Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

13. Phẩm “Bất Tư Nghì” (1)

24/11/202017:14(Xem: 6947)
13. Phẩm “Bất Tư Nghì” (1)

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-487

 

XIII. PHẨM “BẤT TƯ NGHÌ”(1)

Phần cuối cùng quyển 547, Hội thứ IV, TBBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

Tóm lược:  

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa vì việc lớn nên xuất hiện ở đời, vì việc không thể nghĩ bàn nên xuất hiện ở đời, vì việc không thể đo lường nên xuất hiện ở đời, vì việc không số lượng nên xuất hiện ở đời, vì việc không thể so sánh nên xuất hiện ở đời.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói!

Thiện Hiện! Thế nào là vì việc lớn nên Bát Nhã sâu xa xuất hiện ở đời? Nghĩa là tất cả chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều vì cứu giúp tất cả hữu tình, vì việc lớn này nên không phút giây nào tạm rời bỏ. Bát Nhã sâu xa vì việc này nên xuất hiện ở đời.

Thiện Hiện! Thế nào là Bát Nhã sâu xa vì việc không thể nghĩ bàn, vì việc không thể đo lường, vì việc không số lượng, vì việc không thể so sánh nên xuất hiện ở đời? Nghĩa là Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên tánh giác, Nhất thiết trí tánh của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh. Bát Nhã sâu xa vì các việc này nên xuất hiện ở đời.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên tánh giác, Nhất thiết trí tánh đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh. Hay là sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả pháp cũng không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh được?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Không những Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác có Phật tánh, Như Lai tánh, tự nhiên tánh giác, Nhất thiết trí tánh không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh mà sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả pháp cũng không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không số lượng, không thể so sánh. Vì sao? Vì ở trong tất cả pháp tánh chơn thật, tâm và tâm sở đều bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết! Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều không thể phô bày, không có số lượng, không so sánh. Vì sao? Vì các pháp như vậy không có tự tánh, bất khả đắc, vì tự tánh Không.

Này Thiện Hiện! Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều bất khả đắc, nên không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh. Vì sao? Vì các pháp này không có hạn lượng, không có sở hữu, vì tự tánh Không.

Này Thiện Hiện! Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều không có hạn lượng, nên không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nguyên nhân nào mà các sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp đều không hạn lượng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi thế nào? Hư không có bị tâm và tâm sở làm hạn lượng không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp cũng lại như vậy, vì tự tánh Không nên tâm và tâm sở không thể hạn lượng. Vì nhân duyên này nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức và tất cả pháp không có hạn lượng, đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh.

Thiện Hiện nên biết! Vì tất cả pháp đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh nên tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều có pháp Phật, pháp Như Lai, pháp giác tự nhiên, pháp Nhất thiết trí cũng không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh được.

Thiện Hiện nên biết! Các pháp này đều không thể nghĩ bàn vì đã chấm dứt sự nghĩ bàn, không thể đo lường vì đã chấm dứt sự đo lường, không có số lượng vì đã chấm dứt số lượng, không thể so sánh vì đã chấm dứt sự so sánh.

Thiện Hiện nên biết! Các pháp này đều không thể nghĩ bàn vì vượt quá sự nghĩ bàn, không thể đo lường vì vượt quá sự đo lường, không có số lượng vì vượt quá số lượng, không thể so sánh vì vượt quá sự so sánh.

Thiện Hiện nên biết! Không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh đó chỉ có khái niệm, hoàn toàn không chơn thật.

Thiện Hiện nên biết! Không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh đó đều như hư không, hoàn toàn vô sở hữu.

Do nhân duyên này mà tất cả pháp Phật, pháp Như Lai, pháp giác tự nhiên, pháp Nhất thiết trí của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh. Thanh văn, Độc giác, thế gian, trời, người, A tu la v.v... thảy đều không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh các pháp này.

Khi đức Phật thuyết pháp không thể nghĩ bàn, không thể đo lường, không có số lượng, không thể so sánh, trong chúng có năm trăm Bí sô, hai ngàn Bí sô ni những lậu hoặc không còn, tâm được giải thoát. Và có sáu mươi cận sự nam, ba mươi cận sự nữ, đối với các pháp xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh. Và có hai vạn đại Bồ Tát đắc Vô sanh pháp nhẫn. Đức Thế Tôn thọ ký cho họ trong Hiền kiếp sẽ chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề Bất thối chuyển. Tức trước đã nói: Những cận sự nam, cận sự nữ đối với các pháp xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh, đức Phật cũng thọ ký cho họ chẳng bao lâu sẽ chứng đắc, vĩnh viễn đoạn tận các lậu, tâm và tuệ giải thoát.(2)

