Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Phẩm “Thiên Đế”

24/12/202011:05(Xem: 6472)
02. Phẩm “Thiên Đế”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-507


 

 

II. PHẨM “THIÊN ĐẾ”

Phần sau quyển 556, Hội thứ V, ĐBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

  

Tóm lược:

 

(Không nên trụ)

 

Khi ấy, trời Đế Thích cùng bốn vạn Thiên tử đồng đến hội. Bốn Thiên Vương hộ thế cùng hai vạn Thiên tử đồng đến hội. Đại Phạm Thiên Vương chủ cõi Sách ha cùng một vạn Phạm chúng đồng đến hội. Lại có năm ngàn chúng trời Tịnh cư cũng đến dự. Nghiệp quả và ánh sáng nơi thân của các chúng trời này ở trước oai quang của Phật đều không thể phát ra được.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Thiện Hiện:

- Nay có vô lượng các Thiên tử muốn nghe Đại đức tuyên thuyết chỉ dạy Bát nhã Ba la mật. Cúi xin Đại đức thương xót chỉ dạy cho họ biết thế nào là Bồ Tát nên trụ Bát nhã Ba la mật.

Thiện Hiện bảo Đế Thích:

- Tôi nương thần lực của Phật tuyên thuyết chỉ dạy Bát nhã Ba la mật cho các chúng trời chỗ nên an trụ của các Bồ Tát. Thiên tử các ông, người nào chưa phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì nay nên phát. Những vị đã nhập vào Chánh tánh ly sanh của Thanh văn, Độc giác thì không thể phát tâm đại Bồ đề. Vì sao? Này Kiều thi ca! Vì những người đó đối với giòng sanh tử đã lâu có hạn cách vậy. Trong đó nếu có vị nào phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì tôi cũng tùy hỷ. Vì sao? Kiều thi ca! Vì các bậc thắng nhân nên cầu thắng pháp. Tôi trọn đối với phẩm loại thiện thắng kia chẳng có trở ngại.

Thế Tôn khen Thiện Hiện:

- Lành thay! Lành thay! Ông khéo khuyên bảo các Bồ Tát.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Con đã biết ơn, sao lại không trả ơn. Nghĩa là Phật và các đệ tử quá khứ đã dạy cho các Bồ Tát nhiều loại pháp yếu, muốn làm phương tiện thâm nhập Bát nhã Ba la mật. Bấy giờ, Như Lai cũng học trong pháp đó, nay chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp, làm lợi ích cho chúng con, cho nên nay con y theo lời Phật dạy: Bảo vệ, hộ niệm các Bồ Tát này, làm cho mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp, làm lợi ích an vui cho tất cả. Chính đó là đáp đền ơn đức kia.

Khi ấy, Thiện Hiện bảo với Đế Thích:

- Chư Thiên các ông nên lắng nghe. Ta sẽ nói về tướng đáng trụ Bát Nhã của các chúng Bồ Tát cho các ông.

Kiều thi ca! Các chúng Bồ Tát bằng đại thệ trang nghiêm, hướng thẳng đến Đại thừa thì nên dùng tướng Không để an trụ Bát nhã Ba la mật; không nên trụ sắc, cũng không nên trụ thọ, tưởng, hành, thức. Không nên trụ quả Dự lưu, cũng không nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Cũng không nên trụ đây là sắc. Cũng không nên trụ đây là thọ, tưởng, hành, thức. Không nên trụ đây là quả Dự lưu, cũng không nên trụ đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Không nên trụ sắc, thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc khổ hoặc vui, hoặc ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, Không hoặc bất Không.

Không nên trụ quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề đều là sự hiển bày vô vi, là phước điền chơn thật đáng thọ nhận cúng dường. Không nên trụ quả Dự lưu còn trở lại bảy lần cuối cùng, chắc chắn sẽ nhập Niết bàn. Không nên trụ quả Nhất lai chưa đạt đến Niết bàn, còn trở lại cõi này một lần nữa, chắc chắn dứt sạch các khổ. Không nên trụ quả Bất hoàn diệt độ ở cõi kia, không còn trở lại nữa. Không nên trụ quả A la hán ngay đời này chắc chắn nhập vô dư Niết bàn. Không nên trụ quả Độc giác, vượt địa vị Thanh văn, không đến địa vị Phật mà vào Niết bàn. Không nên trụ địa vị Phật, hiển bày vô vi là ruộng phước chơn thật đáng thọ nhận sự cúng dường, vượt qua các địa vị Thanh văn, Độc giác v.v... làm lợi ích an vui cho vô lượng, vô số hữu tình làm cho nhập vào cảnh giới Vô dư Niết bàn. (Q.556, ĐBN)

 

(Tất cả pháp đều như huyễn hóa kể cả Niết bàn)

 

Khi ấy, Xá lợi Tử nghĩ: Nếu như vậy thì Bồ Tát sẽ trụ ở đâu?

