Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Phẩm “Khen Ngợi”

17/11/202007:33(Xem: 6242)
09. Phẩm “Khen Ngợi”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-480

 

IX. PHẨM “KHEN NGỢI”

Phần giữa quyển 545, Hội thứ IV, TBBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

Gợi ý:

Rất tiếc phẩm “Khen Ngợi” in thiếu trên Website Tuvienquangduc.com do HT Thích Trí Nghiêm phiên dịch. Chúng tôi phải lấy hai bản dịch là Thuvienhoasen.org và Quangduc.com ghi vào Đại Bát Nhã Tổng luận của chúng tôi. Hai bản dịch trong Thuvienvienhoasen.org và quangduc.com dịch giống nhau, nên không có gì trở ngại trong việc bổ khuyết sự thiếu sót trên Website Tuvienquangduc.com.

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật này chỉ có danh tự. Danh tự như vậy cũng bất khả đắc, chỉ dựa vào lời nói vay mượn thi thiết mà có. Thế nên Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu, thật bất khả đắc. Hai pháp này triển chuyển tương tợ, đều vô sở hữu, bất khả đắc. Do đâu Phật nói, khi Từ Thị Bồ Tát chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì lấy danh hiệu này? Cũng ở chỗ này tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Từ Thị Bồ Tát sẽ chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, khi ấy chẳng chứng sắc Không; chẳng chứng thọ, tưởng, hành, thức Không. Không chứng sắc trói; không chứng thọ, tưởng, hành, thức trói. Không chứng sắc mở; không chứng thọ, tưởng, hành, thức mở, tức lấy các tướng hành như vậy. Từ Thị Bồ Tát sẽ chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề liền được danh này, cũng ở tại đây thuyết giảng Bát nhã Ba la mật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật rất thanh tịnh?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì sắc thanh tịnh nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì hư không thanh tịnh nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì sắc không nhiễm ô nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm ô nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì hư không không nhiễm ô nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì tất cả pháp có nhiễm, không nhiễm đều bất khả đắc, nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh.

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v... chỉ nghe danh hiệu công đức của Bát Nhã sâu xa này còn được lợi ích rộng lớn, huống gì thọ trì, đọc tụng, tu tập, biên chép, thuyết giảng, truyền bá rộng rãi. Các thiện nam, thiện nữ v.v... này không chết bất ngờ, cũng không bệnh đột ngột và bị các tai họa, thường được vô lượng trăm ngàn thiên thần cung kính vây quanh đi theo hộ trì. Vào ngày mồng tám, ngày mười bốn, ngày rằm của tháng có trăng và tháng không có trăng, nếu các thiện nam, thiện nữ dù bất cứ chỗ nào cũng đọc tụng, thuyết giảng Bát Nhã sâu xa, thì sẽ được vô biên công đức lợi ích, thù thắng.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Các thiện nam, thiện nữ này đọc tụng, thuyết giảng Bát Nhã sâu xa, nên có vô lượng thiên thần thường đến cung kính vây quanh hộ trì. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa là ngọc báu vô thượng của các trời, người, A tu la v.v.... Do nhân duyên đây, nên các thiện nam, thiện nữ này sẽ được vô biên công đức và lợi ích.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi lắng nghe thọ trì, đọc tụng, biên chép, cúng dường, tu học, thuyết giảng v.v... Bát Nhã sâu xa có nhiều tà ma làm cản trở. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa là ngọc báu lớn đối với các oán thù và trộm cướp. Thí như ở thế gian có ngọc quí báu, dù để chỗ nào cũng nhiều oán thù trộm cướp.

Thiện Hiện nên biết! Bát Nhã sâu xa là của báu vô thượng, thường làm cho thế gian lợi ích an vui.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đối với tất cả pháp, Bát Nhã sâu xa không sanh-không diệt, không thành-không hoại, không hướng tới-không quay lui, không kéo-không duỗi, không lấy-không bỏ, không dơ-không sạch, không tăng-không giảm, không gần-không xa. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn vô sở hữu, đều bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết! Vì Bát Nhã sâu xa không có sự chứng đắc đối với tất cả pháp nên không thể ô nhiễm, không bị ô nhiễm. Thiện Hiện nên biết! Vì sắc không nhiễm ô nên Bát Nhã sâu xa cũng không nhiễm ô. Thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm ô, nên Bát Nhã sâu xa cũng không nhiễm ô. Bát Nhã sâu xa không nhiễm ô nên các pháp, sắc v.v... cũng không nhiễm ô. Nếu đối với như vậy mà không có sự phân biệt tức là hành Bát nhã Ba la mật.