 

Thích nghĩa:

(1). Bất khả tư nghì: Bất khả tư nghị. Không thể nghĩ bàn. Phạm: a-cintya. Cũng gọi Bất tư nghị, Nan tư nghị (khó nghĩ bàn). Chỉ cho cảnh giới không thể nghĩ lường nói năng được. Chủ yếu được dùng để hình dung cảnh giới giác ngộ của chư Phật Bồ Tát, cùng với sự mầu nhiệm sâu xa của trí tuệ và sức thần thông. Đối với những sự lý sâu xa mầu nhiệm và thần kỳ, không thể nhờ vào suy xét hoặc bàn luận mà biết được, người đời thường dùng bất khả tư nghị để hình dung. Nhưng từ ngữ này đã được viện dẫn từ Kinh điển Phật. Kinh Tăng nhất a hàm quyển 18 nói, thế giới, chúng sinh, rồng, cảnh giới Phật là bốn cái không thể nghĩ bàn. Kinh Đại bảo tích quyển 86 cũng nêu: Nghiệp, rồng, thiền, Phật là bốn cảnh giới không thể nghĩ bàn. Luận Đại trí độ quyển 30 thì bảo: Chúng sinh nhiều ít (chúng sinh không thêm không bớt), nghiệp quả báo (tất cả quả báo sai khác do sức nghiệp mà sinh), sức người ngồi thiền (do sức thiền định mà hiện thần thông), sức các rồng (một giọt nước của rồng trút xuống làm trận mưa lớn), sức của chư Phật (đức Phật đã thành tựu đầy đủ mười lực) v.v..., năm thứ kể trên đều không thể nghĩ bàn. Lại Kinh Hoa nghiêm (bản dịch cũ) quyển 30 phẩm Phật bất khả tư nghị pháp, cũng nêu ra mười thứ không thể nghĩ bàn của chư Phật là: Cõi nước, tịnh nguyện, chủng tính, xuất thế, pháp thân, âm thanh, trí tuệ, sức thần tự tại, vô ngại trụ, giải thoát v.v... Cũng Kinh trên, quyển 37 phẩm Ly thế gian còn ghi chép mười thứ không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Những ghi chép trên đây đều nhằm nói rõ rằng, sự giải thoát, trí tuệ, sức thần thông v.v... của chư Phật và Bồ Tát không thể dùng lời nói mà diễn tả, hoặc suy tư mà biết được. Thêm nữa, Kinh Hoa nghiêm và Kinh Duy Ma được gọi là Kinh Bất khả tư nghị giải thoát, đức Phật A di đà được gọi là Bất khả tư nghị quang Như Lai, Bồ Tát được gọi là Bất khả tư nghị Bồ Tát, Nan tư nghị Bồ Tát v.v... đều thuộc những trường hợp kể trên. (xt. Tứ Bất Tư Nghi) -Phật Quang tự điển.

 (2). Số lượng Bí sô và Bí sô ni cũng như số lượng Ưu bà tắc, Ưu bà di và Bồ Tát chứng đắc các quả vị sau khi Phật thuyết trong “Tiểu Bản Bát Nhã” do Ngài Huyền Trang dịch hoặc “Tiểu Phẩm Bát Nhã” do Ngài La Thập dịch hoặc “Phật Mẫu Bát Nhã” do Thí Hộ dịch, rất khác nhau. Đó là điều đáng ngạc nhiên, vì trong cùng một pháp hội mà kinh điển lại ghi chép rất khác nhau?

 

Lược giải:

 

Tất cả trí Phật là những năng lực siêu diệt, không thể tưởng tượng, không gì sánh bằng, không thể dùng lời nói hay văn tự diễn tả nổi. Vì thế mới nói tất cả trí tuệ Phật là bất khả tư nghì. Nhưng tại sao sắc thọ tưởng cũng bất khả tư nghì. Sắc thọ tưởng hành thức còn gọi là ngũ uẩn, ngũ che(1). Vì nó che đậy tánh giác của con người. Như trước đây chúng ta từng nói năm thủ uẩn là cái giúp ta sống, nhưng năm thủ uẩn cũng là cái lừa phỉnh chúng ta. Tại sao năm thủ uẩn giúp ta sống? Vì nếu không có thọ tưởng hành thức thì làm sao chúng ta có thể tiếp xúc với môi trường sống hay sanh địa. Ngũ uẩn, lục căn, là con người. Thiếu nó là thiếu tất cả. Không có nó, con người chỉ là gỗ đá. Nên thủ uẩn là cái giúp con người sống: Chính nó bảo vệ thân căn và khí thế gian. Nhưng tại sao lại nói ngũ uẩn cũng chính là cái lừa phỉnh con người. Thí dụ mà chúng ta thường nói là có hai người cùng vào một phòng lạnh có cùng một nhiệt độ như nhau, người mạnh khỏe thì cảm thấy mát mẻ, ưa thích... trong khi người bệnh hoạn ốm yếu thì cảm thấy rét lạnh, khó chịu! Tại sao? Vì cảm thọ là cái sai biệt tùy theo từng cá thể. Cảm thọ không phải là nhiệt kế hay hàn thử biểu, nên không thể nói lên sự thật chung cùng của thế giới khách quan.

