Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

38. Phẩm “Đại Sư"

16/08/202017:18(Xem: 6867)
38. Phẩm “Đại Sư"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-424

PHẨM “ĐẠI SƯ”(1)

Quyển 434, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với phẩm "Khen Bát Nhã", phần sau quyển 172 cho đến

phần đầu quyển 181, Hội thứ I, ĐBN)

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

Tóm lược:

 

(Ca tụng Bát nhã Ba la mật)

 

Bấy giờ, cụ thọ Xá lợi Tử thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế hay soi sáng, rốt ráo thanh tịnh. Bát nhã Ba la mật như thế, các trời, người v.v… đều nên kính lễ, vâng làm. Bát nhã Ba la mật như thế không nhiễm trước, các pháp thế gian chẳng thể làm ô nhiễm được. Bát nhã Ba la mật như thế xa lìa tất cả mờ mịt ba cõi, trừ sạch phiền não các kiến chấp đen tối. Bát nhã Ba la mật như thế là thượng thủ nhất, tối thắng nhất trong tất cả chủng loại Bồ đề phần pháp. Bát nhã Ba la mật như thế có thể đem an ổn, dứt hẳn tất cả kinh khủng, bức bách, tai họa. Bát nhã Ba la mật như thế có thể cho ánh sáng, thu nhiếp các hữu tình khiến được năm nhãn. Bát nhã Ba la mật như thế có thể chỉ bày trung đạo, khiến kẻ lạc đường lìa bỏ hai bên. Bát nhã Ba la mật như thế khéo sanh Nhất thiết tướng trí, dứt hẳn tất cả phiền não tập khí tương tục. Bát nhã Ba la mật như thế là mẹ của các Bồ Tát, tất cả Phật pháp mà Bồ Tát tu tập đều từ đấy xuất sanh.

Bát nhã Ba la mật như thế chẳng sanh chẳng diệt, tự tướng không vậy. Bát nhã Ba la mật như thế lìa tất cả sanh tử, chẳng thường chẳng hoại. Bát nhã Ba la mật như thế có thể làm chỗ nương dựa, ban chánh pháp cho tất cả hữu tình. Bát nhã Ba la mật như thế có thể thành tựu viên mãn Như Lai mười lực, tất cả lý luận của kẻ khác đều bị chiết phục. Bát nhã Ba la mật như thế có khả năng chuyển pháp luân vô thượng gồm ba lần chuyển mười hai hành tướng(2), đạt tất cả pháp, không có gì xoay ngược lại được. Bát nhã Ba la mật như thế có thể chỉ bày tự tánh không trái ngược của các pháp, hiển rõ vô tánh tự tánh không.

 

(Trụ Bát Nhã coi như Đại sư)

 

Bạch Thế Tôn! Hoặc các Bồ Tát, hoặc kẻ hướng tới Bồ Tát thừa, hoặc các Thanh văn, hoặc kẻ hướng tới Thanh văn thừa, hoặc các Độc giác, hoặc kẻ hướng tới Độc giác thừa, đối với Bát nhã Ba la mật đây nên trụ thế nào?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Các hữu tình này trụ Bát nhã Ba la mật đây, nên coi như Đại sư mà cung kính cúng dường. Cúng dường lễ kính Bát nhã Ba la mật như thế nào thì nên cúng dường kính lễ Đại sư như thế ấy. Vì sao? Vì Đại sư chẳng khác Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật chẳng khác Đại sư. Đại sư tức là Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật tức là Đại sư.

Này Xá lợi Tử! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều do Bát nhã Ba la mật mà được xuất sanh. Tất cả Bồ Tát, Độc giác, A la hán cho đến Dự lưu đều do Bát nhã Ba la mật mà được xuất sanh. Tất cả mười thiện nghiệp đạo của thế gian, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đều do Bát nhã Ba la mật mà được xuất sanh. Tất cả nội không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, như vậy cho đến Như Lai mười lực, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết tướng trí đều do Bát nhã Ba la mật mà được xuất sanh.

