Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

43. Phẩm "Biện Sự" (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Lê)

06/07/202009:02(Xem: 7518)
43. Phẩm "Biện Sự" (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Lê)


47. Pham Bien Su 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 

 

PHẨM "BIỆN SỰ"

Phần sau quyển 310 đến phần đầu quyển 311, Hội thứ I, ĐBN.

(Phần nầy cũng tương đương với quyển thứ 17, phẩm “Thành Biện”, MHBNBLM)


Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Lê







 

Gợi ý:

Kinh MHBNBLMĐ nhập hai phẩm “Chẳng Nghĩ Bàn” và “Biện Sự” của Kinh ĐBN lại thành một phẩm có tên là “Thành Biện”. Phẩm “Chẳng Nghĩ Bàn”chúng ta đã tụng rồi ở trên, bây giờ chúng ta tụng tiếp phẩm“Biện Sự”.

 

Tóm lược:

 

Bát Nhã thậm thâm vì nhân duyên đại sự mà xuất hiện ở đời; vì việc chẳng thể nghĩ bàn mà xuất hiện ở đời; vì việc chẳng xưng lường mà xuất hiện ở đời; vì việc không có hạn lượng mà xuất hiện ở đời; vì việc không gì sánh bằng mà xuất hiện ở đời. Vì sao? Vì Bát Nhã thậm thâm có khả năng thành tựu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Vì Bát Nhã thậm thâm có khả năng thành tựu 18 pháp không; thành tựu chơn như, pháp giới, pháp tánh v.v…, thành tựu 8 giải thoát, 8 thắng xứ, 9 định thứ đệ, 10 biến xứ; có khả năng thành tựu 37 pháp trợ đạo; có khả năng thành tựu Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; có khả năng thành tựu pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí... cho đến có khả năng thành tựu quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật.

Như vua Quán đảnh đại vương dòng Sát đế lợi oai đức tự tại hàng phục tất cả, đem các việc nước giao phó cho đại thần, khoanh tay vô sự an hưởng vui thú. Như Lai cũng vậy, là Đại pháp vương đem pháp Thanh văn, pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ Tát, hoặc các Phật pháp khác thảy đều phó chúc cho Bát nhã Ba la mật. Bởi Bát Nhã đây đều năng thành xong tất cả sự nghiệp. Vậy nên, Bát Nhã vì đại sự nhân duyên xuất hiện thế gian, vì việc chẳng thể nghĩ bàn, vì việc chẳng thể xưng lường, vì việc không hạn lượng, vì việc không gì sánh bằng nên xuất hiện thế gian. Vì sao? Vì Bát Nhã chẳng chấp trước sắc mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu nghiệp sự; vì Bát Nhã chẳng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu nghiệp sự; chẳng chấp trước 12 xứ, 18 giới và tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến chẳng chấp trước quả vị Giác ngộ tối cao mà xuất hiện ở đời, nên có khả năng thành tựu nghiệp sự.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Tại sao Bát nhã Ba la mật thậm thâm xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước sắc, chẳng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức? Tại sao Bát Nhã thậm thâm xuất hiện ở đời mà chẳng chấp trước mười hai xứ, mười tám giới... cho đến tất cả pháp Phật?

Phật hỏi lại Thiện Hiện: Này Thiện Hiện! Theo ý ông, ông thấy sắc có thể chấp, có thể trước chăng? Ông thấy thọ, tưởng, hành, thức có thể chấp, có thể trước chăng? Ông thấy có pháp nào có thể chấp, có thể trước chăng? Ông thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Này Thiện Hiện! Theo ý ông, ông thấy 12 xứ, 18 giới và tất cả pháp Phật từ tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao có thể chấp, có thể trước chăng? Ông có thấy do pháp ấy mà có chấp, có trước chăng?

- Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Hay thay! Đúng như ý ông đáp! Này Thiện Hiện! Ta cũng chẳng thấy sắc có thể chấp, có thể trước; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức có thể chấp, có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước.