Nhưng tại sao sắc thọ tưởng hành thức không thể nghĩ bàn không thể cân lường, không thể tính đếm, không gì ngang bằng. Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật bảo: Năm cửa ngõ đó là địa ngục và chính năm cửa đó cũng là Niết bàn. Khi “tại triền” thì thức là cái so đo phân biệt, nên chúng sanh bị phiền não trói buộc, phải bị trầm luân trong sanh tử. Vì vậy, nói: Năm cửa ngõ đó nó là địa ngục. Nhưng một khi “xuất triền” tức thoát ly phiền não, thì thức biến thành trí, đó chính là Niết bàn. Trí đó có đầy đủ công đức diệu dụng vô ngại, vô biên... không thể cân lường, không thể tính đếm, không gì hơn nên nói là bất khả tư nghì(2)!

Không những tất cả pháp, Như Lai pháp, Phật pháp, Tự nhiên trí pháp, Nhất thiết trí pháp… mà cả sắc, thọ tưởng, hành, thức không thể nghĩ bàn, không thể cân, không thể lường, không thể tính đếm, không gì ngang bằng, cho đến tất cả các pháp cũng không thể nghĩ bàn, không thể cân, không thể lường, không thể tính đếm, không gì ngang bằng.

Vì trong pháp tánh, sắc thọ tưởng hành thức không có tâm, không có tâm sở; cho đến tất cả các pháp, ở trong Pháp tánh, cũng không có tâm, không có tâm sở. Không có tâm hay tâm sở tức tâm Không hay còn gọi là vô niệm, vô tâm. Đạt đến chỗ này tức là chứng Thánh, nên có đầy đủ diệu dụng không thể nghĩ bàn. Kinh Phật Mẫu Bát Nhã, Phật nói lên quan điểm này như sau:

- “Tu bồ đề! Vì sắc, thụ, tưởng, hành, thức, ở trong Pháp tính, không có tâm, không có tâm sở, nên không thể nghĩ bàn, không thể cân, cho đến tất cả các pháp cũng không thể nghĩ bàn, không thể cân. Tu bồ đề! Vì sắc, thụ, tưởng, hành, thức không thể lường, cho đến tất cả các pháp cũng không thể lường. Vì sao? Sắc, thụ, tưởng, hành, thức, không thể lường được, cho đến tất cả các pháp cũng không thể lường được. Vì không thể lường được, tức sắc, thụ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả các pháp không có tạo tác. Vì không tạo tác, tức sắc, thụ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả các pháp đều không sinh. Vì không sinh, nên sắc, thụ, tưởng, hành, thức cho đến tất cả các pháp đều không thể lường. Tu bồ đề, vì sắc, thụ, tưởng, hành, thức không thể đếm, cho đến tất cả các pháp cũng không thể đếm. Vì sao? Vì vượt ngoài phần số. Tu bồ đề! Vì sắc, thụ, tưởng, hành, thức không có gì ngang bằng, cho đến tất cả các pháp cũng không có gì ngang bằng. Vì sao? Vì bình đẳng như hư không. Tất cả các pháp cũng lại như thế.

Lại nữa, Tu bồ đề! Ý ngươi nghĩ thế nào? Hư không có tâm, tâm sở không?

Tu bồ đề nói:

- Không, Thế Tôn!

Phật nói:

- Tu bồ đề! Tất cả các pháp kia cũng thế. Vì hư không không thể nghĩ bàn, tất cả các pháp cũng không thể nghĩ bàn. Vì hư không không thể cân, tất cả các pháp cũng không thể cân. Vì hư không không thể lường, tất cả các pháp cũng không thể lường. Vì hư không không thể đếm, tất cả các pháp cũng không thể đếm. Vì hư không không có gì ngang bằng, tất cả các pháp cũng không có gì ngang bằng. Vì thế, các pháp lìa mọi phân biệt. Nếu phân biệt thì đều là nghiệp thức.

