Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

24. Phẩm "Khi Học"

20/10/202007:57(Xem: 6580)
24. Phẩm "Khi Học"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-463


 

PHẨM "KHI HỌC"

Phần sau quyển 520, Hội thứ III, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Đồng Tánh”,

phần sau Q.455 đến phần đầu Q.456, Hội thứ II, ĐBN)

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Thế nào là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát mà các đại Bồ Tát học trong đó được gọi là đẳng học?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Các đại Bồ Tát học trong đó nên gọi là đẳng học. Do đẳng học nên mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Sắc uẩn cho đến thức uẩn Không, là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Mười hai xứ cho đến mười tám giới Không, là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Nhãn xúc cho đến ý xúc Không, là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra Không, là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Địa giới cho đến thức giới Không, là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên Không, là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Vô minh cho đến lão tử Không, là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật Không, là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không Không, là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì Không, là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Nói rộng ra, tất cả pháp Phật từ Tứ đế Không cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề Không, là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Các đại Bồ Tát đều học trong đó gọi là đẳng học. Nhờ đẳng học này nên mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.520, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát vì sắc tận mà học, cho đến vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tận mà học, là học Nhất thiết trí trí phải không? Nếu đại Bồ Tát vì sắc lìa mà học, cho đến vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề lìa mà học, là học Nhất thiết trí trí phải không? Nếu Đại Bồ Tát vì sắc diệt mà học, cho đến vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề diệt mà học, là học Nhất thiết trí trí phải không? Nếu đại Bồ Tát vì sắc không sanh mà học, cho đến vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không sanh mà học, là học Nhất thiết trí trí phải không?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Theo lời ngươi hỏi: Nếu đại Bồ Tát vì sắc cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tận, lìa, diệt, không sanh mà học là học Nhất thiết trí trí phải không? Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Sắc như cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như có tận, lìa, diệt, đoạn không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu các đại Bồ Tát đối với các chơn như có thể như thật mà học, đó là học Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện nên biết! Chơn như không tận, không lìa, không diệt, không đoạn, không thể tác chứng. Nếu đại Bồ Tát đối với các chơn như có thể như thật mà học thì đó gọi là học Nhất thiết trí trí. (Q.520, ĐBN)

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi đại Bồ Tát học như vậy là học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Là học pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Là học chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Là học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Là học bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Là học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Là học pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Là học tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Là học Tịnh quán địa cho đến trí Như Lai địa. Là học Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Là học pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa. Là học năm loại mắt, sáu phép thần thông. Là học Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Là học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Là học nhân ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Đại sĩ. Là học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Là học Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng tri. Là học tất cả Bồ Tát hạnh. Là học quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Tóm lại nghĩa là học tất cả pháp Phật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát có thể học tất cả pháp Phật như thế là học Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện nên biết! Khi đại Bồ Tát học như thế là đạt đến sự học cứu cánh của bờ bên kia. Khi đại Bồ Tát học như vậy thì tất cả thiên ma và các ngoại đạo không thể thắng được. Khi đại Bồ Tát học như vậy thì mau đạt đến địa vị Bồ Tát Bất thối chuyển. Khi đại Bồ Tát học như vậy là hành theo chỗ hành của Tổ phụ Như Lai. Khi đại Bồ Tát học như vậy thì có thể giữ gìn chánh pháp, không đảo lộn, có thể làm theo pháp nên làm để lìa ám chướng. Khi đại Bồ Tát học như vậy thì có thể thành thục tất cả hữu tình một cách mỹ mãn, có thể trang nghiêm cõi Phật một cách hoàn hảo. Khi đại Bồ Tát học như vậy gọi là học hoàn hảo đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và vô lượng, vô biên Phật pháp khác. Khi đại Bồ Tát học như vậy là học ba chuyển, mười hai hành tướng pháp luân Vô thượng, là học sự an ổn trăm ngàn triệu ức chúng, đối với cảnh giới Vô dư y Niết bàn đã được Bát Niết bàn. Khi đại Bồ Tát học như vậy là học không đoạn mất chủng tánh Như Lai, là học môn cam lồ của Như Lai đã khai mở, là học an lập vô lượng, vô số, vô biên hữu tình trụ pháp của ba thừa, là học thị hiện cảnh giới vô vi cứu cách, tịch diệt, chơn chánh của tất cả hữu tình, là vì tu học tất cả Nhất thiết trí trí. Người nào học như vậy thì hữu tình thấp kém không thể nào học được. (Q.520, ĐBN)

