Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Phẩm "Phó Chúc"

28/01/202112:39(Xem: 5736)
17. Phẩm "Phó Chúc"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-548

 

XVII. PHẨM PHÓ CHÚC.

Phần cuối quyển 573, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương với phẩm 16: Giao Phó, Kinh TTVBN)

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

  

Tóm lược:

 

Bấy giờ, Phật bảo A Nan Đà:

- Ông nên thọ trì Bát Nhã thâm sâu, chớ để quên mất.

A Nan Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thọ trì Kinh điển này như thế nào?

Phật bảo A Nan Đà:

- Thọ trì Kinh này có mười phương pháp: 1. Biên chép, 2. Cúng dường, 3. Dạy cho người khác, 4. Lắng nghe, 5. Tìm đọc, 6. Thọ trì, 7. Giảng rộng, 8. Phúng tụng(1), 9. Suy nghĩ, 10. Tu tập.

Dựa vào mười pháp đó mà thọ trì Kinh này. Thí như ở thế gian, tất cả cỏ cây, hoa, quả, thuốc v.v... đều nương vào đại địa. Cũng vậy tất cả pháp lành thù thắng đều dựa vào Bát nhã Ba la mật. Như vua Chuyển luân nếu trụ ở đời thì bảy báu luôn xuất hiện. Bát Nhã thâm sâu cũng lại như thế, nếu trụ ở đời thì Tam bảo không bị diệt.

Khi ấy, đại chúng cùng lúc nhìn vào khuôn mặt Thế Tôn, rồi nói rằng:

- Sau khi Như Lai diệt độ, ai có thể gánh vác trọng trách đại pháp của Thế Tôn? Nghĩa là vị ấy phải trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp tu tập mới được quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Trong chúng có một vạn hai ngàn Bồ Tát vì hộ pháp này liền đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính, nói kệ:


Chúng con bỏ thân mạng,
Chẳng cầu báo vị lai,
Hộ trì lời Phật dạy,
Chánh pháp thâm sâu này.

 

Trong chúng có năm trăm Thiên tử do Hiền Vương dẫn đầu, cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính, nói kệ:


Vì độ các hữu tình,
Thành tựu nguyện đại bi.
Hộ trì lời Phật dạy,
Chánh pháp thâm sâu này.

Lúc ấy, Trời Đế Thích, Phạm vương Trì Kế, Tỳ sa môn vương đều từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính, nói kệ:


Thuốc Bát Nhã nhiệm mầu,

Trị được tất cả bệnh.

Thế Tôn nay đã nói,

Chúng con xin thọ trì.

 

Thần cầm chày Kim cang cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính nói kệ:


Pháp vốn không danh tự,
Phật dùng danh tự nói.
Đại bi chơn giáo pháp,
Chúng con xin thọ trì.

 

Bấy giờ, Phật bảo Phạm vương Trì Kế:

- Phạm thiên nên biết! Phật khen ba việc rất là vô thượng. Những gì là ba? 1. Phát Bồ đề tâm, 2. Hộ trì chánh pháp, 3. Như giáo pháp tu hành.

Ba pháp này thật là vô thượng. Người nào tu hành được mới là chơn cúng dường Phật. Nếu Ta trụ ở đời một kiếp, hoặc hơn một kiếp, nói công đức ấy cũng không thể hết. Hộ trì Như Lai bằng một bài kệ bốn câu, công đức ấy nói còn không hết, huống gì hộ trì Bát Nhã thâm sâu, là mẹ ba đời chư Phật. Vì sao? Vì chư Phật ba đời đều từ Bát nhã Ba la mật mà sanh ra, dùng pháp cúng dường là chơn cúng dường Phật. Nếu dùng tiền của thì chẳng phải chơn cúng dường. Nên cúng dường pháp là cúng dường tối thượng nhất. Nếu người nào hộ trì chánh pháp của Phật, phải biết người ấy an lạc ba đời. (Q.573, ĐBN)

Thế nên, Phạm thiên! Phải thường ủng hộ Bát Nhã thâm sâu. Nhờ hộ trì pháp, ngươi sẽ được gặp ngàn đức Phật trong Hiền kiếp và được thỉnh làm chủ. Phạm thiên nên biết! Ở cõi uế trược này, hộ trì chánh pháp trong giây lát, công đức đạt được còn hơn ở cõi Tịnh, hoặc một kiếp hay hơn một kiếp. Thế nên ngươi phải siêng năng hộ trì chánh pháp.

