Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

27. Phẩm “Cầu Bát Nhã” ( Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

19/06/202008:01(Xem: 8058)
27. Phẩm “Cầu Bát Nhã” ( Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

 
Pham Cau Bat Nha


TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 

 

PHẨM “CẦU BÁT NHÔ

 

Phần sau quyển 89 cho đến phần đầu quyển 98, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với một phần của phẩm “Tán Hoa”, quyển thứ 09, MHBNBLM)


Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu

Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên

Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le



 


 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, Thiên Đế Thích hỏi Xá Lợi Tử rằng: Bạch Đại đức! Sở hành Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát phải cầu ở đâu? Xá Lợi Tử nói: Kiều Thi Ca! Sở hành Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát phải cầu ở trong sở thuyết của Thiện Hiện.

Khi ấy, Thiên Đế Thích thưa Thiện Hiện rằng: Những điều mà Tôn giả Xá Lợi Tử vừa nói, phải chăng là thần lực của Đại đức? Đại đức là chỗ nương ư?

Thiện Hiện bảo rằng: Kiều Thi Ca! Đấy chẳng phải thần lực của tôi, tôi chẳng phải là chỗ nương.

Thiên Đế Thích thưa: Vậy, đó là thần lực của ai? Ai là chỗ nương?

Thiện Hiện trả lời: Đó là thần lực của Như Lai, Như Lai là chỗ nương.

Thiên Đế Thích nói: Bạch Đại đức! Tất cả pháp không có chỗ nương, làm sao cho lời đã nói của Xá Lợi Tử là thần lực Như Lai, Như Lai là chỗ nương?

Thiện Hiện bảo rằng: Kiều Thi Ca! Đúng như vậy. Như lời ngươi vừa nói, tất cả pháp không có chỗ nương. Vậy nên Như Lai chẳng phải chỗ sở nương, cũng không có sở nương. Chỉ vì tùy thuận thế tục mà thi thiết nói là chỗ nương.

Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa cái không chỗ nương có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa cái không chỗ nương có thể đắc Như Lai như(1), chẳng phải lìa cái không chỗ nương có thể đắc Như Lai pháp tánh, chẳng phải lìa cái không chỗ nương chơn như có thể đắc Như Lai như, chẳng phải lìa cái không chỗ nương pháp tánh có thể đắc Như Lai pháp tánh.

Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong cái không chỗ nương có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc cái không chỗ nương; chẳng phải trong chơn như không chỗ nương có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc chơn như không chỗ nương; chẳng phải trong pháp tánh không chỗ nương có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc pháp tánh không chỗ nương.

Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa sắc có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa sắc như có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa sắc pháp tánh có thể đắc Như Lai; chẳng phải lìa sắc có thể đắc Như Lai như, chẳng phải lìa sắc có thể đắc Như Lai pháp tánh.

Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong sắc có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc sắc; chẳng phải trong sắc như có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc sắc như; chẳng phải trong sắc pháp tánh có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc sắc pháp tánh.

Nhẫn đến tất cả pháp Phật cũng như vậy.

Kiều Thi Ca! Chẳng phải lìa Thanh văn thừa có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Độc giác thừa, Vô thượng thừa có thể đắc Như Lai; chẳng phải lìa Thanh văn thừa như có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Độc giác thừa như, Vô thượng thừa như có thể đắc Như Lai; chẳng phải lìa Thanh văn thừa pháp tánh có thể đắc Như Lai, chẳng phải lìa Độc giác thừa pháp tánh, Vô thượng thừa pháp tánh có thể đắc Như Lai.

Kiều Thi Ca! Chẳng phải trong Thanh văn thừa có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc Thanh văn thừa; chẳng phải trong Độc giác thừa, Vô thượng thừa có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc Độc giác thừa, Vô thượng thừa; chẳng phải trong Thanh văn thừa như có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc Thanh văn thừa như; chẳng phải trong Độc giác thừa như, Vô thượng thừa như có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc Độc giác thừa như, Vô thượng thừa như; chẳng phải trong Thanh văn thừa pháp tánh có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc Thanh văn thừa pháp tánh, chẳng phải trong Độc giác thừa pháp tánh, Vô thượng thừa pháp tánh có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc Độc giác thừa pháp tánh, Vô thượng thừa pháp tánh.