Thiện Hiện nên biết! Vì Bát Nhã sâu xa không có sự phân biệt nên đối với tất cả pháp không lấy-không bỏ, không nói-không dạy, không có-không được.

Khi ấy, có vô lượng trăm ngàn Thiên tử ở giữa hư không vui mừng hớn hở, đồng thanh xướng:

- Hôm nay, ở châu Thiệm bộ này, chúng con được thấy Phật chuyển pháp luân vi diệu lần thứ hai.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Xe pháp này chẳng phải chuyển lần thứ nhất, cũng chẳng phải chuyển lần thứ hai. Vì sao? Vì đối với tất cả pháp, Bát Nhã sâu xa chẳng phải chuyển và chẳng phải hoàn mà xuất hiện ở thế gian. Chỉ vì pháp vô tánh tự tánh Không nên xuất hiện ở thế gian. Nếu đại Bồ Tát biết được như vậy, không còn phân biệt là hành Bát nhã Ba la mật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa là Ba la mật rộng lớn, vì hiểu rõ tự tánh của các pháp là Không. Tuy hiểu rõ tự tánh của các pháp đều Không rồi, nhưng các đại Bồ Tát vẫn dựa vào Bát Nhã sâu xa không ràng buộc, không đắm trước vào các pháp để chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình.

Tuy chứng Bồ đề nhưng không thấy chứng, vì chứng hay chẳng chứng pháp đều bất khả đắc. Dù chuyển xe pháp mà không thấy gì để chuyển, vì pháp chuyển pháp hoàn đều bất khả đắc. Mặc dù cứu độ hữu tình mà không thấy có gì được độ, vì pháp thấy hay không đều bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Trong giáo pháp thâm sâu Đại Bát Nhã Ba La Mật này việc chuyển xe pháp hoàn toàn bất khả đắc. Vì sao? Vì trong ấy không có pháp để hiện rõ, không có pháp để chỉ bày, không có pháp để chứng đắc, không có pháp chuyển, không có pháp hoàn. Vì sao? Vì tất cả pháp rốt ráo không sanh, cũng không diệt? Vì không sanh diệt nên không chuyển, không hoàn? (Q.545, TBBN)

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Vì sao? Vì chẳng phải trong pháp không, vô tướng, vô nguyện có pháp chuyển-pháp hoàn, vì tánh của pháp chuyển pháp hoàn bất khả đắc. Nếu thường tuyên thuyết, khai thị như vậy thì gọi là sự thuyết giảng Bát Nhã hoàn toàn thanh tịnh. Trong đây hoàn toàn không có người nói, người nghe, pháp được nói và pháp lãnh thọ. Đã không có người nói, người nghe và người có thể chứng các pháp bất khả đắc. Vì không có người chứng, cũng không có người đắc Niết bàn, cũng không có người thuyết pháp làm phước điền. Vì phước điền không có nên tánh phước điền cũng không có. Sự biểu thị danh ngôn đều bất khả đắc, nên gọi là Ba la mật rộng lớn.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bát Nhã sâu xa chính là Ba la mật vô biên, vì như hư không không bờ bến.

Đây là Ba la mật không gì sánh bằng vì tất cả pháp đều bất khả đắc.

Đây là Ba la mật viễn ly vì rốt ráo Không.

Đây là Ba la mật khó chinh phục, vì tánh tướng của các pháp bất khả đắc.

Đây là Ba la mật không để dấu vết vì không qua không lại, không hình thể.

Đây là Ba la mật vô tánh vì không qua không lại.

Đây là Ba la mật vô hành, vì tất cả pháp không thể chuyển động.

Đây là Ba la mật vô đoạt, vì tất cả pháp không thể giữ lấy.

Đây là Ba la mật vô tận cùng với pháp vô tận tương ưng.

Đây là Ba la mật vô sanh, vì tất cả pháp không thể sanh.

Đây là Ba la mật vô tác, vì các tác giả đều bất khả đắc.

Đây là Ba la mật vô tri, vì không có sự biết đối với tất cả pháp.

Đây là Ba la mật vô kiến, vì không có sự thấy đối với tất cả pháp.

Đây là Ba la mật vô chuyển, vì những kẻ sống chết đều bất khả đắc.

Đây là Ba la mật vô hoại, vì khoảng trước, sau và giữa đều bất khả đắc.

Đây là Ba la mật như huyễn, vì các pháp không sanh, không biểu thị được.

Đây là Ba la mật như mộng, vì tánh các ý thức bình đẳng.

Đây là Ba la mật không tạp nhiễm, vì tham, sân, si không tự tánh.

Đây là Ba la mật vô sở đắc, vì chỗ nương tựa bất khả đắc.

Đây là Ba la mật không hý luận, vì tất cả pháp vượt khỏi sự nghĩ bàn.

Đây là Ba la mật vô tư lự, vì tất cả pháp không dao động.

Đây là Ba la mật không chuyển động, vì trụ vào pháp giới.

Đây là Ba la mật lìa nhiễm, vì tất cả pháp chẳng hư vọng.

Đây là Ba la mật vô đẳng khởi, vì tất cả pháp không có sự phân biệt.

Đây là Ba la mật tịch tĩnh, vì tất cả pháp tướng đều bất khả đắc.

Đây là Ba la mật không lầm lỗi, vì tu các công đức để đến bờ kia.

Đây là Ba la mật không hữu tình, vì chứng thực tế.

Đây là Ba la mật vô đoạn, vì tất cả pháp vô đẳng khởi.

Đây là Ba la mật như thật, vì không phân biệt.

Đây là Ba la mật vô nhị, vì không chấp trước tất cả pháp.

Đây là Ba la mật không tạp hoại, vì tất cả pháp chẳng hòa hợp.

Đây là Ba la mật không chấp thủ, vì vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác.

Đây là Ba la mật không tầm tứ, vì đạt đến tánh bình đẳng của pháp tầm tứ.

Đây là Ba la mật vô lượng, vì vô lượng pháp.

Đây là Ba la mật vô khởi, vì lìa ngã pháp.

Đây là Ba la mật không phân biệt, vì tánh các sự phân biệt bình đẳng.

Đây là Ba la mật bất khả đắc, vì đạt đến tánh chơn thật của tất cả pháp.

Đây là Ba la mật vô trước, vì không chấp trước tất cả pháp.

Đây là Ba la mật không nương tựa, vì không chỗ nương tựa.

Đây là Ba la mật chẳng sanh, vì tất cả pháp đều không sanh.

Đây là Ba la mật vô thường, vì tất cả pháp thường không có tánh.

Đây là Ba la mật khổ, vì làm bức bách tánh bình đẳng.

Đây là Ba la mật vô ngã, vì đối với tất cả pháp không có sự chấp trước.

Đây là Ba la mật không, vì tất cả pháp bất khả đắc.

Đây là Ba la mật vô tướng, vì lìa các tướng của tất cả pháp.

Đây là Ba la mật vô nguyện, vì không sự thành tựu.

Đây là Ba la mật có lực, vì không chịu khuất phục tất cả pháp.

Đây là Ba la mật vô lượng Phật pháp, vì quá số lượng.

Đây là Ba la mật vô bố úy, vì nơi tâm rốt ráo không có sự sợ hãi.

Đây vì Ba la mật chơn như, vì tánh của tất cả pháp này không có biến đổi.

Đây là Ba la mật tự nhiên, vì tất cả pháp không có tự tánh.

Đây là Ba la mật Nhất thiết trí trí, vì biết tất cả pháp không tự tánh.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. (Q.545, TBBN)

 

Lược giải:

 

1. Học Bát Nhã không có nghĩa phải chứng Không

mới trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

 

Phải nói đây là một phẩm rất cô động, ngắn gọn chỉ có khoảng 7 trang sách, nên nêu ra một thắc mắc lớn. Làm sao tư duy để thâm nhập được Bát nhã Ba la mật khi Phật nói Bồ Tát Từ Thị chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề  “khi ấy chẳng chứng sắc Không; chẳng chứng thọ tưởng hành thức không”? Đây là câu hỏi lớn! Không chứng Không mà đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là điều khó hiểu? Kinh không giải thích chỗ này và liền sau đó thuyết về thanh tịnh.

Chúng ta thường hiểu khi nói thấy tất cả pháp là không thì liền thấy các pháp như (chơn như của các pháp). Thấy các pháp như là thấy bình đẳng. Khi tri giác cái bình đẳng này giữa các pháp thì tâm thể trở nên tịch lặng hay nói là được thanh tịnh. Đây là giác ngộ do chứng nhập không quán mà được thanh tịnh nên phát sanh trí tuệ.