Khi ấy, trời Đế Thích nghĩ như vầy: Nay không biết vì nhân duyên gì, Xá lợi Tử hỏi Phật việc này. Nghĩ vậy liền thưa Xá lợi Tử:

- Bạch Đại đức! Nay vì nhân duyên gì mà hỏi Thế Tôn như thế?

Xá lợi Tử bảo trời Đế Thích:

- Này Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát nhờ Bát nhã Ba la mật này nhiếp trì, nên dùng phương tiện khéo léo đối với tất cả các đức Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác khắp mười phương thế giới quá khứ, vị lai, hiện tại, từ sơ phát tâm đến khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển bánh xe diệu pháp, độ vô lượng chúng vào cõi Vô dư y Bát Niết bàn, cho đến lúc pháp diệt; trong thời gian giữa này, có tất cả các công đức căn lành, như công đức căn lành của các Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và các loại hữu tình khác. Tập hợp tất cả lượng căn lành như vậy, lấy vô tướng và vô sở đắc làm phương tiện, hiện tiền tùy hỷ. Tùy hỷ xong, ban cho các hữu tình cùng có bình đẳng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do nhân duyên đây nên tôi hỏi việc này.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật mà các Bồ Tát học thù thắng hơn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự Ba la mật gấp vô lượng lần.

Này Kiều Thi Ca! Như kẻ sanh manh hoặc trăm hoặc ngàn hoặc nhiều trăm ngàn mà không có người lành mắt làm người dẫn đường thì chẳng thể đến gần chánh đạo, huống nữa là đến được những chốn vương đô, thành ấp giàu có an lạc xa xôi. Cũng như các kẻ mù lòa; bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự Ba la mật, nếu không có người sáng mắt Bát nhã Ba la mật dẫn đường thì chẳng thể hướng tới chánh đạo của Bồ Tát, huống nữa là đến được thành Nhất thiết trí xa xôi.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Năm Ba la mật: Bố thí, trì giới… phải nhờ Bát nhã Ba la mật nhiếp dẫn(3), nên gọi là kẻ có mắt; lại nhờ Bát nhã Ba la mật nhiếp trì(4) nên năm pháp Ba la mật kia mới có tên “đến bờ kia”.

Khi ấy, trời Đế Thích thưa cụ thọ Xá lợi Tử:

- Như Đại đức nói năm pháp Ba la mật: Bố thí, tịnh giới… nhờ có Bát nhã Ba la mật nhiếp trì nên mới được gọi là đến bờ kia. Sao chẳng nói nhờ bố thí cho đến tĩnh lự Ba la mật nhiếp trì nên năm pháp ấy mới được tên gọi đến bờ kia? Như vậy, do duyên gì mà chỉ khen một mình Bát nhã Ba la mật?

Xá lợi Tử nói:

- Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Sáu pháp Ba la mật: Bố thí, trì giới… nhiếp dẫn lẫn nhau mới có thể đến bờ kia được. Nhưng trụ Bát nhã Ba la mật đủ đại thế lực phương tiện khéo léo thì mau được viên mãn việc tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự Ba la mật. Chớ chẳng phải trụ năm pháp trước mà thành việc này. Cho nên, Bát nhã Ba la mật đối với năm pháp trước là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng. Do nhân duyên này nên chỉ khen riêng Bát Nhã là thù thắng hơn năm pháp Ba la mật kia.

Bấy giờ, Xá lợi Tử thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật như thế nào?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát chẳng vì dẫn phát sắc cho đến thức, vậy nên dẫn phát Bát Nhã Ba la. Chẳng vì dẫn phát nhãn xứ cho đến ý xứ, vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật. Cũng chẳng vì dẫn phát sắc xứ cho đến pháp xứ; chẳng vì dẫn phát nhãn giới cho đến ý giới; chẳng vì dẫn phát sắc giới cho đến pháp giới; chẳng vì dẫn phát nhãn thức giới cho đến ý thức giới; chẳng vì dẫn phát nhãn xúc cho đến ý xúc; chẳng vì dẫn phát nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật. Chẳng vì dẫn phát bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; chẳng vì dẫn phát nội không cho đến vô tánh tự tánh không; chẳng vì dẫn phát bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Như vậy, cho đến chẳng vì dẫn phát Phật mười lực, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật. Chẳng vì dẫn phát Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; chẳng vì dẫn phát tất cả pháp, vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật. (Q.434, ĐBN)

