Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

13. Phẩm “Thậm Thâm Tướng”

03/01/202118:31(Xem: 7418)
13. Phẩm “Thậm Thâm Tướng”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-518

 

 

XIII. PHẨM “THẬM THÂM TƯỚNG”

Đầu quyển 561, Hội thứ V, ĐBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

Tóm lược: 

 

Quyển thứ 561

 

(Các pháp sâu xa lấy gì làm tướng?)

 

Bấy giờ, mười ngàn thiên tử cõi Dục, Thiên chủ Đế Thích làm thượng thủ. Lại có hai vạn thiên tử Phạm Thế, Thiên Vương Đại Phạm làm thượng thủ, đồng đi đến chỗ Phật đảnh lễ chân Phật rồi lui đứng một bên, đồng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các pháp sâu xa đã nói, lấy gì làm tướng?

Phật bảo các Thiên chúng:

- Các pháp sâu xa mà Ta đã nói, lấy không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô sở y chỉ, vô tánh làm tướng.

Các Thiên chúng bạch Phật:

- Pháp Phật thuyết không có sự nương tựa, ví như hư không, không thể biểu thị. Như Lai thuyết tướng pháp sâu xa, trời, người, A tu la v.v... trong thế gian chẳng thể an lập, cũng chẳng thể phá hoại. Vì sao? Vì trời, người, A tu la v.v... trong thế gian cũng đều là tướng vậy. Những kẻ có tướng, đối với tướng, vô tướng chẳng thể an lập, cũng chẳng thể phá hoại. Pháp tướng sâu xa mà Như Lai thuyết, chẳng rơi vào sắc, cũng chẳng rơi vào thọ, tưởng, hành, thức; cũng chẳng rơi vào nhơn phi nhơn. Nhơn phi nhơn v.v... chẳng thể an lập cũng chẳng thể phá hoại.

Phật bảo các Thiên chúng:

- Giả sử có người đến hỏi thế này: “Ai là người tạo ra hư không? Ai là người có thể phá hoại hư không?” Người đặt câu hỏi như vậy có đúng không?

Các Thiên chúng bạch:

- Bạch Thế Tôn! Không! Vì sao? Vì hư không vô thể, vô vi, vô tướng, đâu có thể hỏi là có thành, có hoại.

Bấy giờ, Phật bảo các Thiên chúng rằng:

- Như vậy, như các ngươi đã nói! Thiên chúng phải biết, Ta đã tuyên nói pháp tướng sâu thẳm cũng lại như thế, chẳng thể an lập, chẳng thể phá hoại. Có Phật không Phật, lẽ vậy thường trụ. Phật đối tướng này như thật giác biết, nên gọi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Các Thiên chúng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các tướng Như Lai giác ngộ như thế rất là sâu thẩm, khó thấy khó biết. Như Lai hiện biết tướng như thế nên đối với tất cả pháp, được trí vô ngại. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trụ tướng như thế, phân biệt, chỉ dạy Bát Nhã sâu thẩm, tập hợp các pháp tướng, phương tiện chỉ dạy cho các hữu tình, làm cho đối với Bát nhã Ba la mật được trí vô ngại. Bát Nhã sâu xa là chỗ thường hành của các đức Như Lai. Phật hành chỗ này chứng được Nhất thiết trí, phân biệt chỉ dạy cho các hữu tình.

Phật bảo các Thiên chúng:

- Đúng như vậy! Đúng như lời các ngươi nói! Thiên chúng nên biết, tướng của tất cả pháp, Như Lai biết như thật là vô tướng. Do nhân duyên này, Ta nói chư Phật đắc trí vô ngại, không ai bằng. (Q.561, ĐBN)

