Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

66. Phẩm “Tương Nhiếp”

08/09/202009:46(Xem: 7273)
66. Phẩm “Tương Nhiếp”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-460

 

PHẨM “TƯƠNG NHIẾP”(1)

Trọn quyển 459, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phẩm "Dẫn Nhiếp Nhau",

Q.349 cho đến hết Q.350, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le



 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật nhiếp lấy cả tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ Tát nào dùng tâm không tham đắm, không keo kiệt để tu hạnh bố thí rồi đem phước bố thí này ban cho các hữu tình, cùng nhau hồi hướng Nhất thiết trí trí, để họ trụ ở thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp từ bi, lìa bỏ các tội ác, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ Tát an trụ vào pháp bố thí Ba la mật nhiếp lấy tịnh giới Ba la mật.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào dùng tâm không tham đắm không keo kiệt để tu hạnh bố thí rồi đem phước bố thí này ban cho các hữu tình, và cùng nhau hồi hướng Nhất thiết trí trí. Nếu bị người thọ nhận sự bố thí đó và các hữu tình gian ác khác chửi mắng, lăng nhục, làm hại một cách phi lý, Bồ Tát này không chuyển tâm, không giận hờn, không dùng thân ngữ để báo thù mà lại đem tâm từ bi thương xót và dùng lời thân ái từ tốn để họ tự hổ thẹn, nhận lỗi, thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ Tát an trụ pháp bố thí Ba la mật nhiếp lấy an nhẫn Ba la mật.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào dùng tâm không tham đắm, không keo kiệt để tu hạnh bố thí rồi đem phước bố thí này ban cho các hữu tình, rồi cùng nhau hồi hướng Nhất thiết trí trí; giả sử bị người nhận sự bố thí đó và các hữu tình gian ác khác mắng nhiếc, lăng nhục, làm hại một cách phi lý, Bồ Tát này liền nghĩ: Các hữu tình gây ra các loại nghiệp như vậy thì sẽ nhận lấy quả báo như vậy, ta không nên chấp vào việc làm của họ mà phế bỏ việc tu tập của mình. Vị ấy lại nghĩ tiếp, đối với họ và các hữu tình khác, tâm ta hỷ xả và càng tăng trưởng tâm bố thí, không hối tiếc. Sau khi suy nghĩ, vị ấy thân tâm dõng mãnh tinh tấn và làm việc bố thí nhiều hơn trước nữa. Thiện Hiện đó là đại Bồ Tát an trụ vào bố thí Ba la mật nhiếp lấy tinh tấn Ba la mật.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào dùng tâm không tham đắm, không keo kiệt để tu hạnh bố thí rồi đem phước bố thí này ban cho các hữu tình, và cùng nhau hồi hướng Nhất thiết trí trí; đối với người nhận và các cảnh giới khác, họ giữ tâm không tán loạn, không cầu các dục lạc ở ba cõi, không cầu quả nhị thừa, chỉ cầu quả Phật. Thiện Hiện, đó là đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật nhiếp lấy tịnh lự Ba la mật.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào dùng tâm không tham đắm, không keo kiệt để tu hạnh bố thí rồi đem phước bố thí này ban cho các hữu tình, và cùng nhau hồi hướng Nhất thiết trí trí; họ quán thấy người nhận, người bố thí và vật được bố thí đều như việc huyễn hóa, không thấy việc bố thí này có ích lợi hay tổn hại đối với các hữu tình và đạt được thắng    nghĩa Không của tất cả các pháp thì này Thiện Hiện, đó là đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật nhiếp lấy Bát nhã Ba la mật.

 

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát an trụ tịnh giới Ba la mật nhiếp lấy cả việc bố thí, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ Tát nào an trụ vào tịnh giới Ba la mật, tạo ba loại phước nghiệp nơi thân, khẩu, ý; nhờ phước nghiệp này họ lìa bỏ việc giết hại sanh mạng cho đến tà kiến, không cầu quả Thanh văn, Độc giác, chỉ cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bấy giờ, Bồ Tát an trụ vào tịnh giới, thực hành việc bố thí một cách rộng rãi tùy theo các hữu tình cần vật gì họ đều bố thí đầy đủ, lại đem căn lành bố thí như thế cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí, chẳng cầu quả Thanh văn, Độc giác. Thiện Hiện, đó là đại Bồ Tát an trụ tịnh giới Ba la mật nhiếp lấy bố thí Ba la mật.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ vào tịnh giới Ba la mật, nếu các hữu tình đua nhau đến chặt, cắt chân tay và thân thể của Bồ Tát ấy mang đi nhưng Bồ Tát không sanh một niệm thù hận đối với họ mà chỉ nghĩ: Ta nay nhận được lợi lành rộng lớn nghĩa là bỏ thân hôi uế mong manh, được Phật thân Kim cương thanh tịnh. Thiện Hiện, đó là đại Bồ Tát an trụ tịnh giới Ba la mật nhiếp lấy an nhẫn Ba la mật.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ vào tịnh giới Ba la mật thân tâm tinh tấn, không gián đoạn, mặc giáp đại bi, phát nguyện rộng lớn: Tất cả hữu tình chìm đắm trong cảnh hung ác đáng sợ, khó thoát ra khỏi biển khổ sanh tử, ta phải cứu vớt họ đặt vào cảnh giới bất tử. Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ tịnh giới Ba la mật nhiếp lấy tinh tấn Ba la mật.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ vào tịnh giới Ba la mật, tuy nhập vào bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, bố định vô sắc, hoặc diệt tận định nhưng không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, cũng không chứng thật tế. Theo nguyện lực cũ, họ nghĩ: Tất cả hữu tình chìm đắm, hung ác đáng sợ, khó thoát ra khỏi biển khổ sanh tử, nay ta đã an trụ phương tiện tịnh giới làm phát sanh thiền định trong sạch, cần phải cứu vớt họ đặt vào nơi bất tử. Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ tịnh giới Ba la mật nhiếp tịnh lự Ba la mật.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ vào tịnh giới Ba la mật, không thấy có pháp nào là thiện hoặc ác, hoặc hữu ký vô ký, hoặc hữu lậu vô lậu, hoặc thế gian hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi hoặc vô vi, hoặc đọa có số hoặc đọa vô số, hoặc đọa hữu tướng hoặc đọa vô tướng, chỉ quán các pháp không lìa chơn như nói rộng cho đến cảnh giới bất tư nghì. Chơn như này cũng bất khả đắc. Do phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật này họ không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác mà chỉ cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ vào tịnh giới Ba la mật nhiếp lấy Bát nhã Ba la mật.