Khi ấy, Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao các Bồ Tát chẳng dẫn phát sắc cho đến tất cả pháp, vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Vì sắc cho đến tất cả pháp vô tác vô sanh, vô đắc vô hoại, vô tự tánh, nên các Bồ Tát chẳng vì dẫn phát sắc cho đến tất cả pháp, vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật.

Xá lợi Tử lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát dẫn phát Bát nhã Ba la mật như thế hiệp với pháp nào?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát dẫn phát Bát nhã Ba la mật như thế chẳng hiệp với tất cả pháp. Vì chẳng hiệp nên được gọi là Bát nhã Ba la mật.

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng hiệp với những pháp nào?

Phật dạy:

- Bát nhã Ba la mật như thế chẳng hiệp với pháp thiện, chẳng hiệp với pháp bất thiện, chẳng hiệp với pháp thế gian, chẳng hiệp với pháp xuất thế gian, chẳng hiệp với pháp hữu lậu, chẳng hiệp với pháp vô lậu, chẳng hiệp với pháp hữu tội, chẳng hiệp với pháp vô tội, chẳng hiệp với pháp hữu vi, chẳng hiệp với pháp vô vi. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế đối với tất cả pháp vô sở đắc, nên chẳng thể nói hiệp với các pháp như thế.

Khi ấy, trời Đế Thích thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế há chẳng hiệp với Nhất thiết tướng trí chăng?

Phật dạy:

- Này Kiều Thi Ca! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói, Bát nhã Ba la mật như thế cũng chẳng hiệp với Nhất thiết tướng trí. Do đây nói Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết tướng trí kia không sở đắc vậy.

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết tướng trí không hiệp cũng không đắc?

- Này Kiều Thi Ca! Vì chẳng phải Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết tướng trí, như danh, như tướng, như sở tác kia mà có hiệp có đắc.

- Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết tướng trí cũng có thể nói có hiệp có đắc?

- Này Kiều Thi Ca! Vì Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết tướng trí, như đối với danh, tướng… không nhận, không lấy, không trụ, không dứt, không chấp, không bỏ. Hiệp đắc như vậy mà không hiệp đắc.

Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế đối với tất cả pháp cũng như đối với danh, tướng… không nhận, không lấy, không trụ, không dứt, không chấp, không bỏ. Hiệp đắc như vậy mà không hiệp đắc.