Thiện Hiện đọc được ý nghĩ trong tâm Xá lợi Tử, liền bảo:

- Ý tôn giả thế nào? Tâm Như Lai trụ ở chỗ nào?

Xá lợi Tử thưa Thiện Hiện:

- Tâm Như Lai là hoàn toàn không chỗ trụ. Vì không trụ nên gọi là Như Lai. Nghĩa là không trụ cảnh giới hữu vi, cũng không trụ cảnh giới vô vi, cũng không phải không trụ.

Thiện Hiện thưa:

- Bồ Tát cũng vậy. Như các đức Như Lai đối với tất cả pháp, tâm không trụ, cũng không phải không trụ. Nghĩa là các Bồ Tát đối với Bát Nhã sâu xa, dùng vô sở đắc để làm phương tiện. Nên trụ như vậy, nên học như vậy.

Khi ấy, các Thiên tử thầm nghĩ: Tất cả câu chú của các Dược xoa với vô số sai khác, mặc dù là bí nhiệm nhưng chúng ta còn có thể biết, còn Đại đức Thiện Hiện đối với Bát Nhã sâu xa, tuy dùng vô số lời lẽ để chỉ rõ nhưng chúng ta hoàn toàn chẳng hiểu được gì cả.

Đoán biết được ý nghĩ của chư Thiên, cụ thọ Thiện Hiện bảo với họ:

- Tôi đối trong ấy không nói không chỉ, các ngươi cũng chẳng nghe, đòi hiểu cái gì.

Khi ấy, các Thiên tử lại khởi nghĩ này: Tôn giả Thiện Hiện đối trong nghĩa ấy muốn khiến dễ hiểu mà càng thêm sâu sắc nhỏ nhiệm khó nổi so lường!

Biết được ý nghĩ của Thiên tử kia, cụ thọ Thiện Hiện bảo Thiên tử:

- Có những người muốn chứng, muốn trụ quả vị Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, bậc Độc giác và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật thì cần phải nương vào nhẫn này mới có thể chứng, mới có thể trụ được.

Các Thiên tử lại nghĩ: Đại đức Thiện Hiện hôm nay muốn vì những hữu tình nào và tuyên thuyết những pháp gì?

Biết được ý nghĩ của các Thiên tử, cụ thọ Thiện Hiện bảo với họ:

- Tôi nay muốn vì hữu tình như huyễn thuyết pháp như huyễn. Người kia đối với sự giảng thuyết không nghe, không hiểu, không chứng vậy.

Các Thiên tử lại nghĩ: Là người nghe pháp và pháp như huyễn, hay là hữu tình và quả Dự lưu v.v... khác cũng đều như huyễn cả?

Biết được ý nghĩ của Thiên tử nên Thiện Hiện bảo với họ:

- Các loài hữu tình khác hoặc quả Dự lưu, quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, A la hán, Độc giác, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng đều như huyễn cả.

Khi ấy, chư Thiên hỏi Thiện Hiện:

- Chẳng lẽ sự chứng đắc quả vị Vô thượng Bồ đề của các đức Như Lai cũng đều như huyễn sao?

Thiện hiện đáp:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Cho đến Niết bàn cũng như huyễn.

Các Thiên tử hỏi Thiện Hiện:

- Lẽ nào Niết bàn cũng như huyễn?

Thiện hiện bảo:

- Giả sử có pháp cao hơn Niết bàn chăng nữa thì pháp ấy cũng lại như huyễn, huống là Niết bàn. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì huyễn cùng hữu tình và tất cả pháp cho đến Niết bàn không hai, không riêng, đều bất khả đắc, bất khả thuyết vậy.