 

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát an trụ an nhẫn Ba la mật nhiếp lấy cả bố thí, tịnh giới, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ Tát nào an trụ vào an nhẫn Ba la mật, trong khoảng thời gian từ lúc mới phát tâm cho đến lúc an tọa tòa Bồ đề, giả sử có các loại hữu tình chửi mắng, lăng nhục, làm hại một cách phi lý cho đến cắt, chặt tay chân vị ấy đem đi, Bồ Tát này cũng hoàn toàn không sân hận, mà chỉ nghĩ: Các hữu tình này thật đáng thương xót, bị ma phiền não quấy nhiễu thân tâm, không được tự tại, không nơi nương tựa, không người giúp đỡ, bị nghèo khổ bức ép, ta phải bố thí cho họ đồ ăn uống, y phục và các loại của cải đồ đạc khác, tùy theo ý thích và nhu cầu của họ để họ không còn thiếu thốn. Lại đem căn lành bố thí đây dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng, vị ấy không có hai tâm: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ an nhẫn nhiếp lấy bố thí Ba la mật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ an nhẫn Ba la mật, trong khoảng thời gian từ lúc mới phát tâm cho đến lúc an tọa tòa Bồ đề, nếu vì lý do rất khẩn cấp để cứu mạng mình, vị ấy cũng quyết không làm tổn hại các hữu tình cho đến không phát sanh các tà kiến. Lúc tu tịnh giới, Bồ Tát này không cầu địa vị Thanh văn, Độc giác, lại đem căn lành tịnh giới như thế, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng không có hai tâm: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ an nhẫn Ba la mật nhiếp lấy tịnh giới Ba la mật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ an nhẫn Ba la mật, phát sanh sự tinh tấn, dõng mãnh thường nghĩ: Nếu một hữu tình ở cách xa một do tuần hoặc ở cách xa mười, hoặc một trăm cho đến vô lượng do tuần, hoặc ở cách xa một thế giới, hoặc mười, hoặc một trăm cho đến vô lượng thế giới mà có thể độ được thì ta sẽ đến đó tìm cách dạy họ thọ trì hoặc tám học xứ(2), hoặc năm giới, mười giới, hoặc giới cụ túc, hoặc làm cho an trụ vào tịnh quán chủng tánh thứ tám, quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, hoặc làm cho an trụ vào các địa vị của Bồ Tát, cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không mệt nhọc. Lại đem căn lành tinh tấn như thế dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng vị ấy không có hai tâm: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ an nhẫn Ba la mật nhiếp lấy tinh tấn Ba la mật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ an nhẫn Ba la mật, nhiếp tâm không loạn, lìa bỏ pháp dục ác bất thiện, có tầm có tứ, ly sanh hỷ lạc, nhập sơ thiền, nói rộng cho đến nhập vào diệt thọ tưởng định. Trong các định này tùy chỗ sanh khởi pháp tâm, tâm sở và các căn lành tất cả nhóm hợp, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng vị ấy không có hai tâm: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ an nhẫn Ba la mật nhiếp lấy tịnh lự Ba la mật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ an nhẫn Ba la mật, trụ trong các pháp để lần lượt quán khắp các pháp, tuy dùng hành tướng viễn ly, hoặc hành tướng vắng lặng, hoặc hành tướng vô tận, hoặc đem hành tướng dứt diệt quán tất cả pháp, mà đối vắng lặng chẳng được tác chứng, cho đến ngồi tòa Bồ đề, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ra khỏi tòa quay xe diệu pháp lợi vui hữu tình. Lại đem căn lành diệu huệ như thế dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng vị ấy không có hai tâm: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ an nhẫn Ba la mật nhiếp lấy Bát nhã Ba la mật.

 

