Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

73. Phẩm “Tịnh Độ Phương Tiện” ( Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

03/08/202012:10(Xem: 7646)
73. Phẩm “Tịnh Độ Phương Tiện” ( Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

73_Pham Tinh Do Phuong Tien

 

PHẨM “TỊNH ĐỘ PHƯƠNG TIỆN”



Phần cuối quyển 394 đến phần đầu quyển 395, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Quyết Định” quyển thứ 29, MHBNBLM)

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu

Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên

Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 




 

 

 

Tóm lược:

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát an trụ nhóm chánh tánh định hay an trụ nhóm bất định(1)?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy đều an trụ nhóm chánh tánh định, chẳng phải nhóm bất định.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy an trụ nhóm chánh tánh định Thanh văn thừa? Độc giác thừa? hay là Phật thừa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát ấy đều an trụ nhóm chánh tánh định Phật thừa, chẳng phải an trụ nhóm chánh tánh định nhị thừa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy trụ nhóm chánh tánh định từ khi mới phát tâm, ở ngôi vị Bất thối hay ở thân tối hậu?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát ấy, hoặc từ khi mới phát tâm, hoặc ở bậc Bất thối, hoặc ở thân tối hậu, đều an trụ nhóm chánh tánh định.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát an trụ nhóm chánh tánh định có bị đọa vào các đường ác chăng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! An trụ nhóm chánh tánh định, đại Bồ Tát quyết định không đọa vào các đường ác.

- Này Thiện Hiện! Ý ông nghĩ sao? Các vị ở địa thứ tám(2), hoặc Dự lưu, hoặc Nhất lai, hoặc Bất hoàn, hoặc A la hán, hoặc Độc giác có ai bị đọa vào đường ác chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ nhóm chánh tánh định cũng giống như thế, quyết định chẳng đọa vào các đường ác. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy từ khi mới phát tâm tu hành bố thí Ba la mật, tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; an trụ pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh; tu hành ba mươi bảy pháp trợ đạo, an trụ tứ Thánh đế; tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu hành tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; tu hành pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa; tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; tu hành thập địa Bồ Tát; tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông; tu hành Phật mười lực, tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; tu hành pháp không quên mất, tu hành tánh luôn luôn xả; tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; tu hành tất cả Bồ Tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối cao, chế phục đoạn trừ tất cả pháp ác bất thiện.

Thiện Hiện! Do nhân duyên này nên các đại Bồ Tát không bao giờ bị đọa vào ác đạo, không sanh cõi trời Trường thọ(3), không sanh nơi biên địa chỗ không có Phật Pháp Tăng, cũng chẳng sanh nơi nhà hạ tiện đầy ác tuệ, tà kiến v.v… Nếu cần hóa hiện làm bàng sanh cũng vì lợi lạc hữu tình mà hóa hiện. Đại Bồ Tát chẳng phải do ác nghiệp mà thọ thân trong đường ác, chỉ do nguyện mà thọ thân kia. Ví như nhà ảo thuật và đệ tử của y hóa hiện làm đủ các loại như trâu bò, voi ngựa, xe cộ…Người xem thấy thế hết sức vui thích! Nhưng những huyễn vật như trâu bò, voi ngựa… không thật sự có. Các đại Bồ Tát cũng giống như thế, tuy thành tựu tất cả pháp vô lậu bạch tịnh, nhưng vì lợi ích các hữu tình, nên hiện thọ thân các loài bàng sanh; tuy thọ thân của chúng nhưng thật chẳng phải chúng, cũng chẳng bị nhiễm ô tội lỗi của chúng.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát an trụ những thắng pháp bạch tịnh nào mà có thể thực hiện phương tiện quyền xảo như thế, tuy thọ thân các loài bàng sanh nhưng chẳng bị ô nhiễm tội lỗi của chúng?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật có thể thực hiện phương tiện thiện xảo như thế, tuy đến vô lượng hằng hà sa thế giới trong mười phương, hiện các loại thân làm lợi ích an lạc các loài hữu tình, nhưng ở trong đó, chẳng sanh nhiễm trước. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy đối với tất cả pháp hoàn toàn không có sở đắc, nghĩa là hoàn toàn chẳng đắc năng nhiễm, sở nhiễm và nhân duyên của sự nhiễm. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