Thế Tôn lại bảo trời Đế Thích:

- Kiều thi ca! Bát Nhã sanh ra ở chỗ nào thì Như Lai sanh ra, chứng quả Bồ đề, chuyển pháp luân và nhập Niết bàn cũng ở đó. Vì sao? Kiều thi ca! Vì tất cả Bồ Tát, tất cả pháp lành, tất cả Như Lai đều từ đây mà sanh. Nếu có Pháp sư nào tuyên thuyết Bát Nhã thâm sâu này thì chỗ ấy chính là chỗ Phật đã đi. Ở chỗ pháp sư, các loài hữu tình phải sanh tâm tôn trọng và gần gũi như Phật, vui mừng, cung kính, cúng dường, ngợi khen. Nếu Ta trụ ở đời 1 kiếp hay hơn 1 kiếp, nói về công đức mà Pháp sư đây đã truyền bá Kinh này cũng không thể hết.

Kiều thi ca! Khi Pháp sư này đi đến chỗ nào, có thiện nam thiện nữ chích máu rưới xuống đất để khỏi tung bụi. Cúng dường như vậy vẫn chưa gọi là nhiều. Vì sao? Vì pháp luân vô thượng khó thọ trì vậy.

Trời Đế Thích thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Trong đời vị lai, chỗ nào thuyết Kinh này, con và quyến thuộc đều ủng hộ vị Pháp sư và bảo vệ địa phương ấy. Nếu thấy Kinh này để ở chỗ nào liền sanh tâm như bốn chỗ đã nói ở trước.

Bấy giờ, Thế Tôn khen trời Đế Thích:

- Lành thay! Lành thay! Ta đem Kinh này giao phó và dặn dò ngươi. Đời sau, ngươi phải ủng hộ lưu truyền.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chư thiên chúng con được sanh vào cảnh giới an lành đều nhờ Bát nhã Ba la mật; phát Bồ đề tâm cũng nhờ vào đây. Thế nên, chúng con chẳng tiếc thân mạng, ủng hộ giáo pháp thâm sâu của Thế Tôn.

Phật lại khen trời Đế Thích:

- Hay thay! Hay thay! Hãy làm như đã nói.

Khi đức Thế Tôn thuyết Kinh này rồi, Thiên vương Tối Thắng và các đại Bồ Tát trong mười phương cõi, tất cả Thanh văn, trời, rồng, Dược xoa, Kiện đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạt hô lạc già, người chẳng phải người v.v... nghe Phật thuyết đều rất vui mừng, tin nhận phụng hành.

 

Thích nghĩa:

(1). Phúng tụng: (諷誦) Cũng gọi Tụng kinh, Phúng kinh, Phúng đọc, Đọc kinh. Tức đọc tụng văn kinh và tán vịnh các câu kệ. Phúng tụng vốn là 1 trong 6 hành pháp (Phạm:Wai karmàịi) của người Bà la môn Ấn độ thực hành, về sau, tín đồ Phật giáo cũng dùng pháp này. Phúng tụng kinh điển cúng dường Tăng, gọi là Phúng cúng. Trong Thiền lâm, tùy theo đối tượng, thời gian, trường hợp khác nhau mà Phúng Kinh được chia ra nhiều loại. Như mỗi ngày 3 thời dùng cháo, thụ trai và ngồi thiền xong, chúng Tăng lên điện phúng kinh, gọi là Tam thời phúng kinh; mỗi tháng vào các ngày Mồng 1, ngày Rằm có Chúc thánh phúng kinh, Ứng cúng phúng kinh. Ngoài ra còn có Bán trai phúng kinh, Nhật trung phúng kinh, Thổ địa đường phúng kinh, Tổ đường phúng kinh, Vi đà thiên phúng kinh, Triêu khóa phúng kinh, Vãn khóa phúng kinh... (Phỏng theo Phật Quang từ điển).