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát an trụ tinh tấn Ba la mật nhiếp lấy cả bố thí, tịnh giới, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ Tát nào an trụ tinh tấn Ba la mật, thân tâm tinh tấn, chưa từng lười biếng, cầu các pháp lành cũng không mệt mỏi, thường nghĩ rằng, chắc chắn ta sẽ đạt được Nhất thiết trí trí, vì muốn làm lợi lạc tất cả hữu tình, đại Bồ Tát này thường phát nguyện: Nếu có một hữu tình ở cách xa một do tuần hoặc mười do tuần, hoặc một trăm cho đến vô lượng do tuần, hoặc cách một thế giới, hoặc mười, hoặc một trăm cho đến vô lượng thế giới mà đáng được độ, ta sẽ đến đó tìm cách dạy bảo, giúp họ trụ Thanh văn thừa, hoặc trụ Độc giác thừa, hoặc trụ Vô thượng thừa, hoặc thực hành mười nghiệp lành. Như vậy, ta đem tài thí và pháp thí cho họ đầy đủ để tìm cách nhiếp phục họ. Lại đem căn lành bố thí như thế dùng vô sở đắc mà làm phương tiện cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng không có hai tâm là: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ tinh tấn Ba la mật nhiếp lấy bố thí Ba la mật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ tinh tấn Ba la mật, trong thời gian từ lúc mới phát tâm cho đến lúc an tọa tòa Bồ đề, vị ấy tự mình lìa bỏ việc giết hại, cũng khuyên răn mọi người lìa bỏ việc giết hại, tùy thuận ca ngợi việc lìa bỏ sự giết hại, hoan hỷ, tán thán người lìa bỏ việc giết hại. Như vậy, cho đến tự mình lìa bỏ tà kiến, cũng khuyên răn người khác lìa bỏ tà kiến, tùy thuận, ca ngợi lìa bỏ tà kiến, hoan hỷ, tán thán người lìa bỏ tà kiến. Lúc thực hành tịnh giới Ba la mật này, đại Bồ Tát ấy không cầu quả báo thuộc ba cõi và quả nhị thừa, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng không có hai tâm là: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ tinh tấn Ba la mật nhiếp lấy tịnh giới Ba la mật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ tinh tấn Ba la mật, trong thời gian từ lúc mới phát tâm cho đến lúc an tọa tòa Bồ đề, nếu bị người chẳng phải người đua nhau đến não hại hoặc chặt, đâm, cắt chân tay, tùy ý mang đi, lúc ấy Bồ Tát không nghĩ: Ai chặt đâm ta, ai cắt ta, ai đem đi, mà chỉ nghĩ: Nay ta có được lợi ích lớn là, để làm lợi ích cho ta, các hữu tình kia đã đến chặt cắt các bộ phận của thân thể ta, nhưng chỉ vì các hữu tình mà ta đã nhận thân này, vì vậy, họ tự đến lấy vật của họ chính là làm thành tựu công việc của ta. Bồ Tát tư duy sâu sắc về thật tướng của các pháp như vậy để tu an nhẫn. Lúc thực hành an nhẫn Ba la mật này, vị ấy không cầu địa vị Thanh văn, Độc giác mà chỉ dùng vô sở đắc làm phương tiện đem phước đức ban cho các hữu tình và cùng nhau hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng không có hai tâm là: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ tinh tấn Ba la mật nhiếp lấy an nhẫn Ba la mật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ tinh tấn Ba la mật, siêng năng tu tập các định là lìa pháp dục ác bất thiện, có tầm, có tứ, ly sanh hỷ lạc nhập vào sơ thiền, nói rộng cho đến nhập vào tầng thiền thứ tư, phát sanh ý tưởng ban vui cho các hữu tình, nhập vào từ vô lượng nói rộng cho đến nhập vào xả vô lượng, phát sanh ý nghĩ nhàm chán tướng thô của các sắc nên tác ý nhập vào định không vô biên xứ, nói rộng cho đến nhập vào định diệt thọ tưởng; tuy tu pháp tịnh lự nhập vào các định vô lượng vô sắc và diệt thọ tưởng, nhưng đại Bồ Tát này không nhận lấy quả dị thục của nó và chỉ sanh vào nơi có các hữu tình mà vị ấy có thể giáo hóa và làm lợi ích cho họ. Sau khi đã sanh vào nơi đó, vị ấy dùng bốn nhiếp sự để nhiếp hóa họ, tìm cách trấn an làm cho họ siêng năng tu học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Đại Bồ Tát này dựa vào các tịnh lự để làm phát sanh thần thông thù thắng, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, thân cận cúng dường chư Phật Thế Tôn và thưa hỏi tánh tướng của các pháp sâu xa, siêng năng tạo ra căn lành thù thắng. Đem căn lành đây dùng vô sở đắc làm phương tiện cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng không có hai tâm là: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ tinh tấn Ba la mật nhiếp lấy tịnh lự Ba la mật.

Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát an trụ tinh tấn Ba la mật chẳng thấy bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo hoặc danh hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy nội không cho đến vô tánh tự tánh không hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy chơn như cho đến bất tư nghì giới hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy tám giải thoát cho đến mười biến xứ hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy tất cả Bồ Tát hạnh, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Chẳng thấy Nhất thiết trí trí hoặc danh, hoặc sự, hoặc tánh, hoặc tướng. Như vậy, cho đến chẳng thấy tất cả pháp. Đối trong các pháp chẳng khởi tưởng nghĩ, không sở chấp trước, thường thực hiện điều đã nói. Lại đem căn lành đã nhóm như thế dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Với khi hồi hướng không chuyển hai tâm, nghĩa là ai hồi hướng, hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đấy là đại Bồ Tát an trụ tinh tấn Ba la mật nhiếp lấy Bát nhã Ba la mật.

 