Nhẫn đến tất cả pháp Phật cũng như vậy.

Kiều Thi Ca! Như Lai đối với sắc chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng (2); đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai đối với sắc như chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; đối với thọ, tưởng, hành, thức như cũng chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng.

Kiều Thi Ca! Như Lai lìa sắc chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; lìa thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai lìa sắc như chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; lìa thọ, tưởng, hành, thức như cũng chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng.

Như Lai đối với sắc pháp tánh chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; đối với thọ, tưởng, hành, thức pháp tánh chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng.

Như Lai lìa sắc pháp tánh chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng; lìa thọ, tưởng, hành, thức pháp tánh cũng chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng.

Nhẫn đến tất cả pháp Phật cũng như vậy.

Kiều Thi Ca! Những điều mà Tôn giả Xá Lợi Tử đã nói là đối với tất cả pháp, chẳng phải ly, chẳng phải tức, chẳng hợp, chẳng tan, đó là  thần lực của Như Lai, Như Lai là chỗ nương, vì lấy cái không chỗ nương làm chỗ nương.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bảo trời Đế Thích: Kiều Thi Ca! Trước, ngươi đã hỏi về Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát tu hành, nên cầu ở chỗ nào?

Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát chẳng nên cầu Bát Nhã nơi sắc, chẳng nên cầu Bát Nhã nơi thọ, tưởng, hành, thức; cũng chẳng nên lìa sắc, chẳng nên lìa thọ, tưởng, hành, thức mà cầu Bát Nhã. Vì sao? Vì hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức; hoặc lìa sắc, hoặc lìa thọ, tưởng, hành, thức, hoặc đại Bồ Tát, hoặc Bát Nhã, hoặc cầu tất cả các thứ ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, chỗ gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát tu hành chẳng phải sắc, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức; chẳng phải là lìa sắc, chẳng phải lìa thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì tất cả các thứ ấy đều vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát tu hành chẳng phải sắc, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức; chẳng phải là lìa sắc, chẳng phải lìa thọ, tưởng, hành, thức. Vì vậy, nên đại Bồ Tát chẳng nên cầu Bát Nhã nơi sắc, chẳng nên cầu Bát Nhã nơi thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên lìa sắc, chẳng nên lìa thọ, tưởng, hành, thức mà cầu Bát Nhã.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát chẳng nên cầu Bát Nhã nơi 12 xứ, 18 giới, chẳng cầu Bát Nhã nơi Tứ đế, 12 nhân duyên, 18 pháp không, chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… Đại Bồ Tát chẳng nên cầu Bát Nhã nơi tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp Phật bất cộng. Đại Bồ Tát chẳng nên cầu Bát Nhã nơi Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí… cho đến chẳng nên cầu Bát Nhã nơi quả vị Giác ngộ tối cao. Các đại Bồ Tát cũng chẳng nên lìa Bát Nhã nơi 12 xứ 18 giới, chẳng lìa Bát Nhã nơi Tứ đế cho đến quả vị Giác ngộ tối cao.

Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật chẳng nên cầu cũng chẳng nên lìa ở tất cả pháp ấy. Vì sao? Vì các pháp ấy đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, chỗ gọi là vô tướng. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát tu hành chẳng phải Tứ đế cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, cũng chẳng phải lìa Tứ đế cho đến quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì tất cả các pháp ấy đều vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Vì vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được nên Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát tu hành chẳng phải Tứ đế cho đến quả vị Giác ngộ tối cao; cũng chẳng phải là lìa Tứ đế cho đến quả vị Giác ngộ tối cao. Vì vậy, nên Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu cũng chẳng nên lìa tất cả các pháp Phật nói trên.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi sắc như, chẳng nên cầu nơi thọ, tưởng, hành, thức như; chẳng nên lìa sắc như mà cầu, chẳng nên lìa thọ, tưởng, hành, thức như mà cầu.

Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật mà đại Bồ Tát tu hành chẳng nên cầu nơi sắc pháp tánh, chẳng nên cầu nơi thọ, tưởng, hành, thức pháp tánh; chẳng nên lìa sắc pháp tánh mà cầu, chẳng nên lìa thọ, tưởng, hành, thức pháp tánh mà cầu. Nhẫn đến tất cả pháp Phật cũng như vậy.

 

Thích nghĩa:

(1). Như Lai như: Từ được dùng trong Kinh MHBNBLMĐ. Trong khi Kinh ĐBN gọi là chơn như của Như Lai hay Như Lai chơn như. Cách dịch của Kinh MHBNBLMĐ khéo và gọn hơn nên chúng tôi dùng cụm từ “Như Lai như”. Vả lại, Chơn như (Chân như) hay Như tướng chỉ là một. Chân, chân thật không hư dối, Như, tánh của sự chân thật ấy không thay đổi. Đó là một quan điểm trọng yếu của Đại thừa giáo, chỉ thể tánh thường hằng tuyệt đối của vạn hữu, nằm ngoài mọi lí luận nhận thức, ngược lại thế giới hiện tượng thuộc cảm quan hay ý thức. Tri kiến được Chân như tức là Giác ngộ, vượt ra khỏi thế giới nhị nguyên, chứng được cái nhất thể giữa chủ và khách. Chân như đồng nghĩa với Như như, Như thực, Pháp giới, Pháp tánh, Thật tế, Thực tướng, Như Lai tạng, Pháp thân, Phật tánh, Tự tánh thanh tịnh thân, Nhất tâm, Bất tư nghị giới… Người thấy biết và chứng được cái thể chân thật, thường hằng, bất biến của tất cả pháp như thế thì gọi là Như Lai.

(2). Kinh ĐBN dùng cụm từ “chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng”, Kinh MHBNBLMĐ dùng cụm từ “chẳng hợp, chẳng tan”. Chẳng tương ưng hay chẳng phải chẳng tương ưng có nghĩa là chẳng khế hợp hay chẳng phải không khế hợp. Còn cụm từ chẳng hợp, chẳng tan có nghĩa chẳng hòa hợp mà cũng chẳng phân ly nhau. Cả hai cụm từ này có nghĩa như nhau.

 

Lược giải:

 

Bát nhã Ba la mật dạy rằng chẳng nên ở trong sắc hay lìa sắc mà cầu Bát Nhã, cũng chẳng nên ở trong thọ, tưởng, hành, thức hay lìa thọ, tưởng, hành, thức mà cầu Bát Nhã. Bát Nhã nầy cùng với uẩn xứ giới đều chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, không sắc, không hình, không đối, chỉ là nhất tướng chỗ gọi vô tướng. Nhẫn đến chẳng nên ở trong Nhất thiết chủng trí mà cầu Bát Nhã, cũng chẳng nên lìa Nhất thiết chủng trí mà cầu Bát Nhã.

Bát nhã Ba la mật chẳng phải uẩn xứ giới cũng chẳng phải lìa uẩn xứ giới, nhẫn đến chẳng phải Nhất thiết chủng trí, cũng chẳng phải lìa Nhất thiết chủng trí. Bát Nhã chẳng phải sắc như, cũng chẳng phải lìa sắc như, nhẫn đến chẳng phải Nhất thiết chủng trí như, cũng chẳng phải lìa Nhất thiết chủng trí như. Bát nhã Ba la mật chẳng phải sắc pháp tánh, cũng chẳng phải lìa sắc pháp tánh, nhẫn đến chẳng phải Nhất thiết chủng trí pháp tánh, cũng chẳng phải lìa Nhất thiết chủng trí pháp tánh.