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Bát Nhã sâu xa là mẹ của chư Phật, thường chỉ rõ thật tướng của các pháp thế gian, thế nên chư Phật nương pháp mà trụ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, bảo vệ giữ gìn pháp đã nương tựa. Pháp này chính là Bát nhã Ba la mật. Các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều y chỉ Bát Nhã sâu xa, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, bảo vệ giữ gìn. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa thường sanh ra chư Phật, có thể làm chỗ y chỉ cho chư Phật, có thể chỉ dạy thật tướng của các pháp thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là người biết ân, là người thường đền ân. Nếu có người hỏi: “Ai là người biết ân và thường đền ân?” thì nên trả lời ngay: “Phật là người biết ân, là người thường đền ân”. Vì sao? Vì tất cả những người biết ân, đền ân ở thế gian không ai hơn Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết ân và đền ân?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cỡi cỗ xe như thế, đi trên con đường như thế để đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đắc Bồ đề xong, trong tất cả thời cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, bảo vệ, giữ gìn cỗ xe này, con đường này, không lúc nào rời bỏ cỗ xe này, con đường này. Nên biết, đó chính là Bát Nhã sâu xa. Như thế gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết ân, đền ân.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương Bát Nhã sâu xa nên biết rõ tất cả pháp không thật tác dụng. Vì người tạo tác vô sở hữu vậy. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương Bát Nhã sâu xa nên biết rõ tất cả pháp không có sự thành tựu, bởi các hình chất không thể đắc.

Thiện Hiện nên biết! Do các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết nương Bát Nhã sâu xa như thế, nên biết rõ tất cả pháp đều không tác dụng, không có sự thành tựu, nên đối với tất cả thời cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, tán thán, bảo vệ, giữ gìn, chưa từng gián đoạn, nên gọi là chơn thật biết ân, đền ân.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không ai chẳng đều nương Bát nhã Ba la mật sâu thẳm đối tất cả pháp chuyển trí vô tác, vô thành, vô sanh. Lại năng biết đây nhân duyên vô chuyển. Vậy nên, phải biết Bát nhã Ba la mật sâu thẳm năng sanh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng năng như thật chỉ tướng thế gian.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Như Lai thường dạy: Tánh của tất cả pháp không sanh, không khởi, không biết, không thấy, thì làm sao có thể nói Bát Nhã sâu xa có thể sanh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng có thể như thật chỉ dạy tướng thế gian?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như lời ngươi nói! Tánh của tất cả pháp không sanh, không khởi, không biết, không thấy. Thế nào là tánh của các pháp không sanh, không khởi, không biết, không thấy? Vì tất cả pháp Không, vô sở hữu, không y chỉ, không hệ thuộc. Do nhân duyên này nên không sanh, không khởi, không thấy, không biết.

Thiện Hiện nên biết! Bát Nhã mặc dù có thể sanh chư Phật và chỉ rõ thật tướng thế gian, nhưng không có sở sanh, cũng không có sở chỉ.

Thiện Hiện nên biết! Bát Nhã sâu xa không thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức nên gọi là chỉ tướng sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bát nhã Ba la mật không thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức nên gọi là chỉ tướng sắc thọ, tưởng, hành, thức?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Do Bát nhã Ba la mật này không duyên sắc, thọ, tưởng, hành, thức để sanh thức, nên gọi là không thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Do không thấy nên gọi là chỉ tướng của sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Do nghĩa như thế, Bát Nhã sâu xa có thể chỉ thật tướng các pháp thế gian.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã sâu xa năng chỉ cho Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thế gian Không, xa lìa, tịch tịnh, nên gọi là có thể chỉ thật tướng thế gian. Vì tất cả thế gian đều lấy Không, xa lìa, tịch tịnh làm thật tướng vậy.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa vì việc lớn nên xuất hiện ở thế gian, vì việc chẳng thể nghĩ bàn, việc chẳng thể đo lường, việc không số lượng, việc không gì bằng, nên xuất hiện ở thế gian.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như lời ngươi nói!

Thiện Hiện! Thế nào là Bát Nhã sâu xa vì việc lớn nên xuất hiện ở thế gian? Nghĩa là các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì cứu giúp tất cả hữu tình không lúc nào ngưng nghỉ mà làm việc lớn. Bát Nhã sâu xa vì việc này nên xuất hiện ở thế gian.