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát an trụ tịnh lự Ba la mật nhiếp lấy cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, Bát nhã Ba la mật?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ Tát nào an trụ tịnh lự Ba la mật, đem của cải và Phật pháp bố thí cho các hữu tình lìa pháp dục ác bất thiện, có tầm, có tứ, ly sanh hỷ lạc, nhập vào sơ thiền nói rộng cho đến nhập vào tứ thiền, phát sanh ý nghĩ ban vui cho các hữu tình, nhập từ vô lượng nói rộng cho đến nhập xả vô lượng, sanh tâm nhàm chán đối với tướng thô của các sắc, nhập định không vô biên xứ nói rộng cho đến nhập định diệt thọ tưởng. Đại Bồ Tát này an trụ vào tịnh lự Ba la mật, dùng tâm không tán loạn nói chánh pháp cho các hữu tình, thực hành bố thí và pháp thí, cũng thường khuyến khích người khác thực hành bố thí và pháp thí, thường tùy thuận ca ngợi pháp thực hành bố thí và pháp thí, thường hoan hỷ tán thán người thực hành bố thí và pháp thí, với căn lành này, vị ấy không cầu địa vị Thanh văn, Độc giác, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng không có hai tâm là: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ vào tịnh lự Ba la mật nhiếp lấy bố thí Ba la mật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ tịnh lự Ba la mật, thọ trì tịnh giới, thường không phát sanh các loại tâm chung cùng với tham, sân, si, hại, keo kiệt, tật đố, và tâm hủy phạm tịnh giới, chỉ thường phát sanh tác ý chung cùng với Nhất thiết trí trí. Với căn lành tịnh giới này, họ không cầu địa vị Thanh văn, Độc giác, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng không có hai tâm là: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ tịnh lự Ba la mật nhiếp lấy tịnh giới Ba la mật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ tịnh lự Ba la mật, tu hành an nhẫn, quán sắc như bèo bọt, quán thọ như bong bóng nước, quán tưởng như sóng nắng, quán hành như bẹ chuối, quán thức như huyễn hóa. Lúc quán như vậy, ý tưởng về năm thủ uẩn không chắc thật thường hiện ở trước mặt. Vị ấy lại nghĩ các pháp đều không, chẳng phải là ta và vật của ta, ai có thể cắt chặt, ai bị cắt chặt, ai có thể chửi mắng, ai bị chửi mắng, ai ở trong pháp đó mà phát sanh sân hận, ngũ uẩn này của ai. Bồ Tát an trụ tịnh lự Ba la mật, quán sát kỹ các pháp thì có thể đầy đủ an nhẫn. Vị ấy lại đem căn lành đã tích tụ này, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng vị ấy không có hai tâm là: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ tịnh lự Ba la mật nhiếp lấy an nhẫn Ba la mật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ tịnh lự Ba la mật, siêng năng tinh tấn lìa bỏ pháp dục ác bất thiện, có tầm có tứ, ly sanh hỷ lạc, nhập vào sơ thiền và hoàn toàn an trụ trong đó, tịch tịnh tầm tứ, bên trong hoàn toàn thanh tịnh hướng đến nhất tâm, không tầm không tứ, định sanh hỷ lạc, nhập vào nhị thiền hoàn toàn an trụ trong đó, lìa hỷ trụ xả, chánh niệm tỉnh giác, toàn thân cảm thọ Thánh lạc, ở trong đó có thể nói có thể xả, đầy đủ niệm diệu lạc và an trụ hoàn toàn trong tầng thiền thứ ba, dứt vui dứt khổ, vui buồn trước đây đều lặn mất không còn khổ vui, xả niệm thanh tịnh, an trụ hoàn toàn vào tầng thiền thứ tư. Như vậy, Bồ Tát này tu tất cả các loại định giải thoát đẳng trì, đẳng chí và không nắm giữ tướng của nó khi ở trong định, phát sanh các loại thần cảnh trí thông có thể làm vô số các việc đại thần biến, hoặc lại phát sanh thiên nhĩ trí thông, siêu phàm thanh tịnh, rõ ràng hơn hẳn trời người, có thể nghe đúng như thật các loại âm thanh của các loài hữu tình, phi tình ở mười phương thế giới, hoặc lại phát sanh tha tâm trí thông có thể biết như thật tâm và tâm sở pháp của các hữu tình ở mười phương thế giới, hoặc lại phát sanh túc trụ trí thông có thể biết như thật về các việc đời trước của các hữu tình ở mười phương thế giới, hoặc lại phát sanh thiên nhãn trí thông sáng suốt, trong sạch hơn mắt của trời người, có thể thấy biết như thật về hình sắc và nghiệp quả của các loài hữu tình ở mười phương thế giới. Đại Bồ Tát này an trụ vào năm thần thông thù thắng đó, đi từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, thân cận cúng dường chư Phật Thế Tôn, thưa hỏi Như Lai về ý nghĩa sâu xa của pháp, trồng vô số thiện căn vi diệu, giáo hóa hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, siêng năng tu các thắng hạnh của Bồ Tát. Với căn lành này, vị ấy không cầu địa vị Thanh văn, Độc giác dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng không có hai tâm là: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ tịnh lự Ba la mật nhiếp lấy tinh tấn Ba la mật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ tịnh lự Ba la mật, quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều bất khả đắc, quán mười hai xứ cho đến mười tám giới bất khả đắc; quán nhãn xúc cho đến ý xúc bất khả đắc; quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc; quán địa giới cho đến thức giới bất khả đắc; quán nhân duyên cho đến tăng thượng duyên bất khả đắc; quán vô minh cho đến lão tử bất khả đắc; quán bố thí cho đến Ba la mật bất khả đắc; quán pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không bất khả đắc; quán chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì bất khả đắc; nói rộng ra, quán tất cả pháp Phật bất khả đắc. Do đại Bồ Tát này quán tất cả các pháp đều bất khả đắc nên không làm, do không làm nên không tạo tác, do không tạo tác nên không sanh diệt, do không sanh diệt nên không còn chấp thủ, do không còn chấp thủ nên hoàn toàn thanh tịnh, thường trụ không thay đổi. Vì sao? Bởi vì Phật xuất thế hay không xuất thế tất cả các pháp đều an trụ pháp giới, pháp tánh, pháp trụ, không sanh, không diệt, thường không biến đổi. Đại Bồ Tát này tâm thường không rối loạn, thường an trụ tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, quán sát như thật thấy tánh các pháp đều vô sở hữu, vị ấy lại đem căn lành tích tụ được, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng không có hai tâm là: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ vào tịnh lự Ba la mật nhiếp lấy Bát nhã Ba la mật.

 

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật nhiếp lấy cả bố thí, tịnh giới, tinh tấn, tịnh lự Ba la mật?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ Tát nào an trụ Bát nhã Ba la mật, quán tất cả các pháp là không, vô sở hữu.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là an trụ Bát Nhã, quán tất cả các pháp là không, vô sở hữu?

