Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. Phẩm “Trời Khen”

24/11/202017:21(Xem: 6788)
15. Phẩm “Trời Khen”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-489


 

    XV. PHẨM “TRỜI KHEN”

Phần giữa quyển 548, Hội thứ IV, TBBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát mới học Đại thừa, phải trụ Bát Nhã sâu xa như thế nào? Phải học Bát Nhã sâu xa như thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát mới học Đại thừa, muốn trụ Bát Nhã trước hết phải thân cận, phụng sự, cúng dường bạn lành chơn tịnh(1). Người nào có thể giảng nói Bát Nhã sâu xa, truyền trao cho các Bồ Tát, nên biết đó là bạn lành chơn tịnh. Nghĩa là giảng nói được Bát Nhã, răn dạy, truyền trao cho các Bồ Tát mới học Đại thừa và nói: “Thiện nam tử, đến đây! Ngươi nên siêng tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Khi ngươi siêng năng tu tập hãy lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với các hữu tình bình đẳng và cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi ngươi hồi hướng, chớ đem sắc mà chấp quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; chớ đem thọ, tưởng, hành, thức mà chấp quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Thiện nam tử! Vì nếu không có sự chấp thủ tức là chứng đắc Nhất thiết trí trí. Thiện nam tử! Ngươi đối với địa vị Thanh văn và Độc giác, chớ sanh đắm trước”.

Như vậy, Thiện Hiện! Bạn lành chơn tịnh răn dạy, truyền trao cho các đại Bồ Tát mới học Đại thừa, làm cho họ thâm nhập dần dần Bát Nhã sâu xa.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát làm những việc khó khăn nên nương vào các tướng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Họ không muốn tự tại nhập diệt, luôn luôn nghĩ tới những nỗi khổ của chúng sinh mà mong cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì muốn dùng phương tiện cứu độ chúng sanh tận cùng vị lai nên không sợ luân chuyển trong sanh tử.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Các đại Bồ Tát có thể làm những việc khó làm, nghĩa là làm lợi lạc thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; vì thương xót các hữu tình trong thế gian nên hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và phát nguyện: “Ta vì cứu giúp thế gian, vì thế gian mà làm nhà cửa, vì thế gian làm chỗ nương tựa, chỉ cho thế gian con đường cứu cánh, vì thế gian làm hòn đảo, vì thế gian làm ánh sáng, vì thế gian làm người dẫn đường, vì thế gian làm chỗ đi đến, phát tâm siêng năng tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.

- Thế nào là đại Bồ Tát phát nguyện: Ta vì cứu giúp các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát thấy các thế gian trôi lăn trong sanh tử, chịu vô lượng khổ, không thể ra khỏi. Để chấm dứt khổ này nên Bồ Tát phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Bồ đề. Đó là đại Bồ Tát phát nguyện: Ta vì cứu giúp các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

- Thế nào là đại Bồ Tát vì thế gian làm nhà cửa nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát muốn vì thế gian nói tất cả pháp đều không hòa hợp nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Bồ đề. Đó là đại Bồ Tát vì thế gian làm nhà cửa nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:     

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tất cả pháp đều không hòa hợp?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Sắc không hòa hợp, tức sắc không lệ thuộc vào nhau; nếu sắc không lệ thuộc vào nhau, tức sắc không sanh diệt; nếu sắc không sanh diệt, tức sắc không hòa hợp. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Các đại Bồ Tát muốn vì thế gian nói tất cả pháp đều có tướng không hòa hợp, nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

- Thế nào là đại Bồ Tát làm chỗ quay về để nương tựa cho thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát vì muốn cứu giúp chúng sanh chóng được giải thoát các khổ bức bách thế gian như: Sanh, già, bệnh, tử, buồn, than, lo, âu v.v… để vào cảnh giới Vô dư y Niết bàn, phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó là đại Bồ Tát vì làm chỗ quay về nương tựa nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