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát muốn cứu giúp tất cả hữu tình khỏi đại khổ sanh tử nên học như vậy.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi đại Bồ Tát học như vậy quyết định không đọa vào cảnh giới địa ngục, bàng sanh, ngạ quỉ. Quyết định không sanh nơi biên địa mọi rợ. Quyết định không sanh vào nhà đồ tể, nhà hạ tiện và những nhà bần cùng bất luật nghi. Không bị mù, điếc, câm, ngọng, què, các căn tàn tật, lưng gù, điên, ung thư, ghẻ lở, bệnh trĩ, bệnh hủi, không cao, không thấp, không đen nám và không có những bệnh nhọt ghê gớm.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát học như vậy, thì đời đời thường được quyến thuộc đông đảo, dung mạo đẹp đẽ, nói năng hoà nhã, oai phong tuấn tú, nhiều người đều kính yêu. Sanh ra nơi nào lìa nghiệp giết hại cho đến tà kiến, không bao giờ lệ thuộc vào pháp tà hư vọng, không dùng pháp tà để nuôi sống, cũng không kết bạn với bọn hữu tình phá giới, ác kiến, phỉ báng chánh pháp.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát học như vậy thì không bao giờ sanh vào nơi tham đắm dục lạc, hay ở cõi trời Trường thọ ít trí tuệ. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy thành tựu thế lực của phương tiện thiện xảo. Nhờ thế lực phương tiện thiện xảo này, mặc dù luôn nhập vào tịnh lự, vô lượng và vô sắc nhưng không tùy theo thế lực ấy mà thọ sanh. Vì nhiếp thọ Bát nhã thậm thâm, thành tựu phương tiện thiện xảo. Trong các định mặc dù thường đạt được xuất nhập tự do nhưng không theo thế lực của các định đó mà sanh vào trời Trường thọ, phế bỏ tu Bồ Tát hạnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi đại Bồ Tát học như vậy đối với tất cả pháp đều được thanh tịnh. Nhờ thanh tịnh nên không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác v.v…

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu bản tánh của tất cả pháp là thanh tịnh, thì làm sao khi đại Bồ Tát học như vậy đối với tất cả pháp lại được thanh tịnh?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Bản tánh của các pháp xưa nay vốn thanh tịnh. Đại Bồ Tát ấy ở trong bản tánh thanh tịnh của tất cả pháp mà tinh tấn siêng năng tu học Bát nhã thậm thâm, dùng phương tiện thiện xảo, thông đạt như thật, tâm không trầm trệ, không chướng ngại, xa lìa tất cả chấp trước phiền não nên nói, khi Bồ Tát học như vậy, đối với tất cả pháp đều được thanh tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Tuy bản tánh của tất cả pháp vốn thanh tịnh nhưng các phàm phu không biết, không thấy, không hiểu. Đại Bồ Tát ấy vì muốn cho họ biết, thấy, hiểu để tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho đến tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi đại Bồ Tát học như vậy, đối với Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng v.v... đều được viên mãn hoàn toàn thanh tịnh.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát học như vậy thì đối với tâm hành sai khác của các hữu tình đều có thể thông đạt đến cùng tột bờ bên kia, dùng phương tiện thiện xảo làm cho các hữu tình biết bản tánh của tất cả pháp đều thanh tịnh, để họ chứng đắc Niết bàn thanh tịnh.

Thiện Hiện! Ví như đại địa ít nơi phát sanh những của báu như vàng, bạc v.v… mà lại nhiều chỗ phát sanh cát, đá, gạch, ngói. Các loài hữu tình cũng như vậy, phần ít có thể học Bát nhã thậm thâm, phần nhiều học theo pháp của bậc Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện! Ví như loài người, phần ít tu nghiệp Chuyển luân vương, phần nhiều học hành theo nghiệp của các tiểu quốc vương. Các loài hữu tình cũng như vậy, phần ít tu đạo Nhất thiết trí trí, phần nhiều hành theo đạo của Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện nên biết! Chúng đại Bồ Tát cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phần ít được chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phần nhiều rơi vào Thanh văn, Độc giác.