Thiện Hiện! Thế nào là Bát Nhã sâu xa vì việc chẳng thể nghĩ bàn, việc chẳng thể đo lường, việc không số lượng, việc không gì bằng nên xuất hiện ở thế gian? Nghĩa là các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác sở hữu Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên giác tánh, Nhất thiết trí tánh đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng. Bát Nhã sâu xa vì việc này nên xuất hiện ở thế gian. (Q.561, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên giác tánh, Nhất thiết trí tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng hay là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Chẳng phải chỉ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên giác tánh, Nhất thiết trí tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng, mà sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng. Vì sao? Vì trong tánh chân thật của tất cả pháp, tâm và tâm sở đều bất khả đắc.

Thiện Hiện phải biết: Các sở hữu sắc thọ tưởng hành thức và tất cả pháp đều chẳng thể thi thiết nên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể cân lường, không số lượng, không gì bằng. Vì cớ sao? Vì các pháp như thế không tự tánh vậy, bất khả đắc vậy, tự tánh rỗng không vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp hiện hữu đều chẳng thể đắc nên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng. Vì sao? Vì các pháp như thế không hạn lượng, vô sở hữu, tự tánh Không.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp hiện hữu đều không hạn lượng, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp hiện hữu đều không hạn lượng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi thế nào? Hư không là pháp có tâm, tâm sở có hạn lượng chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp hiện hữu cũng như thế. Vì tự tánh Không, nên tâm, tâm sở không có hạn lượng. Do nhân duyên này, sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp hiện hữu không hạn lượng, đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng.

Thiện Hiện nên biết! Do tất cả pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng, nên tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có pháp Phật, pháp Như Lai, pháp giác tự nhiên, pháp Nhất thiết trí cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng.

Thiện Hiện nên biết! Các pháp như thế đều chẳng thể nghĩ bàn, vì diệt nghĩ bàn vậy; chẳng thể đo lường, vì diệt đo lường vậy; không số lượng, vì diệt số lượng vậy; không có gì bằng, vì diệt so sánh vậy.

Thiện Hiện nên biết! Các pháp như thế đều chẳng thể nghĩ bàn, vì vượt qua sự nghĩ bàn, chẳng thể đo lường vì vượt qua sự đo lường, không số lượng vì vượt qua số lượng, không gì bằng vì vượt qua sự so sánh vậy.

Thiện Hiện nên biết! Chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng, chỉ là khái niệm, hoàn toàn không chơn thật.

Thiện Hiện nên biết! Chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng đều như hư không, hoàn toàn vô sở hữu. Do nhân duyên này, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác sở hữu Phật pháp, Như Lai pháp, tự nhiên giác pháp, Nhất thiết trí pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng. Thanh văn, Độc giác, thế gian trời, người, A tu la thảy, thảy đều chẳng thể nghĩ bàn cân lường số lượng ngang bằng các pháp đây vậy.

Khi Như Lai thuyết pháp chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng này, thì ngay lúc ấy trong chúng hội có năm trăm Bí sô, hai mươi Bí sô ni sạch các lậu, tâm được giải thoát. Lại có sáu vạn Ưu bà tắc, ba vạn Ưu bà di ở trong các pháp xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh. Lại có hai mươi đại Bồ Tát đắc Vô sanh pháp nhẫn. Thế Tôn thọ ký cho những vị đó trong Hiền kiếp sẽ thành Phật, độ các hữu tình.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có phải Bát Nhã sâu xa chính vì đại sự mà xuất hiện ở thế gian chăng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Bát Nhã sâu xa chính vì đại sự mà xuất hiện ở thế gian. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa đầy đủ khả năng thành tựu địa vị Nhất thiết trí, hoặc địa vị Thanh văn, hoặc địa vị Độc giác, đều thâu nhiếp vào đây.

Thiện Hiện nên biết! Như Đại vương quán đảnh, dòng Sát đế lợi, oai đức tự tại, hàng phục tất cả, đem tất cả việc nước giao phó cho đại thần, chấp tay ngồi ngay thẳng, an ổn vô vi, thọ nhận sự an lạc; Như Lai cũng như thế, làm Đại Pháp Vương uy đức tự tại, hàng phục tất cả, đem các pháp Phật hoặc pháp Độc giác, pháp Thanh văn phó chúc cho Bát Nhã sâu xa, khiến thành tựu rộng khắp.