- Thế nào là đại Bồ Tát vì chỉ cho thế gian con đường cứu cánh nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì hữu tình mà thuyết pháp như vầy: Sắc bờ kia tức chẳng phải sắc; thọ, tưởng, hành, thức bờ kia tức chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng, cho đến Nhất thiết trí bờ kia tức chẳng phải Nhất thiết trí: Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí bờ kia tức chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Thiện Hiện nên biết! Tất cả pháp cũng như vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Nếu tất cả pháp đều như tướng sắc, thọ, tưởng v.v… bờ kia ấy, vì sao đại Bồ Tát đối tất cả pháp cần phải hiện đẳng giác để làm gì? Vì sao? Vì chẳng phải trong sắc bờ kia có phân biệt rằng đây là sắc, đây là thọ tưởng hành thức, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Chẳng phải trong thọ tưởng hành thức nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí bờ kia có phân biệt như vầy rằng đây là sắc, đây là thọ tưởng hành thức nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như vậy, như vậy! Chẳng phải trong sắc bờ kia có phân biệt rằng đây là sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Như vậy, cho đến chẳng phải trong Nhất thiết tướng trí bờ kia có phân biệt rằng đây là sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí. Vì tất cả pháp bản tánh không vậy.

Thiện Hiện phải biết: Các đại Bồ Tát có thể làm việc khó làm. Nghĩa là mặc dù quán tướng tất cả pháp đều vắng lặng, thẳm sâu mầu nhiệm mà tâm chẳng chìm đắm, khởi nghĩ rằng: Ta đối pháp đây hiện đẳng giác rồi chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình tuyên nói khai chỉ pháp vắng lặng sâu mầu ấy. Đấy là đại Bồ Tát muốn chỉ đường cứu cánh cho thế gian nên phát tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

- Thế nào là đại Bồ Tát làm hòn đảo cho thế gian nên hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thiện Hiện! Thí như giữa biển, sông, hồ lớn hoặc nhỏ, có khoảng đất cao nổi lên có thể ở được, nước dứt chung quanh gọi là hòn đảo.

Như vậy, Thiện Hiện! Sắc cho đến thức dứt ngằn trước ngằn sau nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí dứt ngằn trước sau. Do vì dứt ngằn trước ngằn sau nên dứt tất cả pháp. Tất cả pháp đây dứt ngằn trước sau tức là như thật vắng lặng nhiệm mầu, nghĩa là Niết bàn không, vô sở đắc, đạo đoạn, hết ái, lìa nhiễm, dứt diệt rốt ráo. Thiện Hiện! Đại Bồ Tát cầu chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề muốn vì hữu tình tuyên nói khai chỉ các pháp dứt ngằn mé trước sau như thế, là như thật sâu thẳm vắng lặng nhiệm mầu. Đấy là đại Bồ Tát làm hòn đảo cho thế gian nên phát tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

- Thế nào là đại Bồ Tát làm ánh sáng cho thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát vì đập vỡ vỏ trứng vô minh che phủ hữu tình trong bóng tối dày đặc, vì chữa bệnh mù mắt cho hữu tình không thấy, làm cho mắt sáng, vì giúp cho tất cả hữu tình ngu tối mà làm đèn sáng trí tuệ nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Bồ đề. Đó là đại Bồ Tát làm ánh sáng cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

- Thế nào là đại Bồ Tát làm người dẫn đường cho thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát muốn vì thế gian giảng nói, chỉ bày bản tánh các sắc vốn không sanh, không diệt; muốn vì thế gian giảng nói, chỉ bày bản tánh thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt; muốn vì thế gian giảng nói, chỉ bày bản tánh các pháp phàm phu không sanh, không diệt; muốn vì thế gian giảng nói, chỉ bày bản tánh pháp Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Phật không sanh, không diệt; muốn vì thế gian giảng nói, chỉ bày bản tánh tất cả các pháp không sanh, không diệt nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Bồ đề. Đó là đại Bồ Tát làm người dẫn đường cho các thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

- Thế nào là đại Bồ Tát làm chỗ đi đến cho thế gian nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát muốn vì thế gian giảng nói chỉ bày sắc lấy hư không làm chỗ đi đến; thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy hư không làm chỗ đi đến; tất cả pháp đều lấy hư không làm chỗ đi đến. Bồ Tát muốn vì thế gian giảng nói chỉ bày sắc không có chỗ đi đến, bằng với hư không. Thọ, tưởng, hành, thức không có chỗ đi đến, bằng với hư không. Tất cả pháp đều không có chỗ đi đến, bằng với hư không…

Như hư không bao la không đến, không đi, không làm, không trụ, không chỗ an lập, không sanh, không diệt, các pháp cũng vậy, đều như hư không. Vì không phân biệt nên không có chỗ phân biệt. Vì sao? Vì sắc Không, cho nên không đến, không đi. Thọ, tưởng, hành, thức Không, cho nên đều không đến, không đi.