Trời Đế Thích lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật là hiếm có. Bát nhã Ba la mật như thế, vì tất cả pháp không sanh, không diệt, không tác, không thành, không đắc, không hoại. Vì không có tự tánh nên hiện ra trước, tuy có hiệp có đắc mà không đắc không hiệp. Nghĩa lý như thế chẳng thể nghĩ bàn.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu khi Bồ Tát tu hành Bát Nhã khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật như thế hiệp cùng với các pháp, hoặc chẳng hiệp cùng các pháp thì Bồ Tát này xa lìa Bát nhã Ba la mật chăng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Lại có nhân duyên các Bồ Tát xa lìa Bát nhã Ba la mật, nghĩa là khi Bồ Tát tu hành Bát Nhã khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật như thế không sở hữu, chẳng chơn thật, chẳng bền chắc, chẳng tự tại. Như thế là Bồ Tát này bỏ xa Bát nhã Ba la mật.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu khi Bồ Tát tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin pháp nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu khi Bồ Tát tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin sắc, chẳng tin thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng tin 12 xứ, chẳng tin 18 giới. Chẳng tin nhãn xúc, chẳng tin nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Chẳng tin nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng tin nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng tin bố thí, chẳng tin tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự Ba la mật. Chẳng tin nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Chẳng tin ba mươi bảy pháp trợ đạo. Như vậy cho đến chẳng tin Phật mười lực; chẳng tin bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng tin quả Dự lưu, chẳng tin quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Chẳng tin Độc giác Bồ đề. Chẳng tin tất cả Bồ Tát hạnh. Chẳng tin chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Chẳng tin Nhất thiết trí, chẳng tin Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao khi Bồ Tát tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin sắc, nói rộng cho đến chẳng tin Nhất thiết tướng trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì khi các Bồ Tát tu hành Bát Nhã quán tất cả sắc bất khả đắc, nên tin Bát nhã Ba la mật mà chẳng tin sắc; nói rộng cho đến quán Nhất thiết tướng trí cũng bất khả đắc, nên tin Bát nhã Ba la mật mà chẳng tin Nhất thiết tướng trí. Do vậy, Thiện Hiện! Khi các Bồ Tát tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin sắc, nói rộng cho đến chẳng tin Nhất thiết tướng trí.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế là đại Ba la mật.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ông vin vào đâu mà nói: Bát nhã Ba la mật như thế là đại Ba la mật?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vì Bát nhã Ba la mật đây đối với sắc cho đến thức chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ. Đối với 12 xứ chẳng làm cho nhỏ. Đối với, 18 giới chẳng làm cho nhỏ. Đối với nhãn xúc cho đến ý xúc chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ. Đối với nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ. Đối với bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, chẳng làm cho lớn chẳng làm nhỏ. Đối với nội không cho đến vô tánh tự tánh không chẳng làm cho lớn chẳng làm nhỏ. Nói rộng ra cho đến tất cả pháp Phật cũng chẳng làm thêm lớn, chẳng làm nhỏ. (Q.434, ĐBN)

Bạch Thế Tôn! Con duyên ý đây nên nói Bát nhã Ba la mật là đại Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì Bát nhã Ba la mật đây đối với sắc chẳng làm cho nhóm hợp, chẳng làm cho tan; đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng làm cho nhóm hợp, chẳng làm cho tan. Như vậy cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật chẳng làm cho nhóm hợp, chẳng làm cho tan; đối với các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm cho nhóm hợp, chẳng làm cho tan.

Bạch Thế Tôn! Con duyên ý đây nên nói Bát nhã Ba la mật là đại Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì Bát nhã Ba la mật như thế đối với sắc chẳng làm lượng, chẳng làm phi lượng; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm lượng, chẳng làm phi lượng. Cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật chẳng làm lượng, chẳng làm phi lượng; đối với các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng chẳng làm lượng, chẳng làm phi lượng.

Bạch Thế Tôn! Con duyên ý đây nên nói Bát nhã Ba la mật là đại Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì Bát nhã Ba la mật đây đối với sắc chẳng làm rộng, chẳng làm hẹp; đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng làm rộng, chẳng làm hẹp. Như vậy cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật chẳng làm rộng, chẳng làm hẹp; đối với các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm rộng, chẳng làm hẹp.

Bạch Thế Tôn! Con duyên ý đây nên nói Bát nhã Ba la mật là đại Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì Bát nhã Ba la mật đây đối với sắc chẳng làm yếu, chẳng làm mạnh; đối với thọ, tưởng, hành, thức chẳng làm yếu, chẳng làm mạnh. Như vậy, cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng làm yếu, chẳng làm mạnh; đối với các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng làm yếu, chẳng làm mạnh.

Bạch Thế Tôn! Con duyên ý đây nên nói Bát nhã Ba la mật là đại Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát mới hướng tới Đại thừa, nương tựa Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật như thế đối với ngũ uẩn cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật chẳng làm lớn, chẳng làm nhỏ; chẳng làm cho nhóm hợp, chẳng làm cho tan; chẳng làm lượng, chẳng làm phi lượng; chẳng làm rộng, chẳng làm hẹp; chẳng làm mạnh, chẳng làm yếu. Nếu các Bồ Tát này do khởi tưởng như vậy, nên chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát mới hướng tới Đại thừa, nương tựa Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật như thế đối với ngũ uẩn cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật làm lớn, làm nhỏ; làm cho nhóm hợp, làm cho tan; làm lượng, làm phi lượng; làm rộng, làm hẹp; làm mạnh, làm yếu.

Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này do khởi tưởng như vậy, nên chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát mới hướng tới đại thừa, chẳng nương Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật như thế đối với ngũ uẩn cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật chẳng làm lớn, chẳng làm nhỏ; chẳng làm cho nhóm hợp, chẳng làm cho tan; chẳng làm lượng, chẳng làm phi lượng; chẳng làm rộng, chẳng làm hẹp; chẳng làm mạnh, chẳng làm yếu.

Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này do khởi tưởng như vậy, nên chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát mới hướng tới Đại thừa, chẳng nương Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật, khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật như thế đối với ngũ uẩn cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật làm lớn làm nhỏ; làm cho nhóm hợp, làm cho tan rã; làm lượng, làm phi lượng; làm rộng, làm hẹp; làm mạnh, làm yếu.

Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này do khởi tưởng như vậy, nên chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì nếu Bồ Tát khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật như thế đối với ngũ uẩn cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật hoặc làm lớn nhỏ, chẳng làm lớn nhỏ; hoặc làm cho nhóm hợp, tan rã, chẳng làm cho nhóm hợp, tan rã; hoặc làm lượng phi lượng, chẳng làm lượng phi lượng; hoặc làm rộng hẹp, chẳng làm rộng hẹp; hoặc làm mạnh yếu, chẳng làm mạnh yếu.

Bạch Thế Tôn! Tất cả như thế đều chẳng phải đẳng lưu quả (nhân quả ngang nhau) của Bát nhã Ba la mật.

Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát khởi tưởng như vầy: Bát nhã Ba la mật cho đến đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật hoặc làm lớn nhỏ, chẳng làm lớn nhỏ; hoặc làm cho nhóm hợp tan, chẳng làm cho nhóm hợp tan; hoặc làm lượng phi lượng, chẳng làm lượng phi lượng; hoặc làm rộng hẹp, chẳng làm rộng hẹp; hoặc làm mạnh yếu, chẳng làm mạnh yếu.

Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này được gọi là “đại hữu sở đắc” (có sở đắc lớn), chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì chẳng phải tưởng có sở đắc năng chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì hữu tình vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh. Vì sắc vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh; thọ, tưởng, hành, thức vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh. Như vậy cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh. Tất cả đức Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh.

Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình không có tự tánh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không có tự tánh. Vì sắc không có tự tánh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không có tự tánh; thọ, tưởng, hành, thức không có tự tánh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không có tự tánh. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật không có tự tánh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không có tự tánh. Tất cả đức Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác không có tự tánh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không có tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình vô sở hữu, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu. Vì sắc vô sở hữu, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu; thọ, tưởng, hành, thức vô sở hữu, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật vô sở hữu, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu. Tất cả đức Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác vô sở hữu, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu.

Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình không, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không. Vì sắc không, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không; thọ, tưởng, hành, thức không, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không. Như vậy cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật không, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không. Tất cả đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không.

Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình xa lìa, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng xa lìa. Vì sắc xa lìa, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng xa lìa; thọ tưởng hành thức xa lìa, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng xa lìa. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật xa lìa, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng xa lìa. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xa lìa, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng xa lìa.

Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình bất khả đắc, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc. Vì sắc bất khả đắc, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc; thọ tưởng hành thức bất khả đắc, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật bất khả đắc, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác bất khả đắc, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình bất khả tư nghì (không thể nghĩ bàn), nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả tư nghì. Vì sắc bất khả tư nghì, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả tư nghì; thọ tưởng hành thức bất khả tư nghì, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả tư nghì. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật bất khả tư nghì, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả tư nghì. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác bất khả tư nghì, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng bất khả tư nghì.

Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình không hoại diệt, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không hoại diệt. Vì sắc không hoại diệt, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không hoại diệt; thọ tưởng hành thức không hoại diệt, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không hoại diệt. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật không hoại diệt, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không hoại diệt. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không hoại diệt, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không hoại diệt.

Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình vô tri giác, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô tri giác. Vì sắc vô tri giác, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô tri giác; thọ, tưởng, hành, thức vô tri giác, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô tri giác. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật vô tri giác, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô tri giác. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vô tri giác, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô tri giác.

Bạch Thế Tôn! Vì thế lực của hữu tình chẳng thành tựu, nên phải quán thế lực của Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thành tựu. Thế lực của Sắc chẳng thành tựu, nên phải quán thế lực của Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thành tựu; thế lực của thọ tưởng hành thức lực chẳng thành tựu, nên phải quán thế lực của Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thành tựu. Như vậy, cho đến thế lực của chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng thành tựu, nên phải quán thế lực của Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thành tựu. Tất cả thế lực của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng thành tựu, nên phải quán thế lực Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thành tựu.

Bạch Thế Tôn! Con duyên vào những ý như vậy, nên nói Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát là đại Ba la mật.

 

Thích nghĩa:

(1). Đại sư: Ám chỉ Phật, gọi là Thiên nhân sư (thầy của Trời người), một trong mười danh hiệu Phật.

(2). Chuyển bánh xe pháp Vô thượng: Tam chuyển thập nhị hành tướng. Ba lần chuyển 12 hành tướng tức thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển và thuyết 12 bộ Kinh từ khế Kinh… cho đến nghị luận. Đã thích nghĩa nhiều lần.

(3). Nhiếp dẫn: Nhiếp phục, dẫn dắt hay đưa đến.

(4). Nhiếp trì: Nắm giữ và hành trì.

 

Sơ giải:

 

1. Phần đầu phẩm này nói về tánh cách tôn dẫn của Bát nhã Ba la mật đối với tất cả pháp môn Phật đạo trong rất nhiều phẩm mà chúng ta đã tụng trước đây. Cho nên Xá Lợi Tử bảo Thiên đế Thích: “Bát nhã Ba la mật đối với năm pháp trước là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng. Do nhân duyên này nên chỉ khen riêng Bát nhã Ba la mật là thù thắng hơn năm pháp Ba la mật kia”.

Chư Phật tu thành tựu Bát Nhã và trụ trong pháp môn này làm lợi ích cho toàn thể chúng sanh nên được suy tôn là Thiên Nhân sư (Đại sư) trong loài người. Vì vậy, các Bồ Tát theo chân Phật nên không lấy các pháp môn khác mà chỉ lấy Bát nhã Ba la mật để dẫn đắt chúng sanh. Nên Kinh Đại Bát Nhã được gọi là “Đại Sư”.

Cùng phẩm này Kinh MHBNBLMĐ có tên “Chiếu Minh”, giải thích rằng:

- “Bát Nhã Ba La Mật chẳng dính mắc vào 3 cõi.

- Bát Nhã Ba La Mật tận trừ hết thảy các vô minh phiền não, cùng hết thảy các kiến chấp.

- Bát Nhã Ba La Mật là pháp tối thượng trong tất cả các pháp trợ đạo, tận đoạn hết thảy các sợ hãi, khổ não và đem lại sự an lạc.

- Bát Nhã Ba La Mật thường chiếu diệu quang minh và trang nghiêm 5 nhãn.

- Bát Nhã Ba La Mật dẫn dắt chúng sanh ra khỏi tà kiến, xa lìa chấp “nhị biên”.

- Bát Nhã Ba La Mật là nhất thiết chủng trí, đoạn trừ hết thảy các tập khí phiền não.

- Bát Nhã Ba La Mật là mẹ của chư Phật và chư đại Bồ Tát”.

Đó là tánh cách tôn dẫn chỉ đạo của Bát Nhã được các phẩm trước đây ca tụng là “Thầy của Trời người”. Hơn thế nữa Bát nhã Ba la mật được nâng cao đến mức tối đa khi bảo rằng: Bát nhã Ba la mật tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tức là Bát nhã Ba la mật hoặc Bát nhã Ba la mật là Nhất thiết trí trí, Nhất thiết trí trí tức là Bát nhã Ba la mật.

