Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Phẩm "Xưng Dương Công Đức"

11/11/202012:12(Xem: 7352)
04. Phẩm "Xưng Dương Công Đức"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***


buddha-475

 

IV. PHẨM "XƯNG DƯƠNG CÔNG ĐỨC"

Phần giữa quyển thứ 541, Hội thứ IV, TBBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

Tóm lược:

 

Lại nữa, này Kiều thi ca! Dù cho Xá lợi (linh cốt) của Phật đầy khắp trong châu Thiệm bộ này đem làm một phần, biên chép pháp môn Bát Nhã sâu xa làm một phần. Trong hai phần ấy, ông chọn phần nào?

Trời Đế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn! Theo ý con, nên chọn Bát Nhã sâu xa. Vì sao? Vì con đối với Xá lợi của Phật đều tin thọ, cúng dường, cung kính. Nhưng thân và Xá lợi của chư Phật đều nhân nơi pháp môn Bát Nhã sâu xa mà sanh ra, cũng nhờ công đức oai lực của sự huân tu pháp môn Bát Nhã sâu xa mà có. Vì vậy, mới được tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v... cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Tất cả chúng đại Bồ Tát đều đối với pháp môn Bát Nhã này siêng năng tu học, suy nghĩ đúng lý sẽ chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nhờ Bát Nhã này mà được thông suốt chơn như, pháp giới, pháp tánh và thật tế, thành tựu Pháp thân. Do chứng Pháp thân nên mới gọi là Phật. Vì Xá lợi của Phật nương vào Pháp thân nên mới được thế gian cung kính, cúng dường.

Bạch Thế Tôn! Như con ở trong điện Thiện Pháp, ngồi trên tòa Thiên Đế, trời Ba mươi ba, giảng thuyết Chánh pháp cho các Thiên chúng. Khi ấy, có vô lượng chư Thiên tử đi đến chỗ con lắng nghe chánh pháp, cúng dường, cung kính đi quanh bên hữu rồi lui ra. Nếu khi con không ở pháp tòa ấy, thì các Thiên tử cũng đến chỗ ấy, dù không thấy con, nhưng họ vẫn xem như có con, đều cung kính cúng dường, và nói: “Chỗ này là tòa Đế Thích ngồi để thuyết pháp cho chư thiên, chúng ta nên xem như Thiên chủ đang hiện diện”. Rồi họ cúng dường đi quanh bên hữu, lễ bái rồi lui ra.

Bát Nhã sâu xa cũng lại như vậy, nếu có người biên chép, thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết rộng rãi cho các hữu tình thì nên biết chỗ ấy có vô lượng, vô số trời, rồng, Dược xoa, A tu la v.v... ở cõi này và vô biên thế giới ở mười phương khác đều đến nhóm họp. Nếu không có người thuyết pháp nhưng vì kính trọng pháp thì họ cũng đến chỗ đó cúng dường, cung kính đi quanh bên hữu rồi lui.

Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa cùng với các hạnh của đại Bồ Tát và Nhất thiết trí trí của Phật đã chứng đắc đều làm nhân duyên, làm chỗ nương dựa, có khả năng thấu đạt. Vì vậy, nên con nói: Dù cho Xá lợi của Phật đầy khắp trong châu Thiệm bộ này đem làm một phần, biên chép pháp môn Bát Nhã sâu xa lại làm một phần, trong hai phần ấy, con chọn lấy Bát Nhã.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Hãy gác việc Xá lợi của Phật đầy khắp trong châu Thiệm bộ này đem làm một phần, giả sử Xá lợi của Phật đầy khắp bốn đại châu đem làm một phần. Hoặc Xá lợi của Phật đầy khắp Tiểu thiên thế giới đem làm một phần. Hoặc Xá lợi của Phật đầy khắp Trung thiên thế giới đem làm một phần. Hoặc Xá lợi của Phật đầy khắp Đại thiên thế giới đem làm một phần. Và có người biên chép pháp môn Bát Nhã sâu xa đem làm một phần, thì trong hai phần này, ý con sẽ chọn lấy phần Bát Nhã. Vì sao? Vì đối với chỗ Xá lợi của chư Phật, con đều tin thọ, cúng dường, cung kính, nhưng pháp thân và xá lợi chư Phật đều do pháp môn Bát Nhã mà sanh ra. Do công đức oai lực của pháp môn Bát Nhã sâu xa đã huân tu, nên mới được tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v... cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ v.v... nào đối với Bát Nhã sâu xa chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, siêng năng tinh tấn tu học, tư duy đúng lý, biên chép, giảng thuyết truyền bá rộng rãi thì những người ấy ở đời sau chẳng đọa vào đường ác, xa lìa địa vị Thanh văn và bậc Độc giác, chẳng sợ tất cả tai họa, tật dịch xâm hại. Như người mắc nợ sợ người chủ nợ, liền thân cận phụng thờ quốc vương, dựa vào thế lực của quốc vương mà khỏi lo sợ. Vua dụ cho Bát nhã Ba la mật, còn người mắc nợ kia dụ cho các thiện nam, thiện nữ nương nhờ Bát nhã Ba la mật xa lìa đường ác và các sự sợ hãi.