Vì sao? Vì tất cả pháp đều lấy không, vô tướng, vô nguyện làm chỗ đến đi, pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.

Tất cả pháp đều lấy không tạo, không tác làm chỗ đi đến; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.

Tất cả pháp đều lấy không sanh, không khởi làm chỗ đến đi; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.

Tất cả pháp đều lấy vô tánh làm chỗ đến đi; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.

Tất cả pháp đều lấy như mộng làm chỗ đến đi; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.

Tất cả pháp đều lấy vô ngã làm chỗ đến đi; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.

Tất cả pháp đều lấy vô biên làm chỗ đến đi; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.

Tất cả pháp đều lấy Niết bàn vắng lặng, không thủ, không xả, không đến, không đi, tuyệt đối tịch diệt làm chỗ đến đi; pháp đó đối với chỗ hướng đến không thể vượt hơn.

Các đại Bồ Tát muốn vì thế gian nói pháp như thế nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đây là đại Bồ Tát vì các thế gian làm chỗ đến đi nên phát tâm chuyên cần tinh tấn hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

(Ai là người có thể tin hiểu Bát Nhã thậm thâm?)

 

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ai có thể đối với Bát Nhã sanh lòng tin hiểu?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào tu Bồ Tát hạnh lâu, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, ở nơi chư Phật phát nguyện rộng lớn, đã trồng căn lành đều được thuần thục, được vô lượng bạn lành bảo vệ, thương tưởng, những đại Bồ Tát này có thể sanh lòng tin hiểu Bát Nhã sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đối với Bát Nhã sâu xa này có thể sanh lòng tin hiểu thì đại Bồ Tát đó lấy gì làm tự tánh?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát đó lấy điều phục viễn ly làm tự tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát đó sẽ đạt đến chỗ nào?

Phật đáp:

- Đại Bồ Tát đó sẽ đạt đến Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát đạt đến Nhất thiết trí trí thì có thể biết chỗ đạt đến và có thể giảng nói, cũng giúp cho hữu tình làm chỗ quay về.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Nếu đại Bồ Tát đạt đến Nhất thiết trí trí thì có thể biết chỗ đạt đến và có thể giảng nói, cũng giúp cho hữu tình làm chỗ quay về.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát này có thể làm việc khó làm, nghĩa là đội mũ, mặc áo giáp kiên cố và nghĩ: Ta sẽ độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, làm cho nhập Niết bàn, nhưng các hữu tình đều không thể chứng đắc.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát đã đội mũ, mặc áo giáp kiên cố không thuộc sắc, không vì sắc; không thuộc thọ, tưởng, hành, thức, không vì thọ, tưởng, hành, thức. Không thuộc Thanh văn, Độc giác địa, không vì Thanh văn, Độc giác địa. Không thuộc Bồ Tát địa, không vì Bồ Tát địa. Không thuộc Phật địa, không vì Phật địa. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không chỗ lệ thuộc, đều không chỗ vì. Các đại Bồ Tát thực hành sâu xa Bát nhã Ba la mật đều mặc áo giáp, đội mũ kiên cố như vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát mặc áo giáp, đội mũ kiên cố mà thực hành Bát Nhã sâu xa tức là đối với ba chỗ không bị vướng mắc, ba chỗ ấy là những gì? Một là Thanh văn địa; hai là Độc giác địa; ba là Như Lai địa.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ông quán nghĩa nào mà nói như vậy?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã không có trụ, đắc, không kẻ tu tập, không có pháp để tu, không có thời tu, không chốn tu, cũng không do đây mà được tu tập. Vì sao? Vì chẳng phải trong Bát nhã Ba la mật nghĩa lý sâu xa mà có ít phần pháp chân thật có thể được gọi là có khả năng tu tập…

Bạch Thế Tôn! Nếu tu (như) hư không là tu Bát Nhã. Nếu tu tất cả pháp là tu Bát nhã Ba la mật. Nếu tu không đắm trước là tu Bát Nhã. Nếu tu không sở hữu là tu Bát Nhã. Nếu tu không nhiếp thọ là tu Bát Nhã. Nếu tu trừ khiển là tu Bát nhã Ba la mật.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Này Thiện Hiện! Nên nương vào Bát Nhã sâu xa tối thắng này hành, trụ, quán sát đại Bồ Tát Bất thối chuyển. Đại Bồ Tát nào tuy thực hành Bát Nhã sâu xa này nhưng đối với Bát Nhã sâu xa như vậy không có chấp trước. Nên biết, đó là đại Bồ Tát Bất thối chuyển.