Thế nên Thiện Hiện! Bát Nhã sâu xa chính vì đại sự mà xuất hiện ở thế gian.

Thiện Hiện nên biết! Bát Nhã sâu xa chẳng vì nhiếp thọ chấp trước sắc cho đến thức nên xuất hiện ở thế gian; chẳng vì nhiếp thọ chấp trước quả Dự lưu cho đến Nhất thiết trí trí mà xuất hiện ở thế gian.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bát nhã Ba la mật cũng chẳng vì chấp thủ Nhất thiết trí trí mà xuất hiện ở thế gian?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý người thế nào? Ngươi có thấy quả vị A la hán có thể chấp thủ chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn, không! Con chẳng thấy trong quả vị A la hán có gì để chấp thủ.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Ta cũng chẳng thấy trong pháp Như Lai có gì để chấp thủ. Thế nên, này Thiện Hiện! Bát Nhã sâu xa cũng chẳng vì chấp thủ Nhất thiết trí trí mà xuất hiện ở thế gian.

Khi ấy Thiên tử Phạm Thế cõi Dục bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế rất là sâu xa, khó thấy, khó biết, rất khó tin hiểu. Nếu các hữu tình từng ở chỗ vô lượng chư Phật quá khứ phát thệ nguyện rộng lớn, trồng nhiều căn lành thì mới có thể tin hiểu được. Giả sử các loài hữu tình ở Tam thiên đại thiên thế giới, tất cả đều thành tựu Tùy tín hành v.v... loài hữu tình kia hoặc trải qua một kiếp hay hơn một kiếp tu hạnh Tự địa, không bằng có người một ngày nhẫn vui suy gẫm, cân lường quan sát Bát Nhã sâu xa này, đạt được công đức hơn người kia vô lượng.

 

Bấy giờ, Phật bảo các Thiên tử:

- Đúng như vậy! Đúng như lời ngươi nói! Thiên tử nên biết! Nếu thiện nam, thiện nữ nào nghe Bát Nhã sâu xa thì mau đắc Niết bàn thù thắng hơn Tùy tín hành v.v... đã nói ở trước trải qua một kiếp hoặc hơn một kiếp tu hạnh Tự địa, huống gì chỉ tu nhẫn vui suy gẫm, cân lường quan sát Bát Nhã sâu xa này v.v…