Bạch Thế Tôn! Ví như có người nương cậy nơi vua, được vua thu nhận, mới được người đời cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Xá lợi của Phật cũng lại như vậy, do huân tu Bát Nhã sâu xa nên được chư thiên, người, A tu la v.v... đều cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Vua dụ cho Bát nhã Ba la mật. Xá lợi của Phật dụ cho người nương cậy vào vua.

Bạch Thế Tôn! Chư Phật đã chứng được Nhất thiết trí trí cũng nhờ Bát Nhã mà được thành tựu, nên con chọn lấy Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa đủ đại thần lực, làm lợi ích cho hữu tình ở cõi tam thiên, tùy ở chỗ nào đều có Phật làm các Phật sự. Đó gọi là lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Ví như ngọc đại bảo thần châu vô giá, đầy đủ vô lượng các oai đức thắng diệu, tùy ở chỗ nào có thần châu này, người chẳng phải người đều không bị não hại.

Nếu có thiện nam, thiện nữ nào bị quỷ ám bắt, thân tâm khổ não. Khi ấy có người cầm thần châu này cho xem, nhờ oai lực của thần châu nên quỉ liền bỏ đi.

Hoặc có người bị bệnh sốt, hoặc phong, hoặc đàm, hoặc bị bệnh nóng do phong đàm hòa hợp gây ra bệnh, nếu đem thần châu này buộc đeo nơi thân, thì các bệnh như vậy đều được dứt trừ.

Thần châu này có khả năng soi sáng nơi tối tăm, mùa nóng thì mát mẻ, mưa lạnh thì ấm áp, tùy ở địa phương nào có thần châu này thì nơi ấy khí hậu ôn hòa, không nóng, không lạnh.

Hoặc địa phương nào có thần châu này thì rắn, bò cạp các loại độc không dám đến ở. Nếu có nam tử hoặc nữ nhân bị trúng độc đau đớn, khó chịu thì nên đem thần châu này đưa cho người bệnh xem, nhờ oai lực của thần châu làm cho chất độc bị tiêu trừ.

Nếu thân thể của các hữu tình bị tật hủi, ghẻ dữ, ghẻ chùm, mắt mù lòa, hoặc bệnh mắt, bệnh tai, bệnh mũi, bệnh yết hầu, bệnh thân, bệnh các lóng đốt, khi đeo thần châu này vào thì các bệnh đều được lành.

Hoặc trong các ao, suối, giếng v.v... nước bị đục dơ, hoặc sắp khô cạn, đem thần châu thả vào nước liền ngập đầy, lắng trong thơm sạch, đủ tám thứ công đức.

Nếu đem tấm vải xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, bích, lục dệt thành các thứ màu sắc, gói thần châu này để vào trong nước, thì nước sẽ biến đổi thành các màu của tấm vải đó.

Đại bảo thần châu vô giá như vậy, oai đức vô biên, nói không thể hết được. Nếu để thần châu trong rương hộp cũng làm cho những món đồ trong đó thành tựu đầy đủ vô lượng, vô biên oai đức. Nếu rương tráp để trống, do trước kia đã từng để thần châu, nên đồ đạc trong hộp ấy vẫn được nhiều người ưa chuộng.