Này Thiện Hiện! Có các đại Bồ Tát Bất thối chuyển không chấp lời người, không lấy lời dạy của người khác làm chân yếu, không chỉ tin người khác để hành động, nghe thuyết Bát Nhã này tâm người ấy không khiếp, không sợ, không hoảng, không chìm đắm, không nghi hối, cũng không mê muội. Đối với Bát Nhã vui mừng muốn nghe, hết lòng tin thọ, biên chép, giữ gìn, đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, giảng nói cho mọi người không bao giờ lười mỏi. Nên biết, đại Bồ Tát Bất thối chuyển này đời trước đã nghe rất nhiều nghĩa lý Bát Nhã. Vì sao? Vì đại Bồ Tát Bất thối chuyển này nghe thuyết Bát Nhã sâu xa, trong tâm không khiếp, không sợ, không hoảng, giảng nói cho mọi người không bao giờ lười mỏi.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát nghe nói Bát nhã Ba la mật sâu xa này, trong tâm không kinh khiếp, không sợ hãi, cũng không khủng hoảng, nói rộng cho đến giảng nói cho mọi người không bao giờ lười mỏi, thì đại Bồ Tát ấy làm sao tu hành Bát Nhã sâu xa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát đó tùy thuận liên tục, hướng đến thâm nhập Nhất thiết trí trí. Nên làm như vậy để thực hành Bát nhã Ba la mật sâu xa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát đó làm thế nào để tùy thuận liên tục, hướng đến thâm nhập Nhất thiết trí trí, thực hành Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tùy thuận liên tục, hướng đến thâm nhập hư không mà thực hành Bát Nhã sâu xa, thì đó là đại Bồ Tát tùy thuận liên tục, hướng đến thâm nhập Nhất thiết trí trí, thực hành Bát Nhã sâu xa. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí vô lượng, vô biên. Nếu vô lượng, vô biên tức chẳng phải sắc; chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Không đắc, không hiện quán, không chứng, không đạo quả, không trí, không thức, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không bắt đầu, không chấm dứt, không tu, không tạo tác, không từ đâu đến, cũng chẳng về đâu, không phương, không cõi, cũng không chỗ trụ, mới có thể là vô lượng, vô biên.

Thiện Hiện nên biết! Vì hư không vô lượng, vô biên nên Nhất thiết trí trí cũng vô lượng, vô biên. Nhất thiết trí trí vô lượng, vô biên nên không thể chứng đắc. Chẳng phải sắc có thể chứng; cũng chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức có thể chứng. Chẳng phải bố thí Ba la mật có thể chứng; cũng chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật có thể chứng. Vì sao? Vì sắc tức Nhất thiết trí trí; thọ, tưởng, hành, thức tức Nhất thiết trí trí. Bố thí Ba la mật tức Nhất thiết trí trí; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật tức Nhất thiết trí trí.

Khi ấy, trời Đế Thích dẫn đầu các chúng Thiên tử cõi Dục và Đại Phạm Thiên Vương dẫn đầu các chúng Thiên tử cõi Sắc, cùng đi đến chỗ Phật đảnh lễ dưới chân Ngài, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi đứng sang một bên, chấp tay cung kính đồng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật này vô cùng sâu xa, khó thấy, khó lường.

Phật dạy các Thiên tử:

- Đúng vậy! Đúng như lời các ngươi đã nói. Thiên tử nên biết! Ta quán sát nghĩa này khi mới chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Ta ngồi lặng yên suy nghĩ, không muốn nói pháp, trong tâm nghĩ như thế này: Ta đã chứng pháp sâu xa vi diệu, chẳng phải thế gian có thể chấp nhận và tin tưởng được ngay.

Thiên tử nên biết! Pháp Ta đã chứng tức là Bát nhã Ba la mật. Pháp này rất sâu xa mầu nhiệm, không năng chứng và không sở chứng, không chỗ chứng, không thời chứng.