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ Bát Nhã, quán thấy nội không và tánh nội không bất khả đắc, ngoại không và tánh của ngoại không bất khả đắc, nội ngoại không và tánh nội ngoại không bất khả đắc, không không và tánh không không bất khả đắc, đại không và tánh đại không bất khả đắc, thắng nghĩa không và tánh thắng nghĩa không bất khả đắc, hữu vi không và tánh hữu vi không bất khả đắc, vô vi không và tánh vô vi không bất khả đắc, rốt ráo (tất cánh) không và tánh rốt ráo không bất khả đắc, vô tế không và tánh vô tế không bất khả đắc, tán vô tán không và tánh tán vô tán không bất khả đắc, bản tánh không và tánh bản tánh không bất khả đắc, tự cộng tướng không và tánh tự cộng tướng không bất khả đắc, nhất thiết pháp không và tánh nhất thiết pháp không bất khả đắc. Đại Bồ Tát này an trụ vào mười bốn pháp không, như vậy bất đắc Sắc là không hoặc chẳng không, bất đắc thọ, tuởng, hành, thức là không hoặc chẳng không, bất đắc 12 xứ cho đến 18 giới là không hoặc chẳng không; bất đắc nhãn xúc cho đến ý xúc là không hoặc chẳng không; bất đắc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không hoặc chẳng không; bất đắc địa giới cho đến thức giới là không hoặc chẳng không; bất đắc bố thí cho đến Ba la mật là không hoặc chẳng không; bất đắc pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không là không hoặc chẳng không; bất đắc chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là không hoặc chẳng không; bất đắc tứ Thánh đế cho đến Ba mươi bảy pháp trợ đạo là không hoặc chẳng không; bất đắc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không hoặc chẳng không; bất đắc tám giải thoát, mười biến xứ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không hoặc chẳng không; bất đắc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là không hoặc chẳng không; bất đắc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là không hoặc chẳng không; bất đắc quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề là không hoặc chẳng không; bất đắc tất cả Bồ Tát hạnh cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật là không hoặc chẳng không; bất đắc Nhất thiết trí trí là không hoặc chẳng không; bất đắc cảnh giới hữu vi là không hoặc chẳng không; bất đắc cảnh giới vô vi là không hoặc chẳng không. Đại Bồ Tát này an trụ Bát nhã Ba la mật, quán tất cả đồ ăn uống và các vật dụng khác mà mình đã bố thí cho các hữu tình đều là không, quán người thí, người nhận, vật thí và phước đức của việc bố thí đều là không. Lúc ấy, nhờ Bồ Tát an trụ trong phép quán không nên tâm tham đắm, keo kiệt không có cơ hội phát sanh. Vì sao? Đại Bồ Tát này tu hành Bát Nhã, từ lúc mới phát tâm cho đến lúc an tọa tòa Bồ đề, sự phân biệt này đều không thể phát sanh, giống như các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không bao giờ phát sanh tâm tham lam và keo kiệt. Đại Bồ Tát này cũng như vậy, nhờ thực hành Bát Nhã nên tâm tham lam keo kiệt không bao giờ phát sanh. Nên biết, Bát Nhã là đại Sư của các đại Bồ Tát, có thể giúp cho các đại Bồ Tát không phát sanh vọng tưởng phân biệt, không đắm nhiễm vào việc làm bố thí, đại Bồ Tát này đem căn lành đó, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng không có hai tâm là: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ Bát Nhã nhiếp lấy bố thí Ba la mật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ Bát Nhã, thọ trì tịnh giới thì tất cả tâm cầu Thanh văn, Độc giác không bao giờ phát sanh được. Vì sao? Đại Bồ Tát này quán địa vị của các Thanh văn, Độc giác đều bất khả đắc, tâm hồi hướng kia cũng bất khả đắc, luật nghi nơi thân khẩu để hồi hướng địa vị ấy cũng bất khả đắc. Đại Bồ Tát này an trụ Bát Nhã, trong khoảng thời gian từ lúc mới phát tâm cho đến lúc an tọa nơi tòa Bồ đề, lìa bỏ việc giết hại sanh mạng, cũng khuyên răn người khác lìa bỏ việc giết hại sanh mạng, tùy thuận ca ngợi pháp lìa bỏ việc giết hại sanh mạng, hoan hỷ khen ngợi người lìa bỏ việc giết hại sanh mạng, như vậy cho đến tự lìa bỏ tà kiến, cũng khuyên răn người khác lìa bỏ tà kiến, tùy thuận ca ngợi pháp lìa bỏ tà kiến, hoan hỷ khen ngợi người lìa bỏ tà kiến. Với thiện căn nhờ tịnh giới sanh ra ấy, đại Bồ Tát này không cầu quả báo ở trong ba cõi và pháp nhị thừa, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng không có hai tâm là: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ Bát Nhã nhiếp lấy tịnh giới Ba la mật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ Bát nhã Ba la mật, phát tâm nhẫn nhục tùy thuận. Sau khi đạt được sự nhẫn nhục này, họ thường nghĩ: Trong tất cả các pháp không có một pháp nào là phát sanh hoặc tiêu diệt, hoặc sanh hoặc già, hoặc bệnh hoặc chết, hoặc người chửi mắng, hoặc người bị chửi, hoặc người hủy báng, hoặc người bị hủy báng, hoặc người cắt chặt, đâm, đánh, trói, não hại, hoặc người bị cắt chặt, đâm, đánh, trói, não hại, tánh tướng của tất cả các pháp như vậy đều không, không nên ở trong pháp không mà sanh vọng tưởng phân biệt. Do đại Bồ Tát này đạt được sự nhẫn nhục ấy nên trong khoảng thời gian từ lúc mới phát tâm cho đến lúc an tọa nơi tòa Bồ đề, giả sử tất cả hữu tình đều đến chửi mắng, phỉ báng, lăng nhục, dùng các loại dao gậy, gạch ngói, đá để làm hại, đánh đập, cắt chặt, đâm chém cho đến mổ xẻ các bộ phận trong thân thể thì lúc ấy tâm Bồ Tát cũng không biến đổi. Vị ấy chỉ nghĩ: Thật là kỳ lạ, trong các pháp tánh hoàn toàn không có việc chửi mắng phỉ báng, lăng nhục, làm hại nhưng các hữu tình vọng tưởng phân biệt chấp là thật có nên phát sanh đủ loại nghiệp ác phiền não, phải chịu các nỗi khổ kịch liệt trong hiện tại và vị lai. Đại Bồ Tát ấy đem căn lành này dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng không có hai tâm là: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật nhiếp lấy an nhẫn Ba la mật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ Bát nhã Ba la mật, nói chánh pháp cho các hữu tình giúp họ trụ vào bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, giúp họ trụ vào bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, hoặc giúp họ chứng đắc quả Dự lưu cho đến A la hán, hoặc giúp họ chứng đắc Độc giác Bồ đề, hoặc giúp họ chứng đắc Nhất thiết trí trí. Tuy làm việc đó nhưng đại Bồ Tát này không trụ ở cảnh giới hữu vi, không trụ ở cảnh giới vô vi, lại đem căn lành tích tụ được, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng không có hai tâm là: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ Bát nhã Ba la mật nhiếp lấy tinh tấn Ba la mật.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào an trụ Bát nhã Ba la mật, trừ đẳng trì (định) của Phật còn tất cả các đẳng trì của Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát vị ấy đều có thể tùy ý xuất nhập một cách tự tại. Đại Bồ Tát này an trú vào đẳng trì tự tại của Bồ Tát có thể tự do nhập xuất thuận nghịch đối với tám giải thoát. Những gì là tám? Một là tự có sắc, quán sát các sắc giải thoát. Hai là bên trong không có sắc, quán tưởng các sắc bên ngoài giải thoát. Ba là hiểu rõ sự thanh tịnh của thân tác chứng giải thoát. Bốn là vượt qua tất cả tưởng về sắc, diệt trừ tất cả tưởng hữu đối, không tư duy về các loại tưởng, nhập vào vô biên không không vô biên xứ giải thoát. Năm là vượt qua tất cả không vô biên xứ, nhập vào vô biên thức vô biên xứ giải thoát. Sáu là vượt qua tất cả thức vô biên xứ, nhập vào vô thiểu sở hữu vô sở hữu xứ giải thoát. Bảy là vượt qua tất cả vô sở hữu xứ, nhập vào phi hữu tưởng, phi vô tưởng, phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát. Tám là vượt qua tất cả phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập vào diệt thọ tưởng định diệt thọ tưởng giải thoát.