Một câu hỏi thưòng thấy trong các phẩm nói về Bồ Tát Di Lặc khi giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác Bồ Tát Di Lặc chứng pháp nào, nói pháp nào? Kinh ĐBN thường trả lời là Bồ Tát Di Lặc chứng pháp thanh tịnh và thuyết pháp thanh tịnh, chứ không nói là Bồ Tát Di Lặc chứng pháp Không.

Để trả lời vấn nạn này chúng ta có thể nói rằng: Phật thuyết Đại Bát Nhã không có nghĩa là thuyết riêng chủ đề duy nhất là Không hay Tánh Không và xem pháp môn này như yếu tố chánh quyết định cho sự thành tựu Giác ngộ, chứng Chánh giác và đạt Nhất thiết trí trí. Chúng ta cũng biết rằng Giác ngộ không phải là yếu lẻ loi do Tánh Không tạo thành, mà giác ngộ là sự phối hợp nhịp nhàng giữa Trí và Bi, giữa phương tiện và cứu cánh của tất cả các pháp mầu Phật đạo.

- Phẩm “Thiên Tử”, quyển 556, Hội thứ V, ĐBN. Phật nói: “Thắng Quân Phạm chí dùng các môn ly tướng như thế thảy đối Nhất thiết trí trí rất sanh tin hiểu, gọi tùy tín hành, đối tất cả pháp đều không lấy đắm. Như vậy, Phạm chí dùng môn ly tướng đối Nhất thiết trí trí được tin hiểu rồi, đối tất cả pháp đều chẳng lấy tướng, cũng chẳng suy nghĩ các pháp vô tướng. Như vậy Phạm chí do sức hiểu sâu, đối tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng chứng, chẳng đắc. Khi Phạm chí kia đối với sự tin hiểu cho đến Niết bàn cũng chẳng lấy đắm, vì lấy chơn pháp tánh làm định lượng vậy”.

Vậy, đừng lấy làm ngạc nhiên khi Phật bảo Bồ Tát Từ Thị khi chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng chứng sắc không, chẳng chứng thọ tưởng hành thức không mà chứng thanh tịnh và thuyết thanh tịnh.

Tuy ở đoạn kinh này nói như vậy, nhưng phần lớn Đại Bát Nhã thường nói là phải giác biết các pháp là như mà như tức là không, như cũng là bình đẳng. Vì giác biết là Không, là như, là bình đẳng nên tâm được thanh tịnh. Do tâm thanh tịnh nên mới phát huệ. Vậy tiến trình có khác nhưng kết quả không khác.

 

2. “Khen Ngợi” Bát nhã Ba la mật.

 

1- Trong các phẩm trước chúng ta đã từng thấy các Thiên chúng, trời, người, A tu la v.v… các cõi trong khắp thế giới mười phương như cát sông Hằng tán tụng việc thọ trì, đọc tụng Bát nhã Ba la mật. Trong phẩm “Khen Ngợi” này, Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ chỉ nghe danh hiệu công đức của Bát Nhã sâu xa này còn được lợi ích rộng lớn, huống gì thọ trì, đọc tụng, tu tập, biên chép, thuyết giảng, truyền bá rộng rãi. Các thiện nam, thiện nữ này không chết bất ngờ, cũng không bệnh đột ngột và bị các tai họa, thường được vô lượng trăm ngàn thiên thần cung kính vây quanh đi theo hộ trì. Vào ngày mồng tám, ngày thứ mười bốn, ngày rằm của tháng có trăng và tháng không có trăng, nếu các thiện nam, thiện nữ v.v... dù bất cứ chỗ nào cũng đọc tụng, thuyết giảng Bát Nhã sâu xa, thì sẽ được vô biên công đức lợi ích, thù thắng”. (Q.545, TBBN)

 

2- Phẩm “Kim Cương Năng Đoạn”, tức Kinh “Kim Cương Bát nhã Ba la mật”, quyển 577, Hội thứ IX, trích từ Đại Bát Nhã, chúng ta sẽ có dịp khảo cứu sau này. Quyển 577 Phật tán tụng công đức trì tụng Bát Nhã tổng cộng đến 14 lần. Quyển 577 chỉ là 1 trong 600 quyển của Đại Bát Nhã mà thôi.