 

Khi ấy, Xá lợi Tử cùng Chấp Đại Tạng Mãn Từ Tử, Đại Ẩm Quang v.v... hỏi Khánh Hỷ:

- Tư tưởng Bát Nhã sâu xa như vậy ai là người có thể tin nhận được?

Khánh Hỷ thưa:

- Có các chúng Bồ Tát Bất thối chuyển, đối với sự thuyết Bát Nhã sâu xa này có thể tin nhận. Lại có vô lượng hữu tình đầy đủ chánh kiến và các A la hán nguyện viên mãn đối với Bát Nhã sâu xa… này cũng có thể tin nhận.

Khi ấy, Thiện Hiện thưa:

- Bát Nhã sâu xa được thuyết như vậy, không ai có thể tin nhận được, là vì sao? Vì trong đây không có pháp để có thể hiển bày, không có pháp để chỉ dạy, nên người tin nhận cũng bất khả đắc.

Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ: Tôn giả Thiện Hiện rưới trận mưa pháp lớn. Ta nên hóa làm hương hoa vi diệu để dâng lên cúng dường.

Nghĩ như vậy, liền hóa ra các hương hoa vi diệu dâng lên Thiện Hiện. Khi ấy, Thiện Hiện nghĩ: Hoa này của chư Thiên chưa từng thấy. Hoa nhiệm mầu này nhất định chẳng phải do đất, nước, cỏ cây sanh ra được, mà chính là từ nơi tâm của chư Thiên hóa ra.

Biết tâm niệm của Thiện Hiện, trời Đế Thích thưa với Thiện Hiện:

- Hoa này thật chẳng phải do đất, nước, cỏ cây sanh ra; cũng chẳng phải từ tâm chư Thiên hóa ra; vì hoa đã rải tánh không sanh vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Hoa này không sanh thì không phải hoa.

Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ: Tôn giả Thiện Hiện trí tuệ rộng sâu, chẳng hoại giả danh mà nói thật nghĩa.

Nghĩ như vậy xong, bạch Thiện Hiện:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời tôn giả dạy, các chúng Bồ Tát đối với các pháp nên theo sự thuyết giảng của tôn giả mà học.

Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Như lời ông nói, các chúng Bồ Tát đối với các pháp đều nên theo thuyết giảng của tôi mà học.

Kiều thi ca! Các chúng Bồ Tát theo lời tôi thuyết, khi học Bát Nhã như vậy không học theo quả Dự lưu, không học theo quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Không học theo Bồ đề của bậc Độc giác. Nếu không học theo các bậc này thì chính là học Nhất thiết trí trí của chư Phật. Nếu học Nhất thiết trí trí của chư Phật thì chính là học vô lượng, vô biên Phật pháp. Nếu học vô lượng, vô biên Phật pháp thì chính là không học sắc, thọ, tưởng, hành, thức có tăng giảm. Nếu không học sắc, thọ, tưởng, hành, thức có tăng giảm thì không học sắc, thọ, tưởng, hành, thức có thủ có xả. Nếu chẳng học sắc thọ tưởng hành thức, có thủ có xả, thời chẳng học tất cả pháp có thể nhiếp thọ và có thể hoại diệt. Nếu chẳng học tất cả pháp có thể nhiếp thọ và có thể hoại diệt, các Bồ Tát khi học như thế gọi là chơn học Nhất thiết trí trí, chóng chứng được Nhất thiết trí trí.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Nếu các Bồ Tát chẳng học Nhất thiết trí trí có thể nhiếp thọ và có thể hoại diệt, các Bồ Tát này khi học như thế gọi là chơn học Nhất thiết trí trí, chóng chứng được Nhất thiết trí trí ư?

Thiện hiện đáp:

- Đúng như vậy! Vì lấy vô sở đắc làm phương tiện vậy.

 

(Bồ Tát học Bát Nhã thẩm sâu nên cầu ở đâu?)

 

Trời Đế Thích hỏi Xá lợi Tử:

- Bồ Tát học Bát Nhã sâu xa nên cầu ở đâu?

Xá lợi Tử thưa:

- Bồ Tát học Bát Nhã sâu xa nên cầu trong lời dạy của Ngài Thiện Hiện.

Trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Nhờ thần lực của ai hộ trì mà Xá lợi Tử nói được như thế?

Thiện hiện thưa:

- Nhờ thần lực của Như Lai hộ trì nên khiến Xá lợi Tử nói được như vậy.