Vì sao? Vì tất cả pháp nầy đều vô sở hữu bất khả đắc.

Nên Kinh nói: “Sở hành Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát phải cầu ở trong sở thuyết của Thiện Hiện” mà sở thuyết của Thiện Hiện là không cầu ở ngũ ấm, lục nhập(1), lục thức(2), lục xúc(3) và tất cả pháp Phật; cũng không lìa ngũ ấm, lục nhập, lục thức, lục xúc và tất cả pháp Phật, vì tất cả pháp đều vô sở hữu bất khả đắc. Nên Kinh nói “chẳng lìa tất cả pháp mà được Như Lai, cũng chẳng lìa Như Lai mà được tất cả pháp. Cũng chẳng ở trong tất cả pháp mà được Như Lai, cũng chẳng ở trong Như Lai mà được tất cả pháp. Như Lai đối với tất cả pháp chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai lìa tất cả pháp cũng chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng”.

“(…)Như Lai đối với tất cả pháp chẳng phải ly, chẳng phải tức, chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng. Như Lai là chỗ nương vì đem không có chỗ nương mà làm chỗ nương vậy”.

Đây là công thức khó hội, chúng ta chỉ cần hiểu một cách đơn giản là: Không học là học, không hành là hành, không cầu mà được, không chỗ nương mới là chỗ nương. Có chỗ nương là có chỗ bám, có bám là có trụ, có trụ là có dính mắc dù là trụ trong các pháp được đem lại nhiều công đức nhất. Vô trụ mới là chân trụ. Vô trụ đây là trụ trong Bát Nhã. Trụ trong Bát Nhã là trụ vô sở trụ. Vì vậy, học, hành, mong cầu để có chỗ bám thì giống như nắm bắt một làn hương.

Giáo pháp Bát Nhã ở đây một lần nữa chỉ rõ thế giới hiện tượng là giả danh, là không, là rỗng không, không có gì để sở hữu, nên nói là bất khả đắc. Nếu vô sở hữu, bất khả đắc thì không thể học hay hành, không thể cầu hay chứng. Có học, có hành, có mong cầu, chứng đắc là còn nương tựa như chim tựa cành, như dây leo nương dậu thì không còn tự chủ, không thể đứng vững trên đôi chân của mình nữa. Kỹ thuật tu trì là luyện thân, luyện tâm, luyện chí. Thân có vững, tâm có chuyên, chí có bền… thì không cửa nào mà không gõ được!

 

Vậy, học Bát Nhã phải cầu ở đâu? Mở đầu phẩm này Xá Lợi Tử nói: Kiều Thi Ca! Sở hành Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát phải cầu ở trong sở thuyết của Thiện Hiện. Sở thuyết của Thiện Hiện là gì? Sở thuyết của Thiện Hiện chính là không, vô tướng, vô nguyện. Đó là câu trả lời trực tiếp của chúng tôi. Toàn thể Đại Bát Nhã nói về Tánh Không, nói về Vô tướng, Vô nguyện. Khi nhập được tam muội này thì có thể bước qua cửa không(không môn) mà giải thoát!

Đại Trí Độ Luận Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 29, “Tán Hoa”, tập 3, quyển 55, giải thích rằng:

Phật ở trong cả 6 thời, thường dùng Phật nhãn để quán tâm chúng sanh, thường dùng trí huệ Bát Nhã thuyết về vô thường, khổ, không, vô ngã, thường phân biệt rõ về biệt tướng và tổng tướng của các pháp, thường thuyết về các nhân duyên sanh pháp, nhằm dạy chúng sanh nhận rõ các pháp đều chẳng có ai làm ra (vô chủ tác), chẳng có ai thọ (vô thọ giải), chẳng có ai biết (vô tri giả), chẳng có ai thấy (vô kiến giả), lại thường thuyết các pháp đều là vô chủ tác, vô thọ giả, vô tri giả, vô kiến giả, đều là rốt ráo không, đều là rốt ráo bất khả đắc, là đã thâm nhập được vào Bát nhã Ba la mật rồi”. Nên Phật bảo Tu Bồ Đề dạy bảo trao truyền giáo pháp này.