 

Sơ giải:

 

1. Cũng như các Hội trước, Phật phó chúc Ngài A Nan Kinh Đại Bát Nhã Ba la mật này: Hãy đọc tụng thọ trì chẳng để quên mất. Rồi Phật dạy Ngài A Nan 10 pháp thọ trì là: 1. Biên chép, 2. Cúng dường, 3. Dạy cho người khác, 4. Lắng nghe, 5. Tìm đọc, 6. Thọ trì, 7. Giảng rộng, 8. Phúng tụng, 9. Suy nghĩ, 10. Tu tập.

Chín phương pháp này chúng ta đã chấp hành một cách nghiêm chỉnh rồi, chỉ còn phương pháp thứ mười là “tu tập”. Đó phương pháp cần yếu nhất cho sự chứng đắc và giác ngộ. Có một câu nói mà chúng ta cần lưu ý là “học nhiều mà không tu thì chẳng khác nào cái đãy đựng sách”. Vậy câu nói trên mà Phật nhắn nhủ Ngài A Nan cũng là để nhắc nhở chúng ta, nên chấp hành một cách nghiêm chỉnh.

 

2. Nhưng ở đây có một chi tiết khác với các lần phó chúc trước là Phật giao cho Trời Đế Thích vai trò hộ trì chánh pháp (thay vì Ngài A Nan) với lời khuyến dẫn như sau:

“Thế nên, Phạm thiên! Phải thường ủng hộ Bát Nhã. Nhờ hộ trì pháp, ngươi sẽ được gặp ngàn đức Phật trong Hiền kiếp và được thỉnh làm chủ. Phạm thiên nên biết! Ở cõi uế trược này, hộ trì chánh pháp trong giây lát, công đức đạt được còn hơn ở cõi Tịnh, hoặc một kiếp hay hơn một kiếp. Thế nên ngươi phải siêng năng hộ trì chánh pháp”.

 

---o0o---

 

 

Đến đây chấm dứt phần sáu,

(Hội thứ VI).

 

Trong phần bố cục Đại Bát Nhã chúng tôi có nói: “Không phải nhóm của Ngài Huyền Trang dịch tất cả 600 quyển Đại Bát Nhã”. Trong số 600 quyển Đại Bát Nhã chỉ có 481 quyển thuộc các Hội 1, 3, 5, 11, 12, 13, 14, 15 và 16 (9 Hội) là do chính nhóm của Ngài Huyền Trang dịch; các Hội còn lại: 2, 4, 6, 7, 8, 9, 10 (7 Hội) đã có các vị đi trước dịch rồi và nhóm của Ngài Huyền Trang chỉ sao lại, gồm 119 quyển. Vì vậy, khi so chiếu Hội thứ VI của Đại Bát Nhã do nhóm của Ngài Huyền Trang sao lại với Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã do Ngài Nguyệt Bà Thủ Na dịch, hai Kinh rất tương xứng nhau! Vì vậy, một số học giả mới cho rằng nhóm của Ngài Huyền Trang dịch chỉ có 481 quyển, ngoài ra 119 quyển còn lại, là sao chép lại các Kinh khác đã được dịch từ trước.