Thiện Hiện nên biết! Những thiện nam thiện nữ v.v… trụ Bồ Tát thừa, nếu không xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát nhã thậm thâm, nhất định có thể nhập vào địa vị Bất thối chuyển. Nếu người nào xa lìa phương tiện thiện xảo của Bát nhã thậm thâm, thì chắc chắn sẽ thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Cho nên, chúng đại Bồ Tát muốn đạt được địa vị Bồ Tát Bất thối chuyển, muốn nhập vào số Bồ Tát Bất thối chuyển, phải tinh tấn tu học phương tiện thiện xảo của Bát nhã thậm thâm.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tu học phương tiện thiện xảo của Bát nhã thậm thâm như vậy, thì không bao giờ có hành động tương ưng với xan tham, phá giới, sân hận, biếng nhác, tán động và ác tuệ, cũng không có tâm tương ưng với tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn, cũng không có tâm tương ưng với phóng dật, mê lầm và các tội lỗi khác, cũng không có tâm tương ưng với chấp trước sắc uẩn cho đến thức uẩn. Nói rộng cho đến cũng không có tâm tương ưng với chấp trước quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy hành phương tiện thiện xảo của Bát nhã thậm thâm, không thấy có pháp nào có thể đắc. Vì không thể đắc nên không có tâm chấp giữ các pháp như sắc v.v…

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tu học phương tiện thiện xảo của Bát nhã thậm thâm như thế thì có thể bao gồm tất cả Ba la mật, có thể chứa nhóm tất cả Ba la mật, có thể dẫn dắt tất cả Ba la mật. Vì sao? Vì trong Bát nhã thậm thâm đã bao hàm tất cả Ba la mật.

Thiện Hiện nên biết! Giống như thân kiến có thể bao gồm sáu mươi hai kiến. Bát nhã thậm thâm cũng lại như vậy, bao hàm tất cả Ba la mật.

Thiện Hiện! Ví như người chết vì mạng căn diệt nên các căn cũng theo đó diệt. Bát nhã thậm thâm cũng lại như vậy, tất cả Ba la mật đã học được đều từ đó mà ra. Nếu không có Bát nhã Ba la mật thì không có tất cả Ba la mật.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát muốn đạt đến cứu cánh bờ bên kia của tất cả Ba la mật thì nên siêng năng tu học Bát nhã thậm thâm.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát siêng thường tu học Bát nhã thậm thâm, đối với các hữu tình là bậc tối cao, tối thắng. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy có thể siêng năng tu học pháp Vô thượng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Tất cả loài hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới này có nhiều không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các loài hữu tình trong châu Thiệm bộ còn nhiều vô số, huống gì các loài hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới sao không cho là nhiều được.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Thiện Hiện nên biết! Giả sử loài hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới đồng một lúc được làm người. Sau khi làm người, đồng một lúc phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tu Bồ Tát hạnh. Sau khi tu hành viên mãn, đồng một lúc đều đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Có đại Bồ Tát trọn đời dùng các vật ưa thích thượng diệu để cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác này. Ý ngươi thế nào? Nhờ nhân duyên này, đại Bồ Tát ấy được công đức nhiều không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu thiện nam thiện nữ v.v… trụ Bồ Tát thừa có thể đối với Bát nhã thậm thâm này mà thích nghe, thọ trì, đọc tụng, hoàn toàn thông suốt, tư duy đúng lý, y giáo tu hành, ghi chép, lưu truyền. Vị này được công đức nhiều hơn người trước vô lượng, vô số. Vì sao? Vì Bát nhã thậm thâm đủ nghĩa dụng lớn, có thể khiến cho chúng đại Bồ Tát mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Cho nên, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát muốn làm thượng thủ đối với tất cả hữu tình, muốn làm lợi ích cho tất cả hữu tình, làm người cứu hộ cho người không ai cứu hộ, làm chỗ nương tựa cho người không chỗ nương tựa, làm mắt sáng cho người mù lòa, làm ánh sáng ở chỗ không có ánh sáng, chỉ đúng đường cho người lạc đường, người chưa đạt Niết bàn thì khiến họ được Niết bàn, thì nên học Bát nhã thậm thâm như vậy.

Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát muốn đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, muốn sống cảnh giới của chư Phật đã sống, muốn dạo chơi nơi chư Phật đã dạo chơi, muốn rống lên tiếng Sư tử của Như Lai, muốn đánh trống pháp Vô thượng của chư Phật, muốn gõ chuông pháp Vô thượng của chư Phật, muốn thổi loa pháp Vô thượng của chư Phật, muốn thăng pháp tòa Vô thượng của chư Phật, muốn diễn nghĩa pháp Vô thượng của chư Phật, muốn chặt đứt lưới nghi của các hữu tình, muốn nhập cảnh giới pháp cam lồ của chư Phật, muốn thọ pháp lạc vi diệu của chư Phật, muốn chứng công đức viên tịnh của chư Phật, thì phải học Bát nhã thậm thâm như vậy.

Lại nữa này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tu học Bát nhã thậm thâm như thế thì không có tất cả công đức căn lành nào mà không đạt được. Vì sao? Vì Bát nhã thậm thâm làm chỗ nương tựa của tất cả công đức căn lành. (Q.520, ĐBN)

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát tu học Bát nhã thậm thâm như vậy, há có thể đắc công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Công đức căn lành của Thanh văn, Độc giác, chúng đại Bồ Tát này cũng có thể đắc được, nhưng không trụ, không chấp vào nó. Dùng thắng trí quán sát đúng đắn vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác, hướng nhập Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Chúng đại Bồ Tát này không có tất cả công đức căn lành nào mà không đắc.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi đại Bồ Tát học như vậy là gần gũi với Nhất thiết trí trí, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi đại Bồ Tát học như vậy thì làm ruộng phước chơn thật cho tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v... vượt trên ruộng phước của xuất thế gian, Sa môn, Phạm chí, Thanh văn, Độc giác, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi đại Bồ Tát học như vậy, sanh ra nơi nào cũng không bỏ Bát nhã, không lìa Bát nhã, luôn luôn tu hành Bát nhã.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát có thể học Bát nhã thậm thâm thì nên biết vị ấy đối với Nhất thiết trí trí đã được Bất thối chuyển, đối với tất cả pháp đều giác tri đúng đắn, xa lìa địa vị Thanh văn, Độc giác v.v…, gần gũi quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nào khi hành Bát nhã thậm thâm, nghĩ như vầy: Đây là Bát nhã, đây là thời tu, đây là chốn tu, ta có thể tu Bát nhã này. Ta nhờ Bát nhã này mà xả bỏ pháp nên xả bỏ, thì nhất định sẽ chứng đắc Nhất thiết trí trí, thì đại Bồ Tát ấy chẳng tu, chẳng hành Bát nhã, đối với Bát nhã cũng không thể hiểu rõ ràng. Vì sao? Vì Bát nhã thậm thâm không nghĩ: Ta là Bát nhã Ba la mật, đây là thời tu, đây là nơi tu, đây là người tu, đây là pháp Bát nhã Ba la mật viễn ly, đây là pháp mà Bát nhã Ba la mật chiếu soi, đây là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà Bát nhã Ba la mật chứng. Nếu biết như vậy là hành Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát hành Bát nhã thậm thâm, nghĩ như vầy: Đây chẳng phải là Bát nhã, đây chẳng phải thời tu, đây chẳng phải nơi tu, đây chẳng phải người tu, đây chẳng phải do Bát nhã xa lìa tất cả pháp cần xa lìa, đây chẳng phải do Bát nhã nhất định có thể chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì tất cả pháp đều trụ vào chơn như, pháp giới, pháp tánh, nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì. Trong đây tất cả đều không khác nhau. Thiện Hiện nên biết! Khi đại Bồ Tát học như vậy là hành Bát nhã Ba la mật, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí. (Q.520, ĐBN)

 

Sơ giải:

 

Phẩm “Khi Học” Hội thứ III ngắn dễ đọc, dễ học tương đương với phần đầu của phẩm “Đồng Tánh” của Hội thứ II hay phẩm “Học Phương Tiện Xảo” từ quyển 338 đến quyển 341 của Hội thứ I, ĐBN. Chúng tôi không cần phải chiết giải. Nếu Quý vị thắc mắc hay trở ngại, có thể quay lại tham khảo hai Hội trước theo chỉ dẫn trên, nếu muốn.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2595)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5765)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 113077)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5927)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5971)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6539)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12312)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8479)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14695)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25127)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567