Tu bồ đề, chấm dứt mọi sự cân lường tính toán gọi là không thể nghĩ bàn. Vì không cân được nên gọi là không thể cân. Vì không có hạn lượng nên gọi là không thể lường. Vì vượt ngoài các số nên gọi là không thể tính đếm. Vì như hư không nên gọi là không gì ngang bằng. Vì duyên này, nên biết pháp Như Lai, pháp Phật, pháp Tự nhiên trí, pháp Nhất thiết trí, cho đến tất cả các pháp đều như hư không, không thể nghĩ bàn, không thể cân, không thể lường, không thể tính đếm, không gì ngang bằng”.

 

Kết luận:

 

Đây là một bài pháp tuy rất ngắn nhưng quá thậm thâm, rất khó thâm nhập. Nhưng hiểu được nó là hiểu được tất cả pháp hay hiểu nó là thông đạt Bát Nhã. Trong toàn thể Đại Bát Nhã đều nói về cái giác biết này giữa chúng sanh hay thế gian (cõi mê) và Thánh giả (cõi giác) đối với tất cả pháp. Chúng sanh cõi mê hiểu tất cả pháp là qua thức (do cảm thọ từ ngũ uẩn mà ra). Thấy có phân biệt nên nói tốt xấu, hay dở… Còn Thánh giả thấy các pháp như thế nào? Kinh chỗ nào cũng nói các pháp là giả, không thật như bèo bọc mộng huyễn mây; các pháp là ngu si trì độn, chẳng biết gì… cứ trơ lì như gỗ đá; các pháp là như như, chẳng lúc nào chẳng như, như vậy bởi vì nó là như vậy; vì thấy như vậy nên bảo các pháp là bình đẳng vô tướng; vì thấy không, vô tướng, vô tánh, tự tánh không… nên mới được thanh tịnh.

Lên một tầng nữa phẩm này Phật bảo tất cả pháp không thể nghĩ bàn giống như hư không, không thể tính đếm, so lường… lìa phân biệt. Nếu có phân biệt là do nghiệp thức của con người không phải do pháp. Do Thánh giả có cái thấy như vậy mới sanh trí tuệ mà đạt vô ngại trí, vô phân biệt trí, vô trước trí, vô sư trí, bình đẳng tánh trí, đại viên cảnh trí… Trong lúc chúng sanh thấy pháp, đòi hỏi phải có đối tượng mới gọi là thấy, không có đối tượng nói là không thấy. Thánh giả ngược lại không thấy tướng, lìa tướng nên thấy tánh, thấy chơn như thật tướng. Nên cái thấy của Thánh giả gọi không thể nghĩ bàn!

Thâm nhập được pháp không, pháp như rồi, lại sống đệ nhất nghĩa đế thì thấy tất cả pháp đều không. Nên nói tất cả pháp đều bình đẳng. Pháp bình đẳng không do Phật làm ra, không do ai làm ra, không ai có thể nắm bắt được nên nói là bất khả tư nghì.

Thích nghĩa cho phần lược giải này:

(1). Ngũ uẩn: Sắc (; s, p: rūpa), chỉ thân và sáu giác quan (Lục căn) do Tứ đại chủng (s, p: mahābhūta) tạo thành, đó là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của các giác quan. Thụ (; s, p: vedanā), tức là toàn bộ các cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính. Tưởng (; s: saṃjñā; p: saññā) là nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị…, kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện. Hành (; s: saṃskāra; p: saṅkhāra) là những hoạt động tâm lý sau khi có tưởng, ví dụ chú ý, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác… Thức (; s: vijñāna; p: viññāṇa) bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. (Phỏng theo từ điển Đạo Uyển).

 (2). Thức uẩn:(識蘊) Cũng gọi Thức ấm, Thức thụ ấm. Chỉ cho sự tụ tập của các thức như thức mắt, thức tai..., 1 trong 5 uẩn. Luận Câu xá quyển 1 (Đại 29, 4 thượng) nói: Mỗi thức đều phân biệt rõ ràng từng cảnh giới trong các giới, rồi thu lấy toàn bộ cảnh giới, cho nên gọi là Thức uẩn. Đây lại có 6 thức thân khác nhau, tức từ Nhãn thức thân đến Ý thức thân. Bởi vì 6 thức như thức mắt..., khi đối trước cảnh, chỉ thu lấy tướng chung để phân biệt, cho nên gom 6 thức này vào nhóm loại mà đặt tên là Thức uẩn. (Phỏng theo Từ điển Phật Quang)./.

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2587)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5762)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 112997)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5924)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5961)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6535)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12294)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8472)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14685)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25096)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567