Văn phong của Hội thứ VI thật bình dị, gần gũi với chúng ta, tuy giáo lý có thay đổi đôi chút. Cái thay đổi đáng chú ý của Hội này là chia giáo pháp “Chân Như hay Chơn như” làm ba phẩm khác nhau là Pháp giới, Pháp tánh và Bình đẳng tánh. Sự phân chia này làm nổi bậc ý nghĩa riêng biệt của các giáo lý vi diệu này. Dẫu vậy, pháp thể vẫn không khác chỉ tên gọi có khác, nhưng phạm trù thể tánh chỉ là một. Vì sao? Vì khi Kinh nói đến pháp giới, pháp tánh hay bình đẳng tánh cũng đề cập đến chơn như, nghĩa là không ra ngoài thập nhị chơn như.

Ngoài ra, các giáo lý khác, phần lớn giống như năm Hội trước. Nên có thể nói “sáu Hội đầu gần giống nhau”, chỉ khác là Hội thứ VI Phật dạy Đại Bát Nhã cho riêng Thắng Thiên Vương mà thôi.

Vì giáo lý của Hội thứ VI tương đương với năm Hội đầu, nên chúng tôi chỉ sơ lược hơn là đi sâu vào chi tiết. Những điều Phật dạy Thắng Thiên Vương trong Hội này cũng là những chỉ dẫn cần thiết để ôn lại các giáo lý chánh của năm Hội trước đây mà thôi. Điểm cần nhấn mạnh trong pháp hội này là Phật thuyết nhiều về tịnh hạnh, các pháp tu rất cần thiết đối với người tu Bồ Tát đạo hay Bồ Tát hạnh.

Pháp hội này Phật trao chánh giáo pháp tạng cho Thắng Thiên Vương cũng chính là Phật trao chánh giáo pháp tạng cho chúng ta. Vậy, phải đọc tụng, thọ trì thật kỹ nhất là thập nhị chân như, lục độ vạn hạnh và tất cả các pháp mầu Phật đạo mới có cơ hội chứng ngộ như Thắng Thiên Vương! Nếu chúng ta bỏ qua, không thọ trì pháp hội này, chúng ta sẽ an hận, bỏ mất cơ hội lớn. Pháp hội thứ VI quá ngắn nhưng giáo lý lại quá vi diệu, sâu mầu.

Đọc tụng hết sáu Hội trên, có thể chúng ta tuy không hiểu trọn vẹn những gì đã học, nhưng ít ra cũng có ý niệm “chung chung” về Bát nhã Ba la mật rồi. Nhưng đối với Hội thứ VII tiếp theo, sẽ cho chúng ta một lối lãnh hội khác hẳn.

 

Hội thứ VII “lật úp” tất cả những gì chúng ta đã học ở trên, nhưng lại nâng chúng ta lên một trình độ mới. Và chúng ta sẽ mở con mắt đạo với những nghịch đảo táo bạo của nó. Đại Bát Nhã nói “Những hạng phàm phu thuận dòng thế gian, còn người thuận chánh lý thì nghịch dòng thế gian... !”

Vậy, muốn hiểu Hội thứ VII, chúng ta phải thực hiện một “bước nhảy”. Có thế chúng ta mới lột xác, đổi thể hay chuyển y. Và cũng như Thiền sư Viên Ngộ nói “đại tử nhất phiên”, phải một lần chết mới sống lại mãi mãi được chí đến thời gian vô cùng tận. Có thể chúng tôi quá lời, nhưng chắc chắn Hội thứ VII hứa hẹn sẽ dẫn chúng ta đến chỗ này. Lối thuyết pháp của Hội thứ VII không khích lệ, không kêu gọi hay khuyên lơn mà là lối thuyết “đốn ngộ” chẳng khác nào như tiếng hét của Thiền sư, đánh thẳng vào cân não để thức tỉnh tâm ngái ngủ ngàn đời của chúng sinh.

Đây là “đốn pháp”, có thể để đưa chúng ta đến cảnh giới mới mà chúng ta chưa từng mơ ước! Hy vọng quý vị sẽ “tỉnh” ra với các giáo pháp táo bạo của Hội thứ VII này!

 

  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2595)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5765)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 113088)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5927)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5972)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6539)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12314)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8480)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14696)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25131)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567