- Thiện Hiện! Không chẳng thể nhiễm trước không, không cũng chẳng thể nhiễm trước pháp khác, cũng không có pháp khác có thể nhiễm trước không. Vì sao? Vì trong không, tánh không còn chẳng thể nắm bắt được huống là có pháp khác có thể nắm bắt được.

- Này Thiện Hiện! Như vậy gọi là pháp bất khả đắc không. Các đại Bồ Tát an trụ trong pháp này có thể chứng quả vị Giác ngộ tối cao.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát chỉ an trụ Bát Nhã hay còn an trụ các pháp nào khác mà có thể thực hiện phương tiện thiện xảo như thế?

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Không có pháp nào mà chẳng nhập vào Bát Nhã, tại sao còn nghi là an trụ pháp nào khác?

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế, nếu tự tánh là không thì làm sao Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ tất cả pháp. Bạch Thế Tôn! Chẳng phải ở trong không, có thể nói có pháp nhiếp thọ hay chẳng nhiếp thọ?

- Này Thiện Hiện! Đâu chẳng phải tự tánh các pháp đều chẳng không?

- Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy!

- Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp tự tánh đều không thì trong cái bất không làm sao nhiếp thọ tất cả pháp(5)?

Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này biết Bát Nhã thẳm sâu bao gồm tất cả pháp.

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao đại Bồ Tát khi tu hành an trụ trong tự tánh không của tất cả pháp lại có thể dẫn phát thần thông Ba la mật? Chư đại Bồ Tát an trụ thần thông Ba la mật có thể đi đến vô lượng hằng hà sa thế giới khắp mười phương để cúng dường chư Phật, nghe thọ chánh pháp, ở chỗ chư Phật trồng các thiện căn?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, quán khắp vô lượng hằng hà sa thế giới trong mười phương và chư Phật cùng tất cả pháp đã thuyết, tự tánhđều không làdo danh tự thế tục giả nói; danh tự thế tục giả nói như thế, tự tánh cũng không. Nếu mười phương thế giới và chư Phật cùng pháp đã thuyết, giải nói danh tự, tự tánh chẳng không thì cái không đã nói đáng lẽ chẳng cùng khắp; vì cái không đã nói chẳng phải chẳng cùng khắp cho nên tất cả pháp tự tánh đều không.

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy khi tu hành Bát nhã Ba la mật, do quán khắp không, phương tiện thiện xảo, mới có thể dẫn phát thần thông thù thắng; an trụ thần thông này, lại có thể dẫn phát thiên nhãn, thiên nhĩ, thần cảnh, tha tâm, túc mạng trí thôngvà lậu tận trí thông thù thắng (6).Các đại Bồ Tát chẳng phải lìa thần thông mà có thể tự tại thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

- Này Thiện Hiện! Cho nên thần thông là đạo Bồ đề, các đại Bồ Tát đều nương đạo này cầu hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao. Khi cầu hướng, có thể tự viên mãn tất cả thiện pháp, cũng có thể khiến người tu các thiện pháp; tuy làm việc ấy, nhưng đối với thiện pháp chẳng sanh chấp trước. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy biết các thiện pháp tự tánh đều không, chẳng phải tự tánh không có chấp trước; nếu có chấp trước thì có mê đắm; do không chấp trước nên không mê đắm, vì trong tự tánh không không có mê đắm.