“Ngài Tu Bồ Đề thay Phật, đã thuyết Bát nhã Ba la mật tại pháp hội, lời thuyết giảng của ngài được Phật chứng minh, khiến chư Thiên Tử đến nghe pháp đều hoan hỷ tín thọ.

Do vậy mà ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đã thay mặt chư Thiên, nêu lên các câu hỏi, để được các ngài Xá Lợi Phất và Tu Bồ Đề giải rõ thêm.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn tự nghĩ: Chẳng biết Bát nhã Ba la mật tướng là như thế nào?

Biết được tâm niệm của vị Đế Thích, ngài Xá Lợi Phất nói: Ngài Tu Bồ Đề thường nhập “pháp không”, thường thuyết “pháp không”, chỗ ngài thuyết ra là “không”, dẫn đến “pháp không” đó cũng là không”.

Vì vậy phải nương nơi chỗ ngài Tu Bồ Đề thuyết mà cầu Bát nhã Ba la mật trong “pháp không” này.

Thích nghĩa cho phần lược giải này:

(1). Lục nhập: Sáu chỗ xâm nhập (thấy biết) hay sáu căn: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.

(2). Lục thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Khi 6 căn tiếp xúc 6 trần thì phát sinh 6 nhận thức này.

(3). Lục xúc: Chỉ cho 6 tác dụng tinh thần do 6 căn, 6 cảnh và 6 thức hòa hợp mà sinh ra. Đó là: Nhãn xúc, nhĩ xúc, tỉ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc. 1/. Nhãn xúc sinh ái: Mắt tiếp xúc với những màu sắc, hình dáng xinh đẹp ở thế gian mà sinh tâm ưa thích, không chịu lìa bỏ. 2/. Nhĩ xúc sinh ái: Tai thường tiếp xúc với tất cả tiếng ca hát, đàn sáo, âm điệu du dương ở thế gian mà sinh tâm ưa thích, không lìa bỏ. 3/. T xúc sinh ái: Mũi thường tiếp xúc với các mùi thơm ở thế gian như chiên đàn, trầm thủy v.v... mà tâm sinh ưa thích, không lìa bỏ. 4/. Thiệt xúc sinh ái: Lưỡi thường tiếp xúc với tất cả hương vị thơm ngon của thế gian mà sinh tâm ưa thích, không lìa bỏ. 5/. Thân xúc sinh ái: Thân tiếp xúc với làn da mịn màng trơn láng của người nam, người nữ mà sinh tâm ham thích, không lìa bỏ. 6/. Ý xúc sinh ái: Ý thường duyên theo tất cả các pháp như sắc, thanh, hương, vị, xúc của thế gian mà sinh tâm ưa thích, không lìa bỏ. (Phỏng theo Tự điển Phật Quang).

Ai học Phật đều có thể hiểu ý nghĩa của tất cả các pháp trên. Chỗ dẫn ý ở đây là: Khi Kinh đề cập đến ngũ uẩn, lục nhập, lục thức, lục xúc tức muốn nói đến thân căn và khí thế gian tức tâm và vật hay nói khác là có ý đề cập đến nhân sinh và vũ trụ. Nên khi tóm lược chúng tôi thường rút gọn là uẩn, xứ, giới hay ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới cho gọn thay vì liệt kê từng pháp một, quá dài dòng./.

 

---o0o---

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2587)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5762)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 112997)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5924)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5961)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6535)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12294)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8472)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14685)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25096)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567