Trời Đế Thích hỏi:

- Lại thần lực của ai hộ trì mà tôn giả có thể thuyết Bát Nhã sâu xa?

Thiện Hiện đáp:

- Nhờ thần lực của Như Lai hộ trì nên khiến tôi có thể thuyết Bát Nhã sâu xa.

Kiều thi ca! Ông hỏi Bồ Tát học Bát Nhã sâu xa nên cầu ở đâu?

Kiều thi ca! Bồ Tát học Bát Nhã sâu xa không nên ngay nơi sắc cầu; không nên lìa sắc cầu; không nên ngay nơi thọ, tưởng, hành, thức cầu; không nên lìa thọ, tưởng, hành, thức cầu. Vì sao? Vì sắc chẳng phải Bát nhã Ba la mật, cũng chẳng phải lìa sắc riêng có Bát nhã Ba la mật. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải Bát nhã Ba la mật; cũng chẳng phải lìa thọ, tưởng, hành, thức riêng có Bát nhã Ba la mật.

Trời Đế Thích bạch Thiện Hiện:

- Bát Nhã sâu xa là đại Ba la mật, là vô lượng Ba la mật, là vô biên Ba la mật.

Thiện Hiện đáp:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Vì sao? Này Kiều thi ca! Vì sắc vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Vì thọ, tưởng, hành, thức vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.

Lại nữa, Kiều thi ca! Sở duyên vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.

Kiều thi ca! Thế nào là sở duyên vô biên, nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên? Nghĩa là biên giới trước, giữa, sau của tất cả pháp đều bất khả đắc, nên nó là vô biên. Pháp vô biên nên sở duyên vô biên. Do vậy nên Bát nhã Ba la mật này cũng nói là vô biên.

Lại nữa, Kiều thi ca! Tất cả pháp vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.

Kiều thi ca! Thế nào là tất cả pháp vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên? Nghĩa là biên giới của tất cả pháp không thể đạt. Vì sao? Vì biên giới trước, giữa, sau của sắc cho đến thức đều không thể đạt. Do đó, biên giới trước, giữa, sau của Bát nhã Ba la mật này không thể đạt, nên nói vô biên.

Lại nữa, Kiều thi ca! Hữu tình vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên.

Kiều thi ca! Thế nào là hữu tình vô biên nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên?

Kiều thi ca! Chẳng phải số lượng loài hữu tình quá nhiều, không thể tính đếm được mà nói là vô biên.

Trời Đế Thích thưa:

- Vậy thì vì nghĩa gì nên nói như vậy?

Thiện Hiện bảo:

- Nay tôi hỏi ông, tùy ý ông trả lời. Ý ông thế nào? Hữu tình ấy thuộc pháp nghĩa nào?

Trời Đế Thích thưa:

- Nói hữu tình là chẳng thuộc pháp nghĩa nào cả. Chỉ là sở nhiếp giả lập khách danh, sở nhiếp vô sự danh, sở nhiếp vô duyên danh.

Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Ý ông thế nào? Trong đây có hữu tình chơn thật để có thể chỉ rõ chăng?

Trời Đế Thích thưa:

- Thưa không, bạch Đại Đức!

Thiện Hiện bảo:

- Vì hữu tình không thật để có thể chỉ rõ được nên nói là vô biên.

Kiều thi ca! Ý ông thế nào? Giả sử Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trải qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng, dùng vô biên âm thanh để nói vô lượng danh tự của loài hữu tình. Trong đây có hữu tình chân thật có sanh có diệt không?

Trời Đế Thích thưa:

- Thưa không, bạch Đại đức! Vì sao? Vì các hữu tình bản tánh thanh tịnh vậy.

Thiện Hiện bảo:

- Do đây nên nói hữu tình vô biên, nên phải biết Bát nhã Ba la mật cũng vô biên. Vì vô tánh thẳm sâu đều vô biên vậy.

 

Sơ giải:

 

Phẩm “Thiên Đế” của Hội thứ V này tương đương với hai phẩm là: “Thiên Đế” (từ quyển 77 đến quyển 81) và “Chư Thiên Tử”(từ Q.81 đến Q.82) của Hội thứ I. Nếu Quý vị không nhớ và không tự chiết giải được, thì xin quay lại tụng đọc hai phẩm của Hội thứ I vậy.