Thiên tử nên biết! Vì hư không sâu xa nên pháp này sâu xa. Vì ngã sâu xa nên pháp này sâu xa. Tất cả pháp không đến, không đi nên pháp này sâu xa. Tất cả pháp vô lượng, vô biên nên pháp này sâu xa. Tất cả pháp không sanh, không diệt nên pháp này sâu xa. Tất cả pháp không nhiễm, không tịnh nên pháp này sâu xa.

Khi ấy, các Thiên tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ diệu thay! Bạch Thiện Thệ! Thật hi hữu thay! Pháp Phật đã dạy rất sâu xa vi diệu, tất cả thế gian khó tin hiểu. Vì sao? Vì pháp Phật đã dạy không bị thu phục, không bị lìa bỏ. Hữu tình phần nhiều thường hay nắm bắt hoặc buông bỏ, thế nên thế gian đối với lời Phật dạy không có khả năng tin hiểu được.

Phật dạy các Thiên tử:

- Thiên tử nên biết! Đúng vậy! Đúng như lời các ngươi nói!

 

Thích nghĩa:

(1). Bạn lành chơn tịnh tức thiện tri thức: Danh từ này không phải chỉ dành cho Bồ Tát hay Phật mà bạn lành tức chỉ cho người chính trực, có đức hạnh, có năng lực dẫn dắt người khác hướng về chân thiện mỹ thì được gọi là Thiện tri thức. Phẩm Thường Đề trong Kinh MHBNBLMĐ, quyển thứ 27, thì cho rằng người có khả năng nói các pháp không, vô tướng, vô tác, vô sinh, vô diệt và Nhất thiết chủng trí, khiến người nghe vui vẻ tin ưa, cũng được gọi là Thiện tri thức. Phẩm Nhập pháp giới trong Kinh Hoa nghiêm ghi rằng trong quá trình cầu đạo, Thiện tài đồng tử đã tham vấn 55 vị Thiện tri thức (thông thường nói chỉ có 53 vị Thiện tri thức) tức từ chư Phật, Bồ Tát đến người, trời... bất luận xuất hiện dưới hình thức nào, hễ có năng lực dắt dẫn chúng sinh đi theo con đường bỏ ác, tu thiện để bước vào Phật đạo, thì đều có thể được gọi là Thiện tri thức. Còn Thích Thị Yếu lãm quyển thượng thì trích dẫn luận Du Già Sư địa nêu lên 10 thứ công đức của Thiện tri thức là: Điều phục, tịch tĩnh, trừ hoặc, tăng đức, dũng mãnh, Kinh phú, giác chân, thiện thuyết, bi thâm và ly thoái. Lại theo Luật Tứ phần quyển 41 thì Thiện thân hữu phải có đủ 7 điều kiện là: Cho được cái khó cho, làm được việc khó làm, nhẫn được điều khó nhẫn, đem việc kín bảo cho nhau biết, khuyên nhau không che giấu điều lỗi, gặp khổ nạn không bỏ nhau và nghèo hèn không khinh nhau, gọi là Thiện hữu thất sự. Trong Kinh luận có nêu các loại Thiện tri thức khác nhau, cứ theo Ma ha chỉ quán quyển 4 hạ của Ngài Trí khải thì có 3 loại Thiện tri thức dưới đây: 1- Ngoại hộ: Giúp đỡ ở bên ngoài để bạn được an ổn tu đạo. 2- Đồng hành: Cùng nhau hành động, khích lệ lẫn nhau. 3- Giáo thụ: Nói pháp khéo léo. Theo Câu Xá luận tụng sớ quyển 29 của Ngài Viên Huy thì người bạn cho pháp là Thượng thân hữu, người cho của và pháp là Trung thân hữu, còn người chỉ cho của không thôi thì là Hạ thân hữu; trên đây gọi là Tam hữu. Hoa nghiêm Kinh thám huyền ký quyển 18 cũng nêu ra 3 loại Thiện tri thức là Nhận, Pháp và Nhân pháp hợp biện. Cứ theo phẩm Ly thế gian trong Kinh Hoa nghiêm quyển 36 (bản dịch cũ) thì có 10 loại Thiện tri thức đó là: 1- Thiện tri thức thường giúp đỡ bạn an trụ nơi tâm Bồ đề. 2- Thiện tri thức có năng lực khiến bạn tu tập các căn lành. 3- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn tu các Ba la mật một cách rốt ráo. 4- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn phân biệt giảng nói tất cả pháp. 5- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn an trụ và thành thục tất cả chúng sinh. 6- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn có đủ biện tài giải đáp được các nghi vấn. 7- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn không bám níu tất cả sinh tử. 8- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn tu hạnh Bồ Tát trong tất cả kiếp mà tâm không chán mỏi. 9- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn an trụ nơi hạnh Phổ hiền. 10- Thiện tri thức có năng lực giúp bạn tiến sâu vào tất cả trí của Phật. (Phỏng theo tự điển Phật Quang)