 

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy khi tu hành Bát nhã Ba la mật, an trụ thần thông thù thắng, dẫn phát thiên nhãn thanh tịnh hơn người, dùng thiên nhãn ấy quán tất cả pháp đều tự tánh không. Nên chẳng nương vào pháp tướng mà tạo tác các nghiệp, tuy vì hữu tình nói pháp như thế, nhưng cũng chẳng thủ đắc tướng của các hữu tình và sự an lập của chúng. Đại Bồ Tát ấy lấy vô sở đắc làm phương tiện, dẫn phát thần thông Ba la mật, dùng thần thông Ba la mật ấy theo bi nguyện mà làm Phật sự.

 

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy dùng thiên nhãn cực kỳ thanh tịnh hơn người có thể thấy vô lượng hằng hà sa thế giới khắp mười phương; thấy rồi dẫn phát thần cảnh trí thông đi đến các nơi ấy làm lợi ích các loài hữu tình, hoặc dùng lục Ba la mật, hoặc dùng ba mươi bảy pháp trợ đạo, hoặc dùng tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, hoặc dùng tám giải thoát, hoặc dùng tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ v.v… mà làm lợi ích các loài hữu tình.

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy nếu thấy hữu tình ở mười phương thế giới nhiều xan tham, thì vô cùng thương xót, khuyên bảo nên hành bố thí; thấy hữu tình hủy phạm tịnh giới, khuyên bảo nên trì tịnh giới; thấy hữu tình nhiều sân hận, khuyên bảo nên nhẫn nhục; thấy hữu tình lười biếng giải đãi, khuyên bảo nên siêng năng tinh tấn; thấy hữu tình thất niệm, tán loạn, tâm chẳng tịch tịnh, khuyên bảo nên tu các định; thấy hữu tình ngu si ác tuệ, khuyên bảo nên tu trí tuệ để thoát khỏi ngu tối.

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát dạy chúng hữu tình nhiều tham dục thì dạy họ tu quán thân bất tịnh. Nếu thấy hữu tình nhiều sân nhuế thì phương tiện dạy bảo dẫn dắt khiến họ tu quán từ bi. Nếu thấy hữu tình nhiều ngu si, phương tiện dạy bảo dẫn dắt khiến tu quán duyên khởi. Nếu thấy hữu tình nhiều ngã mạn, phương tiện dạy bảo dẫn dắt khiến tu quán giới phân biệt. Nếu thấy hữu tình nhiều tầm tứ(7), phương tiện dạy bảo dẫn dắt khiến tu quán sổ tức. Nếu thấy hữu tình hành tà đạo, thì phương tiện dạy bảo dẫn dắt khiến nhập chánh đạo.

- Này Thiện Hiện! Như thế, các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật cần phải an trụ thần thông Ba la mật, mới có thể tự tại tuyên thuyết chánh pháp, lợi ích an lạc các loại hữu tình.

- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát xa lìa thần thông Ba la mật thì chẳng có thể tự tại tuyên thuyết chánh pháp, làm việc lợi ích cho các hữu tình. Như chim không cánh chẳng có thể bay. Các đại Bồ Tát cũng giống như thế, nếu không có thần thông Ba la mật thì chẳng có thể tự tại tuyên thuyết chánh pháp, làm lợi ích cho các hữu tình. Vì vậy, các đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã nên dẫn phát thần thông Ba la mật; nếu dẫn phát thần thông Ba la mật thì có thể tùy ý tuyên thuyết chánh pháp, lợi ích an lạc cho các loài hữu tình.

 

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy dùng thiên nhĩ vô cùng thanh tịnh có thể nghe tất cả tiếng nhơn, phi nhơn; do thiên nhĩ này có thể nghe chư Phật ở vô lượng hằng hà sa thế giới khắp mười phương thuyết pháp; nghe rồi không lẫn lộn, đều có thể thọ trì, vì các hữu tình như thật tuyên thuyết, hoặc thuyết lục Ba la mật, mười tám pháp không, ba mươi bảy pháp trợ đạo, tứ Thánh đế, hoặc nói bốn tịnh lự, hoặc nói bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc nói tám giải thoát, hoặc nói tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc nói pháp môn Đà la ni, Tam ma địa; hoặc nói pháp môn giải thoát không, hoặc nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc nói đạo Thanh văn, hoặc nói đạo Độc giác, hoặc nói đạo Bồ Tát, hoặc nói Niết bàn, khiến hữu tình kia nghe pháp ấy rồi đều được lợi ích an lạc thù thắng.

