.535, ĐBN)

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật, xa lìa sự thô trọng đã nói ở trên, tự mình hành bố thí Ba la mật, cũng khuyên người khác hành bố thí Ba la mật. Nên các hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần vật dụng cho vật dụng, tùy nơi, tùy lúc, tùy vật dùng đều bố thí cho họ. Như tự mình đã hành các pháp bố thí, khuyên người khác cũng hành như vậy. Bố thí như thế rồi, đem căn lành này bình đẳng ban cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho mau được viên mãn, lợi ích an vui cho hữu tình. Đại Bồ Tát này tự mình hành tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật, cũng khuyên người khác thực hành tịnh giới cho đến Bát nhã Ba la mật. Làm việc này rồi, đem căn lành này bình đẳng ban cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật, làm cho mau được viên mãn, lợi ích an vui cho hữu tình.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào dùng sức thần thông, hoằng nguyện chứa đầy bảy báu thượng diệu khắp tam thiên đại thiên thế giới, cúng dường Phật, Pháp, Tăng và tháp của Phật. Cúng rồi, vui mừng phát thệ nguyện rộng: “Tôi đem căn lành như thế này bình đẳng ban cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở, làm cho thế giới tôi cũng được trang nghiêm bằng bảy báu, tất cả hữu tình tùy ý thọ dụng các thứ ngọc báu mà không tham đắm”.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào dùng sức thần thông, thệ nguyện trổi vô lượng âm nhạc vi diệu trong cõi trời, người cúng dường Tam bảo và tháp Phật; cúng dường rồi vui mừng phát thệ nguyện rộng lớn: “Tôi đem căn lành như thế này bình đẳng ban cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở, làm cho quốc độ của tôi thường được trổi các thứ âm nhạc vi diệu như thế. Hữu tình khác được nghe, thân tâm vui vẻ nhưng không tham đắm”.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào dùng sức thần thông, thệ nguyện chứa đầy các thứ phẩm vật, hương hoa tươi đẹp ở cõi trời người khắp tam thiên đại thiên thế giới cúng dường Tam bảo và tháp Phật. Cúng dường rồi vui mừng phát nguyện rộng lớn: “Tôi đem căn lành như thế này bình đẳng ban cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở và cũng làm cho cõi tôi thường có các thứ hương hoa tươi đẹp như thế, làm cho hữu tình khác thọ dụng, thâm tâm vui mừng nhưng không tham đắm”.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào dùng sức thần thông, thệ nguyện sắm sửa trăm vị thức ăn nước uống thượng hạng cúng dường chư Phật, Độc giác, Thanh văn và chúng đại Bồ Tát. Cúng dường rồi vui mừng phát nguyện rộng lớn: “Tôi đem căn lành như thế này bình đẳng ban cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở. Khi tôi được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sẽ độ các loài hữu tình trong cõi nước tôi cũng đều được trăm vị thức ăn nước uống như vậy, thân tâm vui mừng nhưng không tham đắm”.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào dùng sức thần thông, thệ nguyện sắm sửa các thứ hương bột thơm tho, y phục mềm dịu ở cõi trời, cõi người dâng cúng chư Phật, Độc giác, Thanh văn và chúng đại Bồ Tát. Cúng dường rồi vui mừng phát nguyện rộng lớn: “Tôi đem căn lành như thế này bình đẳng ban cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở. Khi tôi được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sẽ độ các loài hữu tình trong cõi nước tôi thường được y phục, hương bột như thế tùy ý thọ dụng nhưng không tham đắm”.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào dùng sức thần thông, thệ nguyện sắm sửa các món trang nghiêm, tùy ý sanh ra năm thứ diệu dục trong cảnh giới trời, người dâng cúng dường chư Phật và tháp Phật, Độc giác, Thanh văn và chúng đại Bồ Tát và các hữu tình. Cúng rồi vui mừng phát nguyện rộng lớn: “Tôi đem căn lành như thế này bình đẳng ban cho các hữu tình đều cùng hồi hướng nghiêm tịnh cõi Phật đang ở. Khi tôi được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sẽ độ các loài hữu tình trong cõi nước tôi tùy tâm ưa thích các cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc thượng diệu, vừa nghĩ liền có hiện đến, vui mừng thọ dụng nhưng không tham đắm”.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào hành sâu Bát nhã Ba la mật, dõng mãnh, chánh cần phát hoằng thệ nguyện, tự mình trụ pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không; cũng khuyên người khác trụ vào nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không. Nói rộng, cho đến tự mình tu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng khuyên người khác tu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Làm việc này rồi, phát thệ nguyện: “Khi tôi chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề sẽ độ các loài hữu tình trong cõi nước tôi thường không xa lìa các thứ công đức như thế”.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, nhờ hành hạnh nguyện này nên có thể nghiêm tịnh cõi Phật. (Q.535, ĐBN)

Thiện Hiện nên biết! Chúng đại Bồ Tát này tùy theo thời gian hành Bồ đề đạo được bao nhiêu, thì được viên mãn phát sanh hạnh nguyện tinh tấn tu học bấy nhiêu. Nhờ nhân duyên này nên tự mình được thành tựu tất cả thiện pháp, cũng có thể làm cho người khác tuần tự thành tựu tất cả thiện pháp. Tự mình có thể tu được tướng hảo thù thắng để trang nghiêm thân, cũng giúp cho người khác được tuần tự tu tướng hảo thù thắng để trang nghiêm thân. Vì nhờ phước đức rộng lớn giúp đỡ hộ trì.