 

Có một vấn đề mà chúng tôi vẫn còn thắc mắc mặc dù đã đọc tụng xong bốn Hội đầu với câu hỏi của Trời Đế Thích:

- Bồ Tát học Bát Nhã sâu xa nên cầu ở đâu?

Xá lợi Tử thưa:

- Bồ Tát học Bát Nhã sâu xa nên cầu trong lời dạy của Ngài Thiện Hiện.

Phải hiểu câu hỏi này như thế nào? Học Bát Nhã để cầu cái gì? Nghĩa là đối tượng của việc học Bát Nhã là cầu cái gì?

Trong phẩm này Xá Lợi Tử trả lời Trời Đế Thích: “Bồ Tát học Bát Nhã sâu xa nên cầu trong lời dạy của Ngài Thiện Hiện”.

Phần đầu của câu hỏi không được rõ ràng. Phần sau của câu trả lời rõ ràng.

 

Phẩm “Cầu Bát Nhã”, quyển 89, Hội thứ I, ĐBN. Thiên Đế Thích hỏi Xá Lợi Tử rằng:

- “Bạch Đại đức! Sở hành Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát Ma ha tát phải cầu ở đâu?

Xá Lợi Tử đáp: Kiều Thi Ca! Sở hành Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát Ma ha tát phải cầu ở trong sở thuyết của Thiện Hiện”.

Câu hỏi và câu trả lời của Phẩm “Cầu Bát Nhã”, quyển 89, Hội thứ I này rất rõ ràng: Bồ Tát phải cầu sở hành của Bát Nhã trong sở thuyết của của Thiện Hiện.

Mấu chốt của vấn đề là: Phải cầu sở hành Bát Nhã trong sở thuyết. Tại sao phải cầu sở hành Bát Nhã nơi sở thuyết của Thiện Hiện? Vậy sở hành của Bát Nhã là gì? Sở thuyết của Thiện là gì?

Chúng ta biết rằng Bát Nhã không hành uẩn xứ giới, vì đó là các thứ dời động, tu tán không ngừng. Bát Nhã cũng không hành tướng, vì tướng là đối tượng của phân biệt chấp trước. Có chấp là có thi vi tạo tác, có chọn lựa, lấy bỏ, tung hứng. Biết như thế nên Bát Nhã không hành không quán, không nguyện nữa. Bởi những lý do đó nên Thiện Hiện hành theo lời dạy của Thế Tôn là hành không, vô tướng, vô tác. Hành theo tam giải thoát môn này thì có thể giải thoát mọi hệ luy thế gian.

Sở thuyết của Thiện Hiện trong toàn bộ Đại Bát Nhã này là không, học không, hành không, hành vô tướng, vô tác, vô nguyện. Thiện Hiện được xem là đệ tử “giải không bậc nhất” thời bấy giờ. Mặc dù thuộc hàng Thanh văn nhưng Thiện Hiện có đầy đủ “chất lượng” của một Bồ Tát. Vì vậy, Phật giao cho Thiện Hiện vai trò dạy bảo trao truyền Bát nhã Ba la mật. Nên khi được hỏi sở hành của Bồ Tát phải tìm ở đâu thì Xá Lợi Tử thay mặt Thiện Hiện liền trả lời: Phải tìm sở hành Bát Nhã của Bồ Tát nơi sở thuyết của Thiện Hiện.

 

- Phẩm “Chơn Như”, quyển 319, Hội thứ I, ĐBN. Các Thiên tử cõi Dục và cõi Sắc bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Thượng tọa Thiện Hiện tùy Như Lai sanh, là chơn đệ tử của Phật. Vì sao? Vì tất cả các pháp mà Thượng tọa Thiện Hiện đã thuyết đều tương ưng với không”.

Không những thế tất cả các pháp mà cụ thọ Thiện Hiện đã thuyết đều tương ưng với vô tướng, vô tác, vô nguyện. Nên thay lời Xá Lợi Tử chúng tôi xin trả lời trực tiếp: Sở thuyết của Thiện Hiện là Không, là Tánh không hay Bản tánh không, là vô tướng, là vô tác. Hiểu thế nào là Không, Vô tướng, Vô tác này là hiểu sở thuyết của Thiện Hiện hay hiểu Đại Bát Nhã./.

 

 

---o0o---

 

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2587)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5762)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 112997)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5924)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5961)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6535)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12293)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8471)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14684)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25096)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567