 

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát có thể dùng tha tâm trí, như thật rõ biết tâm và tâm sở của các hữu tình, tùy theo căn cơ, vì họ nói pháp yếu, đó là nói về lục Ba la mật, mười tám pháp không v.v… cho đến hoặc nói Niết bàn, khiến các hữu tình nghe pháp ấy rồi đều được lợi ích an lạc thù thắng.

 

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy dùng túc trú tùy niệm trí thông (còn gọi là túc mạng thông) có thể nhớ các chuyện đời trước của mình và người; do túc trú tùy niệm trí thông này như thật nhớ biết danh hiệu sai khác của chư Phật và chúng đệ tử quá khứ. Nếu các hữu tình ưa nghe các sự việc đời quá khứ mà được lợi ích thì liền vì họ mà tuyên thuyết các sự việc đời trước. Nhân phương tiện này vì họ thuyết chánh pháp đó là thuyết bố thí, hoặc thuyết tịnh giới, hoặc thuyết an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, hoặc thuyết Bát nhã Ba la mật, như vậy cho đến hoặc thuyết Niết bàn, khiến hữu tình kia nghe pháp ấy rồi đều được lợi ích an lạc thù thắng.

 

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy dùng lậu tận trí thông tùy sở đắc, như thật rõ biết các loài hữu tình lậu (hoặc) đoạn hay chưa đoạn, cũng như thật biết phương tiện đoạn lậu vì người tuyên thuyết pháp yếu, đó là thuyết bố thí, hoặc thuyết tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, như vậy cho đến hoặc thuyết Niết bàn, khiến hữu tình kia nghe pháp ấy rồi đều được lợi ích an lạc thù thắng.

 

Này Thiện Hiện! Như vậy, các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, nên dẫn phát thần thông Ba la mật. Đại Bồ Tát ấy tu tập thần thông Ba la mật được viên mãn, nên tùy theo ý thích thọ các loại thân giúp ích hữu tình, nhưng chẳng bị tội lỗi khổ, vui làm ô nhiễm. Như hóa thân của Phật tuy có thể thực hiện các sự việc nhưng chẳng bị tội lỗi khổ vui làm tạp nhiễm. Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, nên du hý thần thông Ba la mật. Nếu du hý thần thông Ba la mật thì có thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát chẳng thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật thì chẳng bao giờ đắc sở cầu là quả vị Giác ngộ. Vì sao? Vì tư lương Bồ đề của các đại Bồ Tát nếu chưa đủ thì nhất định chẳng có thể đắc sở cầu là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những gì là tư lương Bồ đề mà các đại Bồ Tát cần phải đủ mới có thể chứng đắc sở cầu là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tất cả thiện pháp đều là tư lương Bồ đề(8) mà các đại Bồ Tát cần phải (trang bị) đủ mới có thể chứng đắc sở cầu là quả vị Giác ngộ tối cao. Các đại Bồ Tát từ khi mới phát tâm tu hành bố thí Ba la mật; tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; trong đó hoàn toàn không phân biệt chấp trước, nghĩa là nghĩ: Đây là bố thí v.v... do đây, vì đây mà tu bố thí v.v..., ba sự phân biệt chấp trước ấy đều không có, vì biết tất cả pháp tự tánh là không; do đó việc tu lục Ba la mật, an trụ 18 pháp không, tu hành 37 pháp trợ đạo; an trụ tứ Thánh đế; tu hành bốn tịnh lự, tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu hành tám giải thoát, tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, tu hành Nhất thiết trí, cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, có thể tự mang lợi ích cho mình, cũng có thể mang lợi ích cho người, khiến thoát sanh tử, chứng đắc Niết bàn cho nên nói là thiện pháp, cũng gọi là tư lương Bồ đề, cũng gọi là Bồ Tát đạo. Chúng đại Bồ Tát quá khứ, vị lai, hiện tại tu hành đạo này đã đắc, sẽ đắc và hiện đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng khiến hữu tình đã, sẽ, hiện vượt qua biển lớn sanh tử, chứng vui Niết bàn.

