Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

26. Phẩm “Tín Thọ” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

15/08/202009:30(Xem: 7709)
26. Phẩm “Tín Thọ” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

Phẩm Tín Thọ_photo



PHẨM “TÍN THỌ”

Phần giữa quyển 426, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phẩm "Chư Thiên Tử" cuối Q.81 đến đầu Q.82, Hội thứ I)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước




 


 

Tóm lược:

 

(Thiện Hiện vì hữu tình nào vui thuyết pháp nào?)

 

Khi ấy, các Thiên tử lại khởi nghĩ này: Tôn giả Thiện Hiện nay muốn vì những hữu tình nào vui thuyết pháp nào?

Cụ thọ Thiện Hiện biết ý của các Thiên tử, liền bảo rằng :

- Các Thiên tử! Tôi nay muốn vì hữu tình như huyễn, như hóa, như mộng vui thuyết pháp như huyễn, như hóa, như mộng. Vì sao? Các Thiên tử! Như vậy, kẻ nghe đối với sở thuyết không nghe, không hiểu, không sở chứng vậy.

Khi ấy, các Thiên tử liền hỏi lại rằng:

- Người nói, người nghe và pháp thuyết ra đều như huyễn như hóa như mộng ư ?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Như vậy! Như các ngươi đã nói: Hữu tình như huyễn, vì kẻ như huyễn, nói pháp như huyễn. Hữu tình như hóa, nói pháp như hóa. Hữu tình như mộng, nói pháp như mộng.

Các Thiên tử! Chỗ thấy ngã cho đến kiến giả như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy sắc cho đến thức như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy nhãn cho đến ý như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy sắc cho đến pháp như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy nhãn thức cho đến ý thức như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy nhãn xúc cho đến ý xúc như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy nội không cho đến vô tánh tự tánh không như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy bốn niệm trụ nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng như huyễn như hóa như mộng. Như vậy, cho đến chỗ thấy quả Dự lưu cho đến quả A la hán như huyễn như hóa như mộng. Chỗ thấy Độc giác Bồ đề và Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như huyễn như hóa như mộng.

Khi ấy, các Thiên tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Nay Tôn giả chỉ nói ngã thảy sắc cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như huyễn như hóa như mộng, hay cũng nói Niết bàn như huyễn như hóa như mộng?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Các Thiên tử! Chẳng những chỗ nói ngã, sắc cho đến Vô Thượng Bồ đề như huyễn như hóa như mộng, mà cả đến Niết bàn tôi cũng nói như huyễn, như hóa, như mộng. Các Thiên tử! Nếu còn pháp nào cao hơn Niết bàn, tôi cũng nói là như huyễn như hóa như mộng. Vì sao? Vì huyễn hóa mộng cùng tất cả pháp cho đến Niết bàn thảy đều không hai, không hai phần vậy. (Q.426, ĐBN)

Bấy giờ, Xá Lợi Tử, Đại Mục Liên, Chấp Đại Tạng Mãn Từ Tử, Đại Ca Đa Diễn Na, Đại Ca Diếp Ba thảy các Đại Thanh văn và vô lượng trăm ngàn Bồ Tát hỏi cụ thọ Thiện Hiện rằng:

- Đã thuyết Bát nhã Ba la mật thậm thâm, khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu như thế, thì ai có thể tín thọ được?

Khi ấy, A Nan Đà nghe lời hỏi kia, liền bạch các Đại Thanh văn và các Bồ Tát rằng: Các Bồ Tát Bất thối chuyển đối với Bát nhã Ba la mật đã thuyết, tuy khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu đây, có khả năng thâm tín thọ trì được. Lại có vô lượng các A la hán đã thấy Thánh đế, hiểