Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Phẩm "Tán Thán Công Đức"

05/10/202013:27(Xem: 7057)
12. Phẩm "Tán Thán Công Đức"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-451

 

PHẨM "TÁN THÁN CÔNG ĐỨC"

Phần sau quyển 507, tập 21, Hội thứ III, ĐBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

Tóm lược:

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v… đối với Kinh điển Bát Nhã thẳm sâu mà chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, suy nghĩ đúng lý, biên chép, giảng giải tuyên thuyết, lưu truyền rộng rãi, thì các thiện nam, thiện nữ v.v… này các căn không bệnh, thân thể đầy đủ, không bị già yếu, cũng không bị chết oan, thường được vô lượng trăm ngàn thiên thần cung kính hộ trì các thiện nam, thiện nữ v.v… này. Đối với những ngày mùng tám, mười bốn, mười lăm trong nửa tháng có trăng, và nửa tháng không trăng mà đọc tụng, tuyên thuyết Bát Nhã thẳm sâu, thì khi đó, trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Sắc cứu cánh đều đến vân tập ở chỗ Pháp sư này để lắng nghe, thọ trì pháp nghĩa Bát nhã Ba la mật.

Do nhân duyên này, các thiện nam, thiện nữ v.v… này liền được vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì công đức hi hữu.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu là đại bảo tạng, nên có vô lượng, vô số, vô biên hữu tình (tu học Bát Nhã mà) giải thoát khỏi địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ và các khổ nghèo nàn bệnh hoạn trong cõi trời, người. Cũng có thể đem sự phú quí an lạc cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đại tộc Sát đế lợi cho đến đại tộc Cư sĩ. Cũng đem sự phú quí an lạc cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Cũng đem sự tự tại an lạc cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, Vô thượng Bồ đề. Vì sao? Vì trong đại bảo tạng của Bát Nhã thẳm sâu, thuyết rộng, khai thị mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, như vậy cho đến Nhất thiết tướng trí. Vô lượng, vô số, vô biên hữu tình tu học trong đó, nên được sanh vào các cõi thượng diêu như trên, nghĩa là được sanh vào đại tộc Sát đế cho đến chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do nhân duyên này nên Bát Nhã thẳm sâu được gọi là đại bảo tạng. Công đức trân bảo ở thế gian và xuất thế gian đều y vào đây mà xuất hiện.

Thiện Hiện nên biết! Trong đại bảo tạng Bát Nhã thẳm sâu không có một chút pháp gì thuyết có sanh, có diệt, có nhiễm, có tịnh, có lấy, có bỏ. Vì sao? Vì trong đây không có pháp có thể sanh, có thể diệt, có thể nhiễm, có thể tịnh, có thể lấy, có thể bỏ.

Hơn nữa, trong đại bảo tạng Bát Nhã thẳm sâu không có pháp là thiện, là chẳng thiện, là hữu lậu, là vô lậu, là hữu tội, là vô tội, là tạp nhiễm, là thanh tịnh, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi. Do nhân duyên này nên Bát Nhã thẳm sâu gọi là đại pháp bảo tạng vô sở đắc.

Trong đại bảo tạng Bát Nhã thẳm sâu không có một chút pháp gì thuyết là năng nhiễm ô, năng thanh tịnh. Vì sao? Vì trong đây không có pháp nào năng nhiễm ô, thanh tịnh. Do nhân duyên này nên Bát Nhã thẳm sâu gọi là đại pháp bảo tạng vô nhiễm tịnh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu khi đại Bồ Tát nào hành Bát Nhã thẳm sâu không tưởng như vậy, phân biệt như vậy, có đắc như vậy, hý luận như vậy, thì có thể thân cận, phụng sự chư Phật. Du hành từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, tu các Bồ Tát hạnh, mau chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu đối với tất cả pháp không phải, không trái, không dẫn, không khiến, không lấy, không bỏ, không sanh, không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm. Bát Nhã thẳm sâu chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại, không vượt Dục giới, không trụ Dục giới, không vượt Sắc giới, không trụ Sắc giới, không vượt Vô sắc giới, không trụ Vô sắc giới. Đối với bố thí Ba la mật không cho, không bỏ, cho đến đối với Nhất thiết tướng trí không cho, không bỏ. Đối với quả Dự lưu không cho, không bỏ, cho đến đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không cho, không bỏ. Không cho các Thánh pháp, không bỏ pháp dị sanh; không cho các Phật pháp, không bỏ pháp Nhị thừa; không cho cảnh giới vô vi, không bỏ cảnh giới hữu vi. Vì sao? Vì Như Lai xuất hiện ở đời hoặc không xuất hiện ở đời, các pháp vẫn như vậy thường không biến đổi, an trụ nơi pháp giới. Tất cả Như Lai hiện giác, hiện quán. Đã tự hiện giác, tự hiện quán rồi, thì vì các hữu tình tuyên thuyết, khai thị, phân biệt rõ ràng, làm cho tất cả cùng giác ngộ, xa lìa các vọng tưởng phân biệt điên đảo.