 

3- Nói về những vi diệu Ba la mật: Để thay đổi không khí cũng như để thay lời kết luận cho phẩm này, chúng tôi trích đoạn Kinh sau đây thuộc thuộc Kinh “Phật Mẫu Bát Nhã”, phẩm 9 “Khen Pháp Vượt Trội” do Thí Hộ dịch, tương đương với phẩm “Khen Ngợi” này, thuộc quyển 545, Kinh Tiểu Bản Bát Nhã do Ngài Huyền Trang dịch, để quý vị chiêm nghiệm thế nào là các Ba la mật của Bát Nhã: “Vô biên Ba la mật là Bát nhã Ba la mật. Vô đẳng đẳng Ba la mật; bất khả phá Ba la mật; vô cú Ba la mật; vô tánh Ba la mật; vô ngôn Ba la mật; vô lai Ba la mật; vô khứ Ba la mật; vô tập Ba la mật; vô tận Ba la mật; vô sinh Ba la mật; vô tác Ba la mật; vô tri giả Ba la mật la Bát nhã Ba la mật. Vô phiền não Ba la mật; vô xuất thế Ba la mật; vô nhiễm ô Ba la mật; vô hý luận Ba la mật; vô niệm Ba la mật; vô động Ba la mật là Bát nhã Ba la mật. Ly dục Ba la mật; vô khởi Ba la mật; tịch tĩnh Ba la mật; vô đoạn Ba la mật; nhị biên Ba la mật; vô dị Ba la mật; vô trước Ba la mật; bất phân biệt Ba la mật; vô lượng Ba la mật; như hư không Ba la mật; vô thường Ba la mật; khổ Ba la mật; không Ba la mật; vô ngã Ba la mật; vô tướng Ba la mật; Không tánh Ba la mật v.v… là Bát nhã Ba la mật, vì tánh, tướng của tất cả các pháp không thể có được, không thể biết”.

Nói tóm lại, bất hoại, bất khứ, bất lai, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất thất, bất đáo, bất khởi, bất động, bất niệm, bất phá, bất thủ, bất hý luận, bất phân biệt, vô tác, vô tri, vô dục, vô sân, vô si, vô phiền não, vô đoạn, vô nhị, vô tánh, vô tướng, vô lượng, vô biên, là mộng huyễn, bào ảnh, tiếng vang, quáng nắng v.v..., là bình đẳng, là tịch diệt, là nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ nhất nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thỉ không, tán không, tánh không, chư pháp không, vô sở đắc không, tự tướng không, hữu pháp không, vô pháp không, vô pháp hữu pháp không, là chân như, là pháp giới, là pháp tánh, là bình đẳng, là thật tế, là bất khả tư nghì, là 37 pháp trợ đạo, là tam tam muội, là bát bội xả, là cửu thứ đệ định, là thập lực, tứ vô sở úy, tứ vô ngại giải v.v… là các Ba la mật của Bồ Tát hay nói khác là các pháp có thể đưa chúng sanh sang bờ kia. Có hàng trăm pháp như thế đều thu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật mà khắp thế gian trời người thường tán tụng…Chúng ta không cần phải nhọc nhằn tìm kiếm ở đâu xa. Bất cứ Hội nào trong toàn bộ Đại Bát Nhã, chúng ta cũng có thể tìm thấy các giáo pháp công đức phước hạnh này.

Tại sao các Ba la mật này đều thu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật và được gọi là công đức phước hạnh? Vì tri giác được tất cả các pháp có đặc tánh như trên là đạt được biên tế chung cùng của vạn pháp hay nói khác là đạt thật tướng các pháp nên giác ngộ, đạt Nhất thiết trí trí và chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi đạt đến chỗ đó thì có thể thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, có thể đưa chúng sanh sang bờ bên kia, nên nói là được vô vàn công đức phước hạnh thù thắng. Đó là nội dung của phẩm “Khen Ngợi” Bát nhã Ba la mật.

 

Nhưng muốn nói gì thì nói Bát nhã Ba la mật là vô sở hữu, bất khả đắc. Bát nhã Ba la mật chỉ là danh tự. Đừng quá tưởng tượng bốc cao mà lạc mất tâm đạo.

Kinh bảo: “Danh tự như vậy cũng bất khả đắc, chỉ dựa vào lời nói vay mượn thi thiết mà có. Thế nên Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu, thật bất khả đắc”.

Nếu hiểu câu nói này và vô chấp, vô phân biệt thì khi ấy sẽ thấy Bát nhã Ba la mật hiện tiền./.

 

---o0o---

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2595)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5765)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 113089)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5927)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5973)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6539)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12314)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8480)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14697)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25131)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567