Ta cũng chẳng thấy Chánh đẳng giác tánh, Như Lai tánh, tự nhiên giác tánh, Nhất thiết trí trí tánh khiến tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có thể chấp có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước. Cho nên, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát cũng chẳng nên chấp trước sắc, chẳng nên chấp trước thọ, tưởng, hành, thức. Đại Bồ Tát cũng chẳng nên chấp trước mười hai xứ, mười tám giới và tất cả pháp Phật. (Q.311, ĐBN)

Lúc bấy giờ, các Thiên tử ở cõi Dục, cõi Sắc bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế rất là sâu xa, khó thấy khó biết, chẳng thể suy tầm, vượt cảnh suy tầm, vắng lặng mầu nhiệm, chắc thật kín đáo, chỉ người trí tuệ mới có thể biết rõ được. Nếu các hữu tình có khả năng tin hiểu sâu sắc Bát nhã Ba la mật như thế thì nên biết họ đã từng cúng dường vô lượng chư Phật trong quá khứ; ở chỗ chư Phật phát nguyện rộng lớn, trồng nhiều căn lành, đã được vô lượng các thiện tri thức nhiếp thọ mới có khả năng tin hiểu được.

Giả sử các loại hữu tình trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành tựu bậc tùy tín hành(1), tùy pháp hành(2), bậc bát nhơn(3), bậc Thanh văn, bậc Bích Chi Phật cũng chẳng bằng người chỉ một ngày ưa thích, tư duy, xưng lường, quán sát Bát nhã Ba la mật. Vị này chắc chắn hơn các bậc trí đoạn(4) kia vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì trí đoạn của các bậc trên chỉ được một phần nhỏ nhẫn so với vô sanh pháp nhẫn của bậc đã từng chứng đắc Bát nhã Ba la mật”.

Phật bảo các Thiên tử: “Đúng vậy! Đúng như các ông đã nói! Trí đoạn của chư tùy tín hành, tùy pháp hành, đệ bát, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác đều chỉ là một phần nhỏ nhẫn so với vô sanh pháp nhẫn của bậc đã chứng đắc Bát nhã Ba la mật.

Thiên tử nên biết! Nếu thiện nam thiện nữ nào vừa nghe Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, nghe rồi sao chép, đọc tụng, thọ trì, tư duy, tu tập thì những người ấy thoát khỏi sanh tử, chứng đắc Niết bàn, nhanh hơn những người thích cầu Thanh văn, Độc giác, xa lìa Bát nhã Ba la mật mà học Kinh điển khác, một kiếp hoặc hơn một kiếp. Vì sao? Nầy các Thiên tử! Trong Bát nhã Ba la mật thậm thâm này, rộng nói các pháp thắng diệu. Các bậc tùy tín hành, hoặc tùy pháp hành, đệ bát v.v…đều nên đối với pháp này mà tinh cần tu học. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương pháp này mà học, đã chứng, sẽ chứng và hiện chứng quả vị Giác ngộ tối cao”.

Khi ấy, các Thiên tử đều cùng bạch: “Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế là Ba la mật lớn, Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế là Ba la mật chẳng thể nghĩ bàn, Bát nhã Ba la mật như thế là Ba la mật chẳng thể xưng lường, Bát nhã Ba la mật như thế là Ba la mật không có hạn lượng, Bát nhã Ba la mật như thế là Ba la mật không gì sánh bằng.

Bạch Thế Tôn! Bậc tùy tín hành, hoặc tùy pháp hành, đệ bát v.v… đều đối với Bát nhã Ba la mật như thế mà tinh cần tu học, chóng thoát sanh tử, chứng đắc Niết bàn. Tất cả đại Bồ Tát đều đối với Bát Nhã như thế mà tinh cần tu học, mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao”.

 

Thích nghĩa:

(1). Tùy tín hành (S: śraddhānusārin; P: saddhānu-sārin) và (2). Tùy pháp hành: (S: dharmānussarin; p: dhammānussarin) là hai hạng người tu hành đang chuẩn bị đắc quả Dự lưu. Tùy tín hành là người chỉ dựa vào lòng tin (Tín; s: śraddhā; p: saddhā), lấy lòng tin làm căn bản để tu tập Phật pháp. Trong khi Tùy pháp hành: (S: dharmānussarin; p: dhammānussarin), là người lấy lý trí phân tích lời thuyết pháp của Phật mà đạt quả Dự lưu. - Phỏng theo Từ điển Đạo uyển.

(3). Bát nhân: Còn gọi là Bát nhẫn: Giai vị tu 8 pháp nhẫn để đoạn Kiến hoặc. Cũng gọi Đệ bát địa, Bát nhân địa. Nhân nghĩa là nhẫn. Tương đương với 15 tâm kiến đạo của Thanh văn và vô sinh pháp nhẫn của Bồ Tát. Đây là địa vị thứ ba trong mười địa vị thuộc Tam thừa cộng thập địa.