- Thiện Hiện! Nên biết, lại có vô lượng công đức tu hành của các chúng Bồ Tát đều gọi là thiện pháp, cũng gọi là tư lương Bồ đề, cũng gọi là Bồ Tát đạo. Các đại Bồ Tát cần phải tu thiện pháp thù thắng như thế khiến viên mãn cùng tột mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Cần phải chứng đắc Nhất thiết trí trí rồi mới có thể chuyển bánh xe Chánh pháp không trái ngược, khiến các hữu tình giải thoát sanh tử, chứng đắc Niết bàn cứu cánh thường lạc! (Q. 395, ĐBN)

 

Thích nghĩa:

(1). Nhóm chánh tánh định hay còn gọi chánh định tụ: Tụ có nghĩa là chia thành từng nhóm, chủng hay loại. Tánh chúng sanh chia thành ba nhóm: Chánh, tà và bất định. Nhóm chánh tánh định là chỉ nhóm người chắc chắn được chứng ngộ chánh quả trong số chúng sanh, giai vị Bồ Tát từ ngôi Thập tín trở lên, cũng gọi là Chánh định. (Đã thích nghĩa nhiều lần ở trên).

(2). Các vị ở địa thứ tám: tức Bậc bát nhân, là một trong Tam thừa cộng Thập địa Bồ Tát là: Càn tuệ địa, Tính địa, Bát nhân địa, Kiến địa, Bạc địa, Li dục địa, Dĩ tác địa, Bích chi Phật địa, Bồ Tát địa, Phật địa. Địa vị này cũng giống như quả Tư đà hàm của Tiểu thừa cho đến quả Phật. Đã thích nghĩa rồi.

(3). Không sanh ở cõi trời Trường thọ: Sanh ở cõi trời Trường thọ không phải là điều tốt, đó là một trong tám nạn. Vì thọ mệnh cao làm hành giả dễ quên những nỗi khổ của sinh lão bệnh tử mà không lo tu tập để giải thoát.

(4). Bất khả đắc không: Tất cả các pháp như sống chết, Niết bàn v.v... tánh, tướng đều tịch diệt, tìm nó không thể được, gọi là bất khả đắc không. Đả thích nghĩa rồi. Chỉ lặp lại để nhớ!

(5).- Thiện Hiện! Tự tánh các pháp đều không, đâu phải chẳng không?

- Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy!

- Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp tự tánh đều không thì trong cái bất không làm sao nhiếp thọ tất cả pháp?

Nguyên văn bằng chữ Hán là:

thiện hiện .khởi bất chư pháp tự tánh giai không .

như thị .Thế Tôn .như thị .Thiện Thệ .

thiện hiện .nhược nhất thiết pháp tự tánh giai không .khởi bất không trung nhiếp nhất thiết pháp”.

(6). Lục thần thông: Xem lại phần thứ I Tổng luận.

(7). Tầm tứ: (s: vitarka, vicāra). Hai điều kiện của thiền định, là truy cầu và phân tích.

(8). Tất cả thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo, các pháp hy hữu… đều là tư lương Bồ đề, còn gọi là Bồ Tát đạo đã lược giải tỉ mỉ và đúc kết thành phần thứ I của thiên Tổng luận này, nên không cần ghi lại hay giải thích thêm.