Lúc bấy giờ, vô lượng trăm ngàn Thiên tử ở trên hư không đều vui mừng hớn hở, cầm hoa sen xanh, hoa sen trắng, hoa sen đỏ, hoa sen vàng, hương thơm nhiệm mầu và các hương bột rải lên đức Phật, ai ai cũng hân hoan giống nhau, đồng thanh bạch Phật:

- Hiện nay, chúng con ở châu Thiệm bộ, thấy Phật chuyển pháp luân lần thứ hai. Trong pháp hội ấy có vô lượng trăm ngàn Thiên tử, nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đều đồng chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn.

Khi ấy, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Pháp luân như vậy, chẳng phải chuyển lần thứ nhất, cũng chẳng phải chuyển lần thứ hai. Vì sao? Vì Bát Nhã thẳm sâu đối với tất cả pháp, không vì lưu chuyển, không vì hoàn diệt mà chỉ vì pháp vô tánh tự tánh Không nên xuất hiện ở thế gian.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sao lại vì pháp vô tánh tự tánh Không mà Bát Nhã thẳm sâu đối với tất cả pháp không vì lưu chuyển, không vì hoàn diệt nên xuất hiện ở thế gian?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Bát Nhã thẳm sâu cho đến bố thí Ba la mật, là tự tánh Không của Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, là tự tánh Không của Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Quả Dự lưu, tự tánh Không của quả Dự lưu... cho đến vì quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, là tự tánh Không của quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện phải biết: Vì vô tánh tự tánh các pháp như thế đều không, nên Bát Nhã thẳm sâu đối tất cả pháp chẳng vì lưu chuyển, chẳng vì hoàn diệt mà xuất hiện thế gian.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bát Nhã thẳm sâu là đại Ba la mật, vì thấu biết tất cả pháp tự tánh không, nên mặc dù thấu biết các pháp tự tánh đều không mà các đại Bồ Tát vẫn nương Bát nhã Ba la mật đây chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển xe diệu pháp độ chúng hữu tình. Tuy chứng Bồ đề mà không sở chứng, vì pháp chứng chẳng chứng bất khả đắc vậy. Mặc dù độ hữu tình mà không sở độ, vì pháp thấy chẳng thấy bất khả đắc vậy.

Bạch Thế Tôn! Trong Đại Bát Nhã Ba La Mật đây, việc chuyển pháp luân trọn bất khả đắc, vì tất cả pháp hẳn chẳng sanh vậy, vì năng chuyển sở chuyển đều bất khả đắc. Vì sao? Vì chẳng phải trong pháp không, vô tướng, vô nguyện khá có pháp năng chuyển và năng hoàn, vì tánh pháp chuyển hoàn bất khả đắc vậy.

Bạch Thế Tôn! Đối với Bát Nhã thẳm sâu, nếu tuyên thuyết khai thị, phân biệt rõ ràng như vậy, làm cho người khác ngộ nhập dễ dàng thì đấy gọi là khéo tịnh tuyên Bát nhã Ba la mật. Trong đây hoàn toàn không có người thuyết, người thọ trì, pháp để thuyết và thọ. Đã không người thuyết, người thọ và pháp thuyết, người chứng cũng bất khả đắc; không người chứng nên cũng không có người đắc Niết bàn.