Đại Bồ Tát này lại có thể tự tại nhập xuất theo chiều thuận nghịch đối với 9 định thứ đệ. Những gì là 9. Đó là bốn tịnh lự, bốn định vô sắc và diệt thọ tưởng định. Sau khi đã hoàn toàn thành thục trong việc xuất nhập thuận nghịch đối với tám giải thoát và chín định thứ đệ, đại Bồ Tát này có thể nhập vào định Sư tử phấn tấn. Thế nào là định Sư tử phấn tấn. Thiện Hiện! Đó là Bồ Tát lìa pháp dục ác, bất thiện, có tầm có tứ, ly sanh hỷ lạc nhập vào sơ thiền lần lượt vượt qua tất cả phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập vào định diệt thọ tưởng, lại từ định diệt thọ tưởng nhập trở lại định phi tưởng phi phi tưởng xứ, lần lượt cho đến nhập vào sơ thiền.

Đó là định Sư tử phấn tấn. Thiện Hiện! Sau khi đã hoàn toàn thành thục đối với định Sư tử phấn tấn này. Đại Bồ Tát lại nhập vào định siêu việt của Bồ Tát. Thế nào là định siêu việt của Bồ Tát? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát lìa pháp dâm dục, bất thiện, có tầm có tứ, sanh hỷ lạc, nhờ xả ly nhập vào sơ thiền, từ sơ thiền lần lượt cho đến nhập vào định diệt thọ tưởng, từ định diệt thọ tưởng nhập trở lại sơ thiền, từ sơ thiền lần lượt cho đến nhập vào định diệt thọ tưởng, từ định diệt thọ tưởng nhập trở lại sơ thiền, từ sơ thiền nhập vào định diệt thọ tưởng, từ định diệt thọ tưởng nhập trở vào nhị thiền, từ nhị thiền nhập vào định diệt thọ tưởng, từ định diệt thọ tưởng nhập trở vào tam thiền, từ tam thiền nhập vào định diệt thọ tưởng, từ định diệt thọ tưởng nhập trở vào tứ thiền, từ tứ thiền nhập vào định diệt thọ tưởng, từ định diệt thọ tưởng nhập trở vào định không vô biên xứ, từ định không vô biên xứ nhập vào định diệt thọ tưởng, từ định diệt thọ tưởng nhập trở vào định thức vô biên xứ, từ định thức vô biên xứ nhập vào định diệt thọ tưởng, từ định diệt thọ tưởng nhập trở vào định vô sở hữu xứ, từ định vô sở hữu xứ nhập vào định diệt thọ tưởng, từ định diệt thọ tưởng nhập vào định phi tưởng phi phi tưởng xứ, từ định phi tưởng phi phi tưởng xứ nhập vào định diệt thọ tưởng, từ định diệt thọ tưởng nhập vào định phi tưởng phi phi tưởng xứ, từ định phi tưởng phi phi tưởng xứ rơi vào bất định tâm, từ bất định tâm nhập trở lại diệt thọ tưởng định, từ định diệt thọ tưởng trụ vào bất định tâm, từ bất định tâm nhập vào định phi tưởng phi phi tưởng xứ, từ định phi tưởng phi phi tưởng xứ trụ vào bất định tâm, từ bất định tâm nhập vào định vô sở hữu xứ, từ định vô sở hữu xứ trụ vào bất định tâm, từ bất định tâm nhập vào định vô sở hữu xứ, từ định vô sở hữu xứ trụ vào bất định tâm, từ bất định tâm nhập vào định thức vô biên xứ, từ định thức vô biên xứ trụ vào bất định tâm, từ bất định tâm nhập vào định không vô biên xứ, từ định không vô biên xứ trụ vào bất định tâm, từ bất định tâm nhập vào tứ thiền, từ tứ thiền trụ vào bất định tâm, từ bất định tâm nhập vào tam thiền, từ tam thiền trụ vào bất định tâm, từ bất định tâm nhập vào nhị thiền, từ nhị thiền trụ vào bất định tâm, từ bất định tâm nhập vào sơ thiền, từ sơ thiền trụ vào bất định tâm. Đó là định siêu việt của Bồ Tát. Đại Bồ Tát nào an trụ vào định siêu việt này thì chứng đắc thật tánh bình đẳng của tất cả các pháp, vị ấy lại đem căn lành tích tụ được dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng các hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc hồi hướng không có hai tâm là: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là đại Bồ Tát an trụ Bát Nhã nhiếp lấy tịnh lự Ba la mật.