Cũng nên nói thêm rằng Kinh “Hoa Nghiêm” có nói đến 55 thiện tri thức, trong đó kể cả những đứa trẻ đang nô đùa ngoài sân hay các kỹ nữ trong hý viện hoặc những tên buôn gian bán lận tục tằn ở đầu đường xó chợ... mà nói lên được những lời khuyên mang lại hữu ích cho vấn đề cải thiện tâm linh thì cũng được xem là thiện tri thức.

Riêng phẩm nầy của Tiểu Bản Bát Nhã không định nghĩa Thiện tri thức mà chỉ nêu ra một số điều kiện cho những ai muốn trở thành Thiện tri thức để cứu rỗi chúng sanh.

 

Lược giải:

 

Kinh Đại Bát Nhã, phẩm “Bạn Lành Chân Thật”, quyển 314, Hội thứ I, ĐBN. Nói rằng: “Tất cả những ai tuy biết tất cả pháp như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như sự biến hóa, như ảo thành, tự tánh đều không, nhưng vì nghĩa lợi cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao; vì khiến cho thế gian được lợi ích mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao; vì khiến thế gian được an lạc, vì muốn cứu vớt thế gian, vì làm nơi nương tựa cho thế gian, vì làm nơi cư trú cho thế gian, vì làm con đường rốt ráo cho thế gian, vì làm cù lao cho thế gian, vì làm ánh sáng cho thế gian, vì làm ngọn đuốc cho thế gian, vì làm đạo sư cho thế gian, vì làm tướng soái cho thế gian, vì làm chỗ hướng đến cho thế gian mà phát tâm hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao”.

Vì sao khiến thế gian được nghĩa lợi mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Vì muốn giải thoát các nỗi thống khổ của tất cả hữu tình mà tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Bồ đề.

Vì sao khiến cho thế gian được lợi ích mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Vì muốn cứu vớt hữu tình ra khỏi sự sợ hãi của năm thú, đặt họ ở bờ Niết bàn vô úy mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Vì sao muốn thế gian được an lạc, muốn làm chỗ nương tựa cho thế gian mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Vì muốn cứu vớt hữu tình giải thoát sanh, lão, bệnh tử và đưa họ đến bờ Niết bàn an ổn mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Vì sao muốn cứu vớt thế gian mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Vì muốn cứu vớt các khổ sanh tử của hữu tình mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; khi chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mới có khả năng nói đúng như thật pháp đoạn khổ; hữu tình nghe rồi, nương vào giáo pháp ba thừa mà lần lượt tu hành để được giải thoát.

Vì sao muốn tạo con đường rốt ráo cho thế gian? Vì muốn hữu tình nói pháp thế này: Sắc rốt ráo chính là sắc, sắc rốt ráo tức chẳng phải sắc. Một khi có xác định hay phủ định có hay không có, phải hay không phải là có phân biệt. Và phân biệt lúc nào cũng đưa đến chấp trước. Tâm không còn tự tại nữa. Nên biết tất cả pháp đều như tánh. Đó là tạo con đường rốt ráo cho thế gian.