Khi ấy, Khánh Hỷ hỏi trời Đế Thích:

- Thần châu như vậy chỉ ở cõi trời mới có, hay là cõi người cũng có?

Trời Đế Thích thưa:

- Cõi người, cõi trời đều có thần châu này. Nếu thần châu ở cõi người thì hình nó nhỏ mà nặng, còn ở cõi trời thì hình nó lớn mà nhẹ.

Lại nữa, hạt châu ở cõi người hình tướng chẳng đầy đủ, hạt châu ở cõi trời tướng nó tròn đầy. Thần châu cõi trời oai đức thù thắng vô lượng gấp bội hơn ở cõi người.

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa cũng lại như vậy, làm căn bản cho các công đức hay diệt trừ vô lượng pháp ác bất thiện, tùy ở chỗ nào cũng diệt trừ được thân tâm khổ não của các hữu tình, người chẳng phải người đều chẳng làm hại được.

Bạch Thế Tôn! Như Lai đã chứng được Nhất thiết trí trí và vô lượng, vô biên các công đức khác đều do Đại vương thần chú Bát nhã Ba la mật đã diễn bày ra vô lượng, vô biên oai đức sâu rộng. Xá lợi của Phật nhờ đã huân tu các công đức, nên các công đức này làm chỗ để nương tựa. Sau khi Phật Niết bàn, đáng được lãnh thọ sự cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen của tất cả thế gian, trời, người, A tu la v.v...

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Hãy gác việc Xá lợi của Phật ở cõi tam thiên lại, giả sử Xá lợi của Phật đầy hằng hà sa số thế giới khắp mười phương đem làm một phần, hoặc có người biên chép pháp môn Bát Nhã sâu xa làm một phần. Trong hai phần này, con chọn Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì con đối với Xá lợi của Phật đều tin ưa cúng dường, cung kính, như pháp thân chư Phật và Xá lợi đều do pháp môn Bát Nhã sâu xa sanh ra, đều nhờ công đức oai lực đã huân tu Bát Nhã sâu xa mới được tất cả thế gian, trời, người, A tu la cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa hay sanh ra Nhất thiết trí trí của Như Lai. Nhất thiết trí trí mà Như Lai đã chứng đắc có thể sanh ra thân Phật và Xá lợi. Vì vậy, cúng dường Bát Nhã, tức là cúng dường Nhất thiết trí trí và Xá lợi của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ nào muốn được thấy vô lượng, vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở mười phương thì phải tu hành Bát nhã Ba la mật.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói!

Này Kiều thi ca! Đời quá khứ, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát Nhã, đã chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề. Đời vị lai, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng nương vào Bát Nhã này sẽ chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề. Và đời hiện tại, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong 10 phương vô biên thế giới cũng đều nương vào Bát Nhã này hiện chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề. Nay Ta Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng nương vào Bát Nhã này cũng chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Trời Đế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa này là đại Ba la mật, là Vô thượng Ba la mật, là Vô đẳng đẳng Ba la mật. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đại Bồ Tát đều nương vào Bát Nhã sâu xa này biết được sự sai khác về tâm hành của các hữu tình.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Này Kiều thi ca! Các đại Bồ Tát trong suốt thời gian tu hành Bát Nhã sâu xa, có thể như thật biết tất cả sự sai khác về tâm hành của các hữu tình.

Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát chỉ cần hành Bát nhã Ba la mật, hay cũng nên hành năm Ba la mật kia nữa?

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Này Kiều thi ca! Các đại Bồ Tát nên hành đủ sáu pháp Ba la mật. Nhưng khi hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, quán các pháp đều lấy Bát nhã Ba la mật làm tôn dẫn.

Này Kiều thi ca! Ví thân, cành, hoa, lá, quả trái của cây cối trong châu Thiệm bộ, dù có nhiều thứ hình loại chẳng đồng, nhưng nó đều có khả năng che bóng mát như nhau, đầy đủ công đức lớn, được mọi người nương tựa.

Cũng vậy, sáu pháp Ba la mật, mỗi pháp tuy đều có khác, nhưng nhờ phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật hộ trì và hồi hướng Nhất thiết trí trí, các tướng sai khác đều bất khả đắc, đầy đủ đại công đức, được mọi người nương theo.