 

Thích nghĩa:

(1). Tương nhiếp (相攝): Nhiếp phục lẫn nhau; cùng chung với nhau, chia sẻ cùng nhau.

(2). Học xứ (學處) Phạm: Ziksàpada. Pàli: Sikkhàpada. Những chỗ (điều) cần phải học. Chỉ chung cho giới luật. Tức là những giới điều mà Tỳ kheo, Tỳ kheo ni phải tuân thủ, như 5 giới, 8 giới, 10 giới, v.v... gọi là Học xứ. Phật giáo Nam truyền gọi giới học, định học, tuệ học là Tam học xứ. Còn theo Kinh Bồ Tát địa trì quyển 1, thì Bồ Tát có 7 học xứ là: Tự lợi, lợi tha, chân thực nghĩa, lực, thành thục chúng sinh, tự thục Phật pháp và Vô thượng bồ đề. Ngoài ra, phẩm Thụ phương tiện học xứ trong Kinh Đại nhật quyển 6 chia ra Hiển, Mật để nói về sở học và dịch là Học cú. Phỏng theo Từ điển Phật Quang.

 

Lược giải:

 

Muốn trở thành Bồ Tát, Phật để quay bánh xe pháp, thành thục hữu tình, thanh tịnh Phật độ thì phải học sáu pháp Ba la mật: Bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định, và Bát nhã Ba la mật. Các pháp này hỗ trợ cho nhau để tiến đến quả vị Vô Thượng Bồ đề. Một bộ phận chuyển động thì toàn thể cơ quan đều chuyển động theo; cũng vậy, một pháp tu như bố thí khởi động sẽ thúc đẩy các pháp tu khác như an nhẫn, tinh tấn… khởi động theo. Rốt cuộc, con tàu mới có thể đưa người vượt qua bể khổ đến được bờ rốt ráo bên kia.

Năng lực hỗ tương cùng vận hành của các pháp với nhau được gọi tương nhiếp, có nghĩa cùng với nhau, phối hợp với nhau để tăng hiệu năng của từng pháp môn như bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định và trí tuệ Ba la mật để đem lại một sức mạnh mới trong việc phục vụ chúng sanh, thanh tịnh Phật độ. Chính sự phối hợp hỗ tương này mà Bồ Tát mau viên mãn được các hạnh nguyện của các ngài, đồng thời mau chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Vì vậy, trong phẩm “Thật Ngữ hay còn gọi là “Phó chúc”, quyển 458, Phật bảo Ngài A Nan: “Khánh Hỷ nên biết! Đại Bồ Tát nào siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật thì mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì thế, này Khánh Hỷ! Ta đem sáu pháp Ba la mật giao phó cho ngươi, ngươi phải thọ trì cho đúng đừng để quên mất. Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật này là kho pháp vô tận của các vị Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tất cả Pháp Phật đều được sanh ra từ đó”. Chính sự tương nhiếp của bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật nên sáu pháp này mới được gọi là kho pháp vô tận của các chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Tất cả sáu pháp này cùng hỗ tương sanh khởi, không phải nhờ pháp này viên mãn mà các pháp khác được viên mãn. Tuy nhiên, bộ phận mẹ lúc nào cũng có nhiều uy lực hơn. Phẩm “Phương Tiện Thiện Xảo”, quyển 461, kế tiếp nói:Ví như các dòng nước, tùy lớn nhỏ, nếu đã vào biển cả thì đồng một vị mặn. Như vậy, năm Ba la mật trước phải nhập vào Bát nhã Ba la mật, mới được tên là năng đến bờ kia”.

Phẩm này dễ hiểu: Từ pháp bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định, Bát nhã Ba la mật hoán chuyển, hướng dẫn, hỗ trợ, tương nhiếp nhau như trong một con tàu có sáu máy. Nếu tất cả sáu máy đều chạy tốt như nhau, tàu sẽ tăng mã lực, chạy nhanh hơn. Nếu một trong sáu máy yếu hay hư hỏng, dĩ nhiên con tàu chạy chậm lại.

Mỗi máy tiêu biểu cho một lực phương tiện. Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 68, “Lục Độ Tương Nhiếp”(Sáu Độ Nhiếp Lẫn Nhau), tập 4, quyển 80 nói: “Bát Nhã Ba La Mật là thiện pháp, 5 pháp Ba La Mật kia cũng là thiện pháp, nên hành 1 thiện pháp, là nhiếp được cả 5 thiện pháp kia. Khi có một Ba la mật làm chủ tác, thì 5 Ba la mật kia cũng giúp phần vào sự tác hành của Ba la mật đó”.