  

2. Kế đến Phật lưu ý những người hành trì Bát nhã Ba la mật:

“Bát nhã Ba la mật như thế chẳng hiệp với pháp thiện, chẳng hiệp với pháp bất thiện, chẳng hiệp với pháp thế gian, chẳng hiệp với pháp xuất thế gian, chẳng hiệp với pháp hữu lậu, chẳng hiệp với pháp vô lậu, chẳng hiệp với pháp hữu tội, chẳng hiệp với pháp vô tội, chẳng hiệp với pháp hữu vi, chẳng hiệp với pháp vô vi. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế đối với tất cả pháp vô sở đắc, nên chẳng thể nói hiệp với các pháp như thế”.

Để giải thích điểm này Đại trí độ Luận, phẩm thứ 40, “Chiếu Minh”, tập 4, quyển 62, giải thích rằng:

“Nếu Bát Nhã Ba La Mật có pháp để hợp, thì ắt phải hợp với các pháp thiện hoặc với các pháp bất thiện; như vậy là chẳng phải Bát Nhã Ba La Mật nữa. Vì Bát Nhã Ba La Mật chẳng hợp với hết thảy pháp, nên mới dung nhiếp hết thảy pháp”.

... “Bồ Tát nào dụng tâm sở đắc, mà phân biệt Nhất thiết chủng trí cùng hết thảy các các pháp là hợp hay chẳng hợp, thì vị Bồ Tát ấy đã xa rời Bát Nhã Ba La Mật”.

 

3. Phần cuối cùng của phẩm này, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bát nhã Ba la mật đối với tất cả pháp chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ, chẳng làm cho nhóm họp, chẳng làm cho tan, chẳng làm cho có lượng hay phi lượng, chẳng làm cho yếu chẳng làm cho mạnh. Nếu Bồ Tát làm, chẳng làm, chẳng phải làm, chẳng phải chẳng làm như vậy là Bồ Tát hành theo tứ cú, tức hí luận, nên rơi vào nhị nguyên đối đãi đều chẳng phải là đẳng lưu quả của Bát nhã Ba la mật. Nên Bồ Tát này bị gọi là “đại hữu sở đắc”. Nếu bị gọi là “người đại hữu sở đắc” thì không thể tu Bát nhã Ba la mật, không thể đắc Nhất thiết trí trí. Nên khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này được gọi là “đại hữu sở đắc”, chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì chẳng phải tưởng có sở đắc năng chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì hữu tình vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh”. Vì sắc vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh; thọ, tưởng, hành, thức vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh. Như vậy cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh. Tất cả đức Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác vô sanh, nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh.

Vì hữu tình không có tự tánh, vô sở hữu, không, xa lìa, bất khả tư nghì, vô tri giác, chẳng thành tựu… Nên phải quán Bát nhã Ba la mật cũng không có tự tánh, vô sở hữu, không, xa lìa, bất khả tư nghì, không thành tựu. Như vậy, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật không có tự tánh, vô sở hữu… cho đến không thành tựu. Nên cũng phải quán Bát nhã Ba la mật không có tự tánh, vô sở hữu… cho đến không thành tựu cũng lại như thế.

Đó là lý do tại sao một số luận sư căn cứ vào đặc tánh này nên nói Bát Nhã vô tri. Phải, Bát Nhã vô tri nhưng vô sở bất tri. Vì vậy, mới nói Bát nhã Ba la mật là thầy dạy của tất trời người mà những người con dòng họ Thích trong Tam thiên đại thiên thế giới, hằng ngưỡng mộ, tôn kính như Đại sư!

 

(Xem lại chiết giải phẩm “Khen Bát Nhã”, phần sau quyển 172 cho đến phần đầu quyển 181, Hội thứ I, ĐBN)./.

 

---o0o---

 

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2587)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5762)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 112997)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5924)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5961)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6535)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12293)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8471)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14684)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25096)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567