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa thành tựu tất cả các công đức rộng lớn, thành tựu công đức viên mãn, thành tựu công đức vô lượng, thành tựu công đức vô biên, thành tựu công đức vô số, thành tựu công đức vô đẳng, thành tựu công đức vô tận thù thắng.

Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:

- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói!

 

Lược giải:

 

Ở đây một lần nữa phẩm này so lường công đức của người tụng đọc thọ trì Kinh Bát nhã Ba la mật với công đức của người thờ cúng xá lợi Phật. Tất cả ba Hội trước đã tán tụng quá nhiều công đức Bát Nhã rồi, Hội này cũng tán tụng như vậy, nên ở đây chúng tôi chỉ trích dẫn một đoạn Kinh ngắn làm tiêu biểu về sự tuyên dương công đức này:

Phẩm “So Lường Công Đức”, quyển 126, Hội thứ I, ĐBN:

“Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nay đây Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với tất cả công đức của Bát Nhã này, nói còn chưa hết. Vì sao? Vì Bát Nhã mà con đã lãnh thọ từ Thế Tôn, với công đức rộng sâu, không bờ bến. Các thiện nam, thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi thì công đức có được cũng không bờ bến. Nếu có người sao chép Bát nhã Ba la mật này rồi dùng các thứ trang trí cho đẹp, lại dùng vô lượng tràng hoa, các loại hương xoa, hương bột tuyệt diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý lạ, kỹ nhạc, đèn sáng, tất cả vật sở hữu cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì công đức có được cũng không bờ bến”.

 

Cùng một phẩm như trên, Phật bảo trời Đế Thích:

“Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam, thiện nữ chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì các hữu tình tuyên thuyết truyền bá rộng rãi, hoặc lại sao chép, trang trí đẹp đẽ, rồi dùng vô lượng tràng hoa, các thứ hương xoa, hương bột tuyệt diệu, y phục, anh lạc, tràng phan, lọng báu, các thứ ngọc quý, kỹ nhạc, đèn sáng, hết cả vật sở hữu cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì thiện nam, thiện nữ ấy, ta nói, có được vô lượng vô biên công đức thù thắng trong hiện tại và vị lai”.

 

Kết luận:

 

Bài pháp của phẩm trước cũng như phẩm này nói lên quá đầy đủ công đức thắng diệu của Bát nhã Ba la mật. Kinh nói tất cả chư Phật ba đời đều do Bát nhã Ba la mật mà xuất sanh. Bát Nhã là mẹ sanh, mẹ dưỡng của chư Phật và Bồ Tát, Bát Nhã xuất sanh tất cả thiện pháp thù thắng thế gian và xuất thế gian. Phẩm “Thế Gian”, quyển 547, TBBN nói: “Bát Nhã sâu xa là mẹ của chư Phật, có thể chỉ bày thật tướng các pháp thế gian. Thế nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nương pháp mà an trụ, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, bảo vệ, hộ trì nương tựa vào pháp này. Pháp đó tức là Bát Nhã sâu xa…”.

Vì vậy, Thiên Đế Thích chủ cõi trời Ba mươi ba tán thán Bát Nhã này “có đủ đại thần lực, làm lợi ích cho hữu tình ở cõi Tam thiên, ví như ngọc đại bảo thần châu vô giá, đầy đủ vô lượng các oai đức thắng diệu, tùy ở chỗ nào có thần châu này, người và chẳng phải người đều không bị não hại”.

Phẩm “So Lường Công Đức”, quyển 129, Hội thứ I, ĐBN, cũng tán tụng: “Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức quảng đại thù thắng; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô lượng; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng viên mãn; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô biên; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô đối; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô tận; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng vô giới hạn; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng không gì bằng; Bát nhã Ba la mật như thế, thành tựu công đức thù thắng khó nghĩ bàn; Bát nhã Ba la mật như thế thành tựu công đức thù thắng chẳng thể nói hết”.

 

 Tất cả những tán tụng trên hợp lại được xem như là xưng dương công đức Bát Nhã Ba la mật. Đó là ý nghĩa của phẩm này./.

 

 

---o0o---

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2587)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5762)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 112997)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5924)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5959)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6535)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12288)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8469)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14683)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25092)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567