Khi ấy, các Thiên tử nghe Phật dạy, vui mừng hớn hở, đảnh lễ Như Lai, nhiễu bên phải ba vòng và từ giã trở về cung. Rời chúng hội không xa, bỗng nhiên biến mất và đều trụ nơi cung điện ở cảnh giới của mình, khuyến khích, sách tấn chư Thiên tu hạnh thù thắng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát thường hết lòng tin hiểu Bát Nhã sâu xa thì từ nơi nào sanh đến nơi đây?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ Tát nghe Bát Nhã sâu xa có thể tin hiểu, chẳng nghi ngờ, chẳng buồn bậc, ưa thấy, ưa nghe, nhớ nghĩ tư duy nghĩa lý sâu xa, thường ưa đi theo người thuyết pháp, như trâu nghé theo mẹ chưa từng rời xa, cho đến khi chưa đắc nghĩa lý tương ưng với Bát Nhã sâu xa, thông suốt hoàn toàn, có thể thuyết cho mọi người, hoàn toàn chẳng rời xa Bát Nhã và thầy thuyết pháp, dù trải qua chốc lát, thì các Bồ Tát này từ trong loài người sanh đến nơi này, nương nhân tốt đời trước nên có thể thành tựu được việc như thế.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lại có Bồ Tát nào thành tựu công đức thù thắng như thế, phụng thờ, cúng dường Phật ở phương khác xong, từ nơi đó sanh đến nơi này chăng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Có các Bồ Tát thành tựu công đức thù thắng như thế, phụng thờ, cúng dường Phật ở phương khác xong, từ chỗ đó sanh đến nơi này.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ Tát thành tựu công đức thù thắng như thế, đời trước đã ở trên trời Hỷ Túc, phụng thờ cúng dường Bồ Tát Từ Thị, nghe Bát Nhã sâu xa, thưa hỏi nghĩa lý sâu xa trong đó; từ nơi đó sanh đến nơi này.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ Tát đời trước tuy nghe Bát Nhã sâu xa nhưng chẳng thể thưa hỏi nghĩa lý sâu xa trong đó, nên đời này trong loài người, nghe thuyết Bát nhã Ba la mật nghi ngờ, mờ mịt, hoang mang, khó có thể tỏ ngộ. Vì sao? Vì người chẳng rõ nghĩa, tâm nhiều nghi ngờ, mờ mịt, hoang mang, khó khuyến dụ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các Bồ Tát đời trước mặc dù nghe Bát Nhã cũng từng thưa hỏi nghĩa lý trong đó, hoặc trải qua một ngày cho đến năm ngày nhưng chẳng tinh siêng như lời tu hành. Đời nay khi nghe thuyết Bát Nhã thậm thâm như thế, dù thời gian ngắn ngủi, nơi tâm vẫn vững vàng không ai hoại được. Nếu lìa Bát nhã Ba la mật và pháp sư thỉnh hỏi, thâm nghĩa liền bèn lui mất. Vì sao? Vì các Bồ Tát này mặc dù đời trước được nghe Bát nhã Ba la mật, cũng thường thưa hỏi nghĩa lý sâu xa, nhưng không tinh tấn đúng như lời dạy tu hành, nên đời này đối với Bát Nhã, hoặc có lúc ưa nghe, có lúc không ưa, hoặc có lúc bền vững, có lúc thối lui; tâm người đó mạnh yếu, tấn thối bất thường như bông đổ la miên cuốn theo chiều gió. Bồ Tát mới học Đại thừa cũng thế, mặc dù có tín tâm nhưng chẳng vững vàng thanh tịnh. Đối với Bát nhã Ba la mật lâu ngày chẳng ưa muốn chuyển đổi, thì sẽ rơi vào một trong hai thừa.

 

Sơ giải:

 

Đây là một bài pháp quá vi diêu nói về tướng các pháp. Đáng tư duy quán tưởng miên mật.

 

1. Câu đầu tiên của các Thiên chủ, Thiên vương và

vô số Thiên tử hỏi Phật là:

 

- “Bạch Thế Tôn! Các pháp sâu xa đã nói, lấy gì làm tướng?

Phật bảo các Thiên chúng:

- Các pháp sâu xa mà Ta đã nói, lấy không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô sở y chỉ, vô tánh làm tướng”.

Dù là pháp sâu xa hay chẳng sâu xa đều có tướng như vậy. Pháp Phật thuyết không có sự nương tựa, ví như hư không, không thể biểu thị. Tướng pháp sâu xa, trời, người, A tu la v.v... trong thế gian chẳng thể an lập, cũng chẳng thể phá hoại. Có Phật không Phật, lẽ vậy thường trụ. Phật đối tướng này như thật giác biết, nên gọi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

 

2. Ý thứ hai về tướng:

 

Phật bảo:

“Thiên chúng nên biết, tướng của tất cả pháp, Như Lai biết như thật là vô tướng”. Do trực giác thực chứng này mà Phật đắc trí vô ngại, không ai bằng. Vì sao? Vì vô tướng tức là không có tướng, không có tướng làm sao thấy? Không thấy thì không phân biệt chấp trước, nếu không phân biệt chấp trước thì làm gì có quái ngại? Nên nói chư Phật đắc trí vô ngại không ai bằng.

Nhưng chủ đích của pháp vô tướng là để phá chấp hữu tướng. Khi nhập vào pháp không rồi thì không thấy pháp hữu tướng pháp vô tướng nữa mà chỉ thấy tất cả nhất tướng chỗ gọi là vô tướng. Nên Phật bảo tu vô tướng đây là tu Bát Nhã.

Bằng con mắt Bát Nhã chư Phật thấy rõ thật tướng các pháp thế gian phơi bày như thế. Biết các pháp vô sở hữu, bất khả đắc, không tác dụng như hư không, nên tất cả pháp không có thành tựu.

 

3. Ý thứ ba:

 

“Tánh của tất cả pháp không sanh, không khởi, không biết, không thấy. Thế nào là tánh của các pháp không sanh, không khởi, không biết, không thấy? Vì tất cả pháp Không, vô sở hữu, vô y chỉ, không hệ thuộc. Do nhân duyên này nên không sanh, không khởi, không thấy, không biết”.

Đây chỉ lặp lại ý trên, chỉ khác lối diễn đạt: Tất cả pháp là Không, vô sở hữu, bất khả đắc... thì làm gì trói buộc được ai? Nếu không bị trói buộc, thì không còn quái ngại! Thế gian không ngoài năm uẩn(sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Nếu không có sở duyên thì năm uẩn lấy gì nương vịn, mà sanh thức? Vì vậy, Phật bảo Thiện Hiện:

- “Do Bát nhã Ba la mật này không duyên sắc, thọ, tưởng, hành, thức để sanh thức, nên gọi là không thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Do không thấy nên gọi là chỉ tướng của sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Do nghĩa như thế, Bát Nhã sâu xa có thể chỉ thật tướng các pháp thế gian”.

Rốt ráo thì như thế nào? Bát Nhã thấy biết các pháp là trì độn, vô tri, là như huyễn như mộng, nên tâm không còn động chuyển nữa. Do đó, Phật bảo Thiện Hiện: “Bát Nhã sâu xa năng chỉ cho Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thế gian Không, xa lìa, tịch tịnh, nên gọi là có thể chỉ thật tướng thế gian”.

Khi hiểu ra như thế thì tất cả thế gian không còn nương vịn bám víu vào các pháp thì pháp nào pháp nào cũng đều như, tất cả pháp đều là mắt tuệ Phật. Đó chính là chỗ nói Bát Nhã “chỉ thật tướng thế gian”. Nếu thấy như vậy, biết như vậy, tri giác như vậy thì tất cả pháp đều trở thành không, xa lìa, tịch lặng như hư không, không khác.

 

4. Ý thứ tư:

 

“Phật bảo Thiện Hiện:

- Chẳng phải chỉ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên giác tánh, Nhất thiết trí tánh chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng, mà sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả pháp cũng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng? Vì sao? Vì trong tánh chân thật của tất cả pháp, tâm và tâm sở đều bất khả đắc.

Thiện Hiện phải biết: Các sở hữu sắc thọ tưởng hành thức và tất cả pháp đều chẳng thể thi thiết nên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể cân lường, không số lượng, không gì bằng. Vì cớ sao? Vì các pháp như thế không tự tánh vậy, bất khả đắc vậy, tự tánh rỗng không vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp hiện hữu đều chẳng thể đắc nên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng. Vì sao? Vì các pháp như thế không hạn lượng, vô sở hữu, tự tánh Không”.

Tất cả pháp đều không, tự tánh không cũng là không. Tất cả đều vô sở hữu, bất khả đắc như hư không, thì làm gì thi thiết được? Nên nói không thể nghĩ bàn, chẳng thể cân lường, không số lượng, không gì bằng.

Để kết luân, Phật bảo:

“… Chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng đều như hư không, hoàn toàn vô sở hữu. Do nhân duyên này, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác sở hữu Phật pháp, Như Lai pháp, tự nhiên giác pháp, Nhất thiết trí pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng. Thanh văn, Độc giác, thế gian trời, người, A tu la thảy, thảy đều chẳng thể nghĩ bàn cân lường số lượng ngang bằng các pháp đây vậy”.

Nói như vậy có nghĩa là tất cả pháp đều chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể đo lường, không số lượng, không gì bằng. Đó là chỗ thâm áo mà Bát Nhã biểu thị như hư không.

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2595)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5765)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 113089)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5927)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5973)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6539)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12315)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8480)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14697)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25131)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567