Mục (1), (2) và (3) là ba địa vị trong Thập Địa cộng thông cả ba thừa (còn gọi Tam thừa cộng thập địa, hoặc Cộng thập địa, Cộng địa. Tông Thiên thai gọi là Thông giáo thập địa) với tên gọi khác là Càn Huệ Địa hay Tánh quán địa (Phạm: Zukla-vidar= zanà-bhùmi); Tánh Địa hay Tánh địa nhơn (Phạm: Gotra-bhùmi); Bát Nhân Địa (Phạm: Awỉamakabhùmi); Cụ Kiến Địa hay Tu Đà Hoàn (phạm: Durzana-bhùmi); Bạc Địa hay Tư Đà Hàm (Phạm: Tanù-bhùmi); Ly Dục Địa hay A Na Hàm (Phạm: Vìta-ràga-bhùmi); Dĩ Biện Địa hay A La Hán (Phạm: Kftàvì-bhùmi); Bích Chi Phật Địa hay Độc giác Bồ đề; Bồ Tát Địa và Phật Địa. Tam thừa cộng thập địa liệt kê là ghi theo sự giới thiệu của Kinh ĐBN. Đã thích nghĩa chi tiết trong phẩm “Học Quán”.

(4). Trí đoạn: Trí huệ đoạn tuyệt, người học đạo nhờ trí huệ này mà đoạn tuyệt các phiền não, ấy là trí đoạn. Lại nữa, trí và đoạn là hai đức của người học đạo: Trí là chiếu liễu chân lý, hiểu rõ sự và lý; đoạn là diệt trừ các phiền não tham luyến, sân hận, si mê. Trí tức Bồ đề, đoạn tức là Niết bàn, hai thể ấy liên quan với nhau vậy. (Đoàn Trung Còn).

 

Lược giải:

 

Dẫn nhập:

Phẩm này và phẩm “Chẳng Nghĩ Bàn” (của ĐBN) do Ngài Huyền trang dịch chỉ là một, tương đương với phẩm “Thành Biện” của Kinh MHBNBLMĐ do Ngài La Thập dịch như đã gợi ý ở trên. Phẩm thứ 50, Đại Trí Độ Luận cũng có cùng tên là “Thành Biện”, tập 4, quyển 71, nội dung cũng giống như Kinh ĐBN. Đọc một phẩm thì biết cả hai.

 

--o0o--

 

Mở đầu phẩm này Hội thứ I, ĐBN Kinh nói: “Bát Nhã thậm thâm vì nhân duyên đại sự mà xuất hiện ở đời; vì việc chẳng thể nghĩ bàn mà xuất hiện ở đời; vì việc chẳng xưng lường mà xuất hiện ở đời; vì việc không có hạn lượng mà xuất hiện ở đời; vì việc không gì sánh bằng mà xuất hiện ở đời. Vì sao? Vì không có bất cứ pháp nào trong thế gian hay xuất thế gian thoát khỏi sự nhiếp hộ của Bát nhã Ba la mật. Bát nhã Ba la mật rộng lớn không có ngằn mé, không có hạn lượng, không có gì sánh bằng, nên nói là không thể nghĩ bàn, bất khả tư nghị như hư không.

 

--o0o--

 

Kế đến Kinh nói đến chấp trước. Tại sao có chấp trước? Do lục căn (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý) tiếp xúc với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) khởi phân biệt mà sanh ra lục thức (thức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). Tất cả lập cước của đạo Phật đều nằm trên căn bản này. Vì do thấy sắc nên phân biệt, do phân biệt nên sanh chấp. Rồi từ chấp mới có tạo tác thi vi, muốn thủ giữ cất dấu hay buông bỏ mà sanh vui buồn, đau khổ hay phiền muộn. Đầu mối là ở phân biệt chấp trước mà ra.

Bản thể của tất cả pháp là vô tri trì độn, là như huyễn như mộng… duyên hợp thì có, duyên tan thì rã rời biến hoại, không có tự tánh nên bảo là không. Nếu nhập được pháp không rồi, thì không còn chấp ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới… cho đến Nhất thiết chủng trí nữa. Vậy cái đáng qui trách gây ra động niệm là ở phân biệt chấp trước.