 

Lược giải:

 

Phẩm “Phương Tiện Tịnh Độ” của ĐBN do Ngài Huyền Trang dịch và phẩm “Quyết Định” của Kinh MHBNBLMĐ do Ngài La Thập dịch, giống nhau như hai giọt nước, chỉ khác ở phẩm tựa. Phương tiện tịnh độ có nghĩa là gì? Bồ Tát thực thi các phương tiện thiện xảo để biến cõi đất này trở thành cõi Tịnh độ giống như mong ước của Bồ Tát Pháp Tạng trước khi trở thành Phật A Di Đà. Đó là một trong những hạnh nguyện cao cả của bất cứ Bồ Tát nào từ sơ phát tâm cho đến khi thành chánh quả. Nhưng trước khi thực thi những chương trình cứu rỗi chúng sanh, Bồ Tát phải học tất cả các thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo, tư lương Bồ đề Bồ Tát... để có đủ trí tuệ, các biện tài, các thần thông... mà hóa độ chúng sanh, thanh tịnh quốc độ.

Kinh bảo Nếu đại Bồ Tát chẳng thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật thì chẳng bao giờ chứng đắc sở cầu là quả vị Giác ngộ. Vì sao? Vì tư lương Bồ đề của các đại Bồ Tát nếu chưa đủ thì nhất định chẳng có thể đắc sở cầu quả vị Giác ngộ tối cao”.

Điều đó có nghĩa phải có đủ tư lương Bồ đề thì mới có thể chứng đắc sở cầu Quả vị giác ngộ, rồi sau đó mới có thể thành thục hữu tình, nghiêm tịnh quốc độ. Vậy, điều kiện cần và đủ là phải có tư lương Bồ đề. Kinh bảo “các thiện pháp còn gọi là tư lương Bồ đề. Như vậy, các thiện pháp đóng một vai trò quan trọng trong việc tu hành Bồ Tát đạo. Không có các thiện pháp là không có Bồ Tát, không có Phật nói chi đến giác ngộ mà cứu độ chúng sanh.

Đó là lý do tại sao chúng tôi tách “Các thiện pháp ra làm thành một phần riêng biệt của thiên Tổng luận này, có tên là các thiện pháp”. Kinh một lần nữa trước khi chấm dứt, nhấn mạnh vai trò của các thiện pháp cũng gọi là tư lương Bồ đề.  Phẩm “Các Tướng Công Đức” quyển 380 mà chúng tôi đã giải thích chi tiết trong phần thứ I Tổng luận. Nay, xin lặp lại một đoạn kinh khác nói về “Các thiện pháp hay tư lương Bồ Tát”: “... hoặc nhân duyên cho đến tăng thượng duyên; hoặc khổ tập diệt đạo Thánh đế; hoặc vô minh cho đến lão tử; hoặc nội không cho đến vô tánh tự tánh không; hoặc chơn như cho đến bất tư nghì giới; hoặc bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; hoặc bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi; hoặc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc tám giải thoát, chín định thứ lớp; hoặc không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; hoặc tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn; hoặc năm nhãn, sáu thần thông; hoặc Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả; hoặc Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa; hoặc Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa; hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc Bồ Tát hạnh; hoặc Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; hoặc đoạn giới cho đến vô vi giới; hoặc pháp thiện pháp bất thiện; hoặc pháp hữu ký pháp vô ký; hoặc pháp học pháp vô học, pháp phi học phi vô học; hoặc Phật đã thuyết ra pháp luật; hoặc Bồ đề, hoặc Niết Bàn...”, tất cả pháp ấy là các thiện pháp còn gọi là tư lương Bồ đề hay Bồ Tát đạo hay còn gọi là 81 danh tướng Bát nhã Ba la mật.

 

Phải học và hành các thiện pháp và nhất là lục Ba la mật, thành thục chúng sanh, nghiêm tịnh Phật độ. Chỉ có con đường đó mới mở được cánh cửa giác ngộ. Ngoài ra không còn con đường nào khác./.

 

---o0o---

 

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2594)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5765)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 113053)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5925)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5964)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6537)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12305)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8476)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14691)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25115)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567