Tại sao muốn tạo cù lao cho thế gian mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Thí như ở trong biển cả, sông ngòi lớn nhỏ, có chỗ nhô cao lên khỏi mặt nước, có thể ở được thì gọi đó là cù lao. Cũng vậy, khoảng trước, sau của sắc đều dứt; khoảng trước, sau của thọ, tưởng, hành, thức đều dứt; khoảng trước sau của tất cả pháp Phật đều dứt. Do khoảng trước, khoảng sau nầy đều dứt nên tất cả pháp đều dứt. Nghĩa là không, vô sở đắc, dứt đạo, hết ái, lìa nhiễm, vĩnh diệt, Niết bàn. Vì muốn hữu tình tuyên nói khai chỉ pháp tịch diệt vi diệu như thế. Đó là vì cùng thế gian làm cù lao nên phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Tại sao muốn làm ánh sáng cho thế gian mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Vì phá tan bóng tối vô minh, đập vỡ vỏ trứng đen tối, vì trị liệu mắt nhặm vô tri của hữu tình khiến cho trong sáng mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Tại sao muốn làm ngọn đuốc cho thế gian mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Vì hữu tình tuyên thuyết sáu phép Ba la mật và Kinh điển tương ưng t nhiếp pháp, nghĩa thú chơn thật để phương tiện giáo hóa dẫn dắt, khuyên họ tu học mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Tại sao muốn làm đạo sư cho thế gian mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Vì muốn hữu tình đang lạc vào tà đạo lìa hạnh bốn thứ(1) thuyết nhất đạo(2) khiến họ quy chánh; vì muốn kẻ tạp nhiễm được thanh tịnh; vì muốn kẻ lo buồn được vui vẻ; vì muốn người khổ não được an vui; vì muốn hữu tình phi lý chứng pháp như lý; vì muốn hữu tình lưu chuyển được nhập Niết bàn mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Tại sao muốn làm tướng soái cho thế gian mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Vì hữu tình tuyên thuyết khai thị sắc vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh; thọ, tưởng, hành, thức vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh; muốn vì hữu tình tuyên thuyết khai thị tất cả pháp Phật vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh.

Tại sao muốn làm nơi hướng đến cho thế gian mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Vì hữu tình tuyên thuyết khai thị sắc lấy hư không làm chỗ hướng đến, thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến; muốn vì hữu tình tuyên thuyết khai thị tất cả pháp Phật lấy hư không làm chỗ hướng đến.

Vì tất cả pháp đều lấy không làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, cũng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong tánh không, chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được. Tất cả pháp đều lấy vô tướng làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, cũng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong tánh Không, chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được. Tất cả pháp đều lấy vô nguyện làm chỗ hướng đến; đối với chỗ hướng đến ấy, cũng chẳng thể siêu việt. Vì sao? Vì trong tánh Không, chỗ hướng đến, chỗ chẳng hướng đến đều chẳng thể nắm bắt được.

Đối với Bát Nhã chẳng có chỗ đi, chẳng có chỗ đến, chẳng có chỗ vượt... Tất cả đều không, vô sỡ hữu, bất khả đắc.

“Vì vậy, trời Đế Thích dẫn đầu các chúng Thiên tử cõi Dục và Đại Phạm Thiên Vương dẫn đầu các chúng Thiên tử cõi Sắc, cùng đi đến chỗ Phật đảnh lễ dưới chân Ngài, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi đứng sang một bên, chắp tay cung kính đồng bạch Phật:

- “Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật này vô cùng sâu xa, khó thấy, khó lường.

Phật dạy các Thiên tử:

- Đúng vậy! Đúng như lời các ngươi đã nói. Thiên tử nên biết! Ta quán sát nghĩa này khi mới chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Ta ngồi lặng yên suy nghĩ, không muốn nói pháp, trong tâm nghĩ như thế này: Ta đã chứng pháp sâu xa vi diệu, chẳng phải thế gian có thể chấp nhận và tin tưởng được ngay.

Thiên tử nên biết! Pháp Ta đã chứng tức là Bát nhã Ba la mật. Pháp này rất sâu xa mầu nhiệm, không năng chứng và không sở chứng, không chỗ chứng, không thời chứng”.

Chúng tôi chỉ lược tóm không có gì gọi là chiết giải, kinh đã giải thích rõ ràng rồi, lặp lại chỉ là trùng tụng thêm thôi!

Thích nghĩa cho phần lược giải này:

 (1). Lìa hạnh bốn thứ: Tức bốn thứ chướng đạo gồm: Duyên tướng, Nhân tướng, Sinh tướng, và Hoại tướng.

(2). Nhất đạo: Còn gọi là Nhất thừa. Con đường duy nhất dẫn tới quả Phật./.

 

---o0o---

 

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2587)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5760)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 112995)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5924)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5959)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6535)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12288)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8468)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14683)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25092)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567