Đối với Bát nhã Ba la mật này, khéo thuyết pháp thì cũng không có phước điền, vì người thí, người nhận và vật thí đều là tánh Không. Phước điền không, nên phước đức cũng không. Biểu tướng, danh ngôn đều bất khả đắc. Vì thế nên gọi là đại Ba la mật.

 

(Đoạn Kinh sau đây tương đương phẩm “Bất Khả Đắc”,

thuộc phần sau quyển 437, Hội thứ II, ĐBN)

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là vô biên Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Như vậy, như thái hư không không ngằn mé vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là bình đẳng Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp tánh bình đẳng vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là viễn ly Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì rốt ráo không vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là khó khuất phục Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp bất khả đắc vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không dấu chân Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không danh thể vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là hư không Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì thở vào thở ra bất khả đắc vậy. 

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là bất khả thuyết Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì trong đây không tầm cũng không tứ.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là vô danh Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì thọ tưởng tư xúc và tác ý v.v… bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là vô hành Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không đến và đi.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là chẳng khả đoạn Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp chẳng thể phục.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là cùng tận Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp rốt ráo tận vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là vô sanh, vô diệt Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không sanh diệt.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là vô tác Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì các tác giả bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là vô tri Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì các tri giả bất khả đắc vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không dời động Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì kẻ tử sanh bất khả đắc vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không điều phục Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp có thể điều phục, tánh bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là như mộng, như tiếng vang, như hình tượng, như huyễn hóa, như ảnh trong gương, như sóng nắng, như thành Tầm hương, như việc biến hóa Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp như mộng đã thấy, nói rộng cho đến như việc biến hóa bất khả đắc vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không nhiễm không tịnh Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì nhân nhiễm tịnh bất khả đắc vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật thẳm sâu là không bôi nhơ Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì pháp chỗ nương kia bất khả đắc vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không hý luận Ba la mật?

- Thiện Hiện! Như vậy, các việc hý luận dứt trừ hẳn vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không khinh chấp Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì diệt trừ tất cả việc khinh chấp vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không động chuyển Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì an trụ pháp giới vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là xa lìa nhiễm trước Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì ngộ tất cả pháp chẳng hư vọng.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không đẳng khởi Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đối tất cả pháp không phân biệt vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là tịch tĩnh Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì vô sở đắc đối với các pháp tướng.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không tham, sân, si Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì dứt trừ tất cả ba độc vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không phiền não Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì lìa sự phân biệt.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là lìa hữu tình Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đạt biết hữu tình vô sở hữu.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không đoạn hoại Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đây năng đẳng khởi tất cả pháp vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không nhị biên Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì xa lìa nhị biên.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không tạp hoại Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả pháp không tạp hoại.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không chấp trước Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không phân biệt Ba la mật? 

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì tất cả sự phân biệt, bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không phân hạn Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì sự phân hạn các pháp bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là như hư không Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đối với tất cả pháp không trở ngại.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là vô thường, khổ, vô ngã Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đối tất cả pháp diệt hoại bức bách không chấp đắm vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là không, vô tướng, vô nguyện Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì các pháp đạt được hoàn toàn vô sở hữu, xa lìa các tướng không thể nguyện.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì pháp chỗ biết Không, bất khả đắc.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì biết thân, thọ, tâm, pháp đều bất khả đắc, rộng nói cho đến vượt các pháp Thanh văn, Độc giác.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là Như Lai Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Có thể như thật thuyết tất cả pháp.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là tự nhiên Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đối tất cả pháp tự tại chuyển vậy.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã thẳm sâu là Chánh đẳng giác Ba la mật?

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Vì đối tất cả pháp năng chánh đẳng giác tất cả tướng vậy.

 

Sơ giải:

 

Chỗ nào Hội nào Kinh cũng tán thán công đức, ai đọc cũng có thể, vì là do công năng oai thần và các diệu dụng không thể nghĩ bàn của các Ba la mật mà ra. Học Bát Nhã phải ghi khắc vào xương tủy các Ba la mật này. Chính nhờ nó mà chư Như Lai hiện đẳng giác. Chúng sanh nhờ nó mà có thể qua bờ kia!

 

---o0o---

 

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2587)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5762)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 112997)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5924)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5960)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6535)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12292)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8470)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14684)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25094)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567