Thiện Hiện nên biết! Hạnh nguyện tu hành của chúng đại Bồ Tát này được viên mãn rồi, đều làm trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật chỗ mình đang ở. Khi Bồ Tát chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, các loài hữu tình đã được giáo hóa cũng được sanh vào cõi ấy, cùng hưởng pháp lạc Đại thừa và sanh vào cõi tịnh độ. (Q.535, ĐBN)

Lại nữa, này Thiện Hiện! Chúng đại Bồ Tát nên tu trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật như thế, nghĩa là trong quốc độ ấy thường không nghe có ba đường ác, cũng không nghe có ác kiến, không nghe có ba độc tham, sân, si, không nghe có hình tướng nam nữ, không nghe có Thanh văn, Độc giác, không nghe có vô thường, khổ v.v... các việc không được như ý, không nghe có giữ gìn đồ vật, không nghe chấp có ngã và ngã sở, không nghe có sự tùy miên, ràng buộc, không nghe có sự chấp trước điên đảo và cũng không nghe có quả vị và sự hoạt động khác nhau của loài hữu tình. (Q.536, ĐBN)

Chỉ nghe tiếng nói không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vô tánh v.v... Nghĩa là tùy theo ý muốn khác nhau của hữu tình, cũng như cây trong rừng khi có gió nhẹ thì các vật trong ngoài đều khua động với nhau, phát sanh các thứ âm thanh vi diệu. Trong âm thanh phát ra tất cả pháp âm đều vô tự tánh. Vì vô tự tánh cho nên Không. Vì Không nên vô tướng. Vì vô tướng nên vô nguyện. Vì vô nguyện nên vô sanh. Vì vô sanh nên vô diệt. Do vậy, các pháp bản tánh vắng lặng, tự tánh Niết bàn. Dù Như Lai có ra đời hay không ra đời thì pháp tánh, pháp nhĩ, các pháp vẫn thường trụ, nghĩa là tất cả pháp vô tánh đều Không. Các loài hữu tình trong cõi Phật kia, dù là ngày hay đêm, lúc đi đứng, lúc nằm ngồi vẫn thường nghe âm thanh vi diệu như vậy.

Thiện Hiện nên biết! Chúng đại Bồ Tát này đều trụ vào cõi Phật nghiêm tịnh đang ở. Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khắp mười phương đều đồng khen ngợi danh hiệu của từng vị Phật kia. Các hữu tình nào được nghe danh hiệu của các vị Phật ấy thì đối với quả vị Vô thượng Bồ đề không hề thối chuyển.

Chúng Đại Bồ Tát này đều trụ vào cõi Phật nghiêm tịnh đang ở. Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề, vì các hữu tình mà giảng thuyết Chánh pháp. Các hữu tình nghe rồi nhất định không còn sanh nghi ngờ là pháp hay phi pháp Vì sao? Vì các loài hữu tình kia đạt được tất cả pháp, đều tức là chơn như, pháp giới, pháp tánh, tất cả là pháp, không phải phi pháp.

Như vậy, này Thiện Hiện! Chúng đại Bồ Tát này đều có thể nghiêm tịnh được cõi Phật như vậy.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Chúng đại Bồ Tát này giáo hóa hữu tình chưa đủ các thiện căn, chưa trồng nhiều thiện căn đối với chư Phật, Bồ Tát, Độc giác và Thanh văn, nên bị ác tri thức khuyến dụ. Vì xa lìa bạn lành nên không nghe Chánh pháp, thường bị các kiến chấp về ngã, hữu tình và bị thu nhiếp trong các kiến thú, rơi vào nhị biên là đoạn và thường.

Các loài hữu tình ấy tự mình phát sanh tà chấp, cũng thường dạy người khác phát sanh tà chấp. Đối với chẳng phải Tam bảo mà tưởng là Tam bảo, đối với Tam bảo cho là không Tam bảo. Phỉ báng Chánh Pháp, khen ngợi tà pháp. Do nhân duyên này, sau khi qua đời đọa vào ba đường ác, chịu nhiều sự khổ. (Q.536, ĐBN)

Chúng đại Bồ Tát này an trụ vào thế giới của mình, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thấy các hữu tình luân hồi trong sanh tử, chịu vô lượng sự khổ, nên dùng sức thần thông phương tiện giáo hóa làm cho chúng xả bỏ tà kiến, trụ trong chánh kiến, ra khỏi ác thú, sanh vào nhơn đạo. Lại dùng các thứ thần thông phương tiện giáo hóa làm cho chúng an trụ trong chánh định, hoàn toàn không bị đọa vào các đường ác, tu tập căn lành thù thắng, sau khi qua đời được sanh vào cõi Phật nghiêm tịnh, hưởng thọ pháp lạc Đại thừa nơi cõi tịnh.

Như vậy, này Thiện Hiện! Chúng đại Bồ Tát này đều có thể nghiêm tịnh được cõi Phật như vậy. Nhờ chỗ ở được nghiêm tịnh nên các loài hữu tình kia đối với tất cả pháp không sanh hư vọng phân biệt, nghi ngờ, nói đây là pháp thiện, đây là pháp phi thiện; đây là pháp hữu ký, đây là pháp vô ký; đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian; đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu; đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi v.v… Các sự phân biệt, nghi ngờ như vậy hoàn toàn không sanh. Do nhân duyên này, loài hữu tình kia nhất định chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình.

Thiện Hiện nên biết! Đây là tướng công đức nghiêm tịnh cõi Phật, đại Bồ Tát làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình. (Q.536, ĐBN)

 

Sơ giải:

 

Phẩm “Phật Quốc” của Hội thứ III này tương đối ngắn dễ hiểu, lại tương đương với phẩm “Đạo Sĩ” của Hội thứ II hay phẩm “Nghiêm Tịnh Cõi Phật”của Hội thứ I, Quý vị có thể quay lại đọc tụng nếu muốn.

 

---o0o---

 

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2595)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5765)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 113076)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5927)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5968)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6538)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12308)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8478)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14693)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25121)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567