Thấy thì ai có nhãn căn đều thấy cả. Phân biệt thì ai cũng phân biệt cả. Phật là người phân biệt giỏi nhất thế gian này, nhưng Phật không bị sắc trần níu kéo, vì Phật không vướng mắc. Không vướng mắc, nên Phật không chấp, do công năng vô chấp mới được như như bất động. Do như như bất động này nên Phật được gọi là Như Lai. Còn chúng sanh thấy sắc mà tâm ôm cứng lấy, không rời một bước không nổi dù phải đổi lấy thân mạng. Tất cả đều do thủ tâm chấp tướng mà ra.

Ngài Hoàng Bá lại nói: “Tất cả thanh (nghe) sắc (thấy) là mắt tuệ của Phật”. Cũng cùng cái nghe thấy đó mà biết quay lại thấy tâm thì thấy nghe ấy chính là mắt tuệ. Vì thấy nghe như vậy là “kiến chiếu vào tự tánh”. Đó là một cái thấy đặc biệt, nên bảo là mắt tuệ Phật.

Kinh Lăng nghiêm Phật bảo ông A nan: “Căn trần đồng một thể (tâm), triền phược và giải thoát không hai (mê thì triền phược, ngộ thì giải thoát). Các thứ hư vọng như hoa đốm giữa hư không. Vì có trần cảnh, nên ở nơi căn khởi ra phân biệt. Vì có năng phân biệt ở nơi căn, nên mới hiện ra cái tướng bị phân biệt là cảnh. Căn (kiến) và cảnh (sắc tướng) đối đãi vọng hiện, chớ không có thật (vô tâm)(1). Cũng như hình cây lau gác nhau. Thế nên, khi thấy, nghe, hay, biết mà khởi vọng niệm phân biệt, đó là gốc vô minh triền phược. Còn khi thấy, nghe, hay, biết mà không khởi vọng niệm phân biệt, đó là Niết bàn. Ở trong chơn tâm thanh tịnh, không dung chứa vật nào khác!”

Đó là cái thấy của chơn tâm theo kinh Lăng Nghiêm. Tu Bát nhã Ba la mật, khi thâm nhập được “nhân không pháp không” rồi thì dù cho thấy nghe hay biết cũng đều là không cả. Do đó Phật bảo “Ta chẳng thấy sắc có thể chấp, có thể trước; chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức có thể chấp, có thể trước. Ta cũng chẳng thấy có pháp nào có thể chấp có thể trước, cũng chẳng thấy do pháp ấy mà có chấp có trước; do chẳng thấy nên chẳng chấp, do chẳng chấp nên chẳng trước”.

Ở đây vì thấy tất cả pháp là không, là như, là bình đẳng nên Phật chẳng chấp trước, chẳng thủ giữ bất cứ pháp nào dù là Vô thượng Bồ đề.

Do đó, Kinh MHBNBLMĐ, Phật dạy:

“Này Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Nhất thiết chủng trí, Vô Thượng Bồ Đề có thể thủ, có thể chấp chăng?

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bach Thế Tôn! Chẳng thể được vậy.

Phật dạy: Lành thay, lành thay! Này Tu Bồ Đề! Ta cũng chẳng thấy sắc… dẫn đến thức có thể thủ, có thể chấp, cũng chẳng thấy Nhất thiết chủng trí, Vô Thượng Bồ Đề có thể thủ, có thể chấp. Vì chẳng thấy như vậy nên chẳng thủ, chẳng chấp.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Ta cũng chẳng thấy Phật pháp, Như Lai pháp, tự nhiên trí pháp, Nhất thiết trí pháp có thể thủ, có thể chấp. Vì chẳng thấy như vậy nên chẳng thủ, chẳng chấp.

Lúc bấy giờ hàng chư Thiên cõi Dục và cõi Sắc đồng bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật rất thậm thâm, khó thấy, khó giải, chẳng thể suy lường mà biết được. Chỉ có bậc thiện xảo vi diệu, trí huệ tịch diệt, mới có thể tín giải được.

Nếu người nào thâm tín Bát nhã Ba la mật này, thì phải biết đó là bậc đại Bồ Tát. Người đó trong vô lượng kiếp đã cúng dường chư Phật, đã gieo trồng thiện căn, đã thân cận chư thiện tri thức, mới có thể tín giải thâm Bát nhã Ba la mật này vậy”.

 

---o0o---

 

 

***
Tu Viện Quảng Đức Youtube Channel

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2595)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5765)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 113087)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5927)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5972)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6539)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12313)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8479)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14695)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25131)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567