Ví như; khi Bồ Tát an trú trong Đàn Ba la mật, thì đồng thời cũng nhiếp cả 5 Ba la mật kia:

- Khi bố thí, Bồ Tát dùng tâm từ, khởi các từ nghiệp ở “thân, khẩu và ý” đối với hết thảy chúng sanh.

Như vậy là Bồ Tát hành Đàn Ba la mật là nhiếp Thi La Ba la mật vậy. Vì sao? Vì “từ” là gốc của 3 thiện căn “vô tham, vô sân và vô si”, thường dẫn sanh các từ nghiệp “thân, khẩu và ý”. Các từ nghiệp này có thế lực đem lại sự an lạc, lợi ích cho chúng sanh.

- Khi bố thí, nếu gặp trường hợp người thọ thí mắng nhiếc hay hành hung. Bồ Tát vẫn nhẫn chịu, chẳng khởi sân hận, vì tự nghĩ rằng: “Ta chẳng nên khởi sân nhuế với họ. Vì ta phước mỏng, chẳng có được đầy đủ tài vật để hành bố thí, nên họ mới mắng nhiếc, hành hung ta. Nếu ta sân với họ, thì ta sẽ tự làm mất hết công đức bố thí của ta. Do vậy, ta phải nhẫn nhục đối với họ”.

Như vậy là Bồ Tát hành Đàn Ba la mật là có nhiếp Sẵn Đề Ba la mật vậy.

- Khi hành bố thí, nếu gặp kẻ ác đến mắng nhiếc, hành hung, Bồ Tát vẫn chẳng xả tâm bố thí, vẫn tinh tấn hành bố thí, vì tự nghĩ rằng: “Ở đời trước, khi hành bố thí ta có những ý niệm chẳng được tốt, nên nay ta chẳng làm cho người thọ thí được vừa lòng. Mặc dù vậy, ta vẫn phải siêng năng, tinh tấn hành tịnh thí”.

Như vậy là Bồ Tát hành Đàn Ba la mật là có nhiếp Tỳ Lê Gia Ba la mật vậy.

- Khi bố thí, Bồ Tát chẳng cầu phước lạc ở đời này và cả ở đời sau, chẳng cầu thế gian thiền định lạc, chẳng nhiếp ý chúng sanh, chẳng để tâm tán loạn, mà chỉ nhiếp Bát nhã Ba la mật mà thôi.

Như vậy là Bồ Tát hành Đàn Bát nhã Ba la mật là có nhiếp Thiền Ba la mật vậy.

- Khi hành bố thí, Bồ Tát thường quán các pháp hữu vi là chẳng kiên cố, là như huyễn, như mộng. Bồ Tát cũng chẳng cho việc bố thí là có ích hay là chẳng có ích. Vì sao? Vì Bồ Tát biết rằng việc Bố Thí chưa chắc đã đem lại sự an vui cho người thọ thí. Ví như: Cho họ quá nhiều thức ăn có thể làm họ bị bội thực mà chết, cho họ quá nhiều tiền của có thể khiến họ bị kẻ xấu cướp bóc hay làm hại đến thân mạng; cho họ quá nhiều tiền của có thể khiến họ trở nên xan tham, dẫn đến quả báo phải đọa ngã quỷ,… Bồ Tát cũng biết rõ tài vật là pháp hữu vi, niệm niệm sanh diệt, là vô thường, là tán hoại, là nhân sanh các khổ, lại cũng biết rõ ở nơi thật tướng thì tài vật là rốt ráo không. Do vậy mà Bồ Tát chẳng sanh tâm phân biệt việc bố thí có lợi hay chẳng có lợi cho người thọ thí. Khi bố thí, Bồ Tát chẳng cầu người thọ thí đền ơn đáp nghĩa, chẳng cầu quả phước báo, nên dù người thọ thí muốn trả ơn, cũng chẳng có sanh tâm sân hận, chấp trước, vì nghĩ rằng: “Các pháp đều là rốt ráo không, ta phải hành bố thí như tướng vậy”.

Như vậy là Bồ Tát hành Đàn Ba la mật mà có nhiếp Bát nhã Ba la mật vậy.

Đến lượt Thi La Ba la mật, Sẵn Đề Ba la mật, Tỳ Lê Gia Ba la mật, Thiền na Ba la mật, Bát nhã Ba la mật nhiếp dẫn cũng như vậy. Điều đó nói lên vai trò của mỗi Ba la mật, giống như vai trò của con tàu có sáu máy. Nếu tất cả máy đều hoạt động hỗ tương vô ngại, thì con tàu có thể đưa người qua bến bờ bỉ ngạn bên kia chẳng có gì trở ngại.

 

Đọc phẩm này ai cũng có thể hiểu nên không cần giải luận thêm nữa. Tự mình quán từng pháp một như quán trì giới thì phải biết trì giới tương nhiếp với bố thí, an nhẫn, tinh tấn, thiền định và Bát nhã Ba la mật như thế nào? Kế đến quán an nhẫn thì phải biết an nhẫn tương nhiếp với bố thí, trì giới, tinh tấn, thiền định, Bát nhã Ba la mật như thế nào? V.v... và v.v… Tự mình tư duy, quán tưởng và thực hành, rồi sẽ được tịnh đạo Bồ đề, sanh trí tuệ để tháo gỡ mọi trói buộc của ba cõi sáu đường mà xuống tàu sang bờ giải thoát bên kia./.

 

---o0o---

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2587)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5761)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 112997)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5924)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5959)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6535)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12288)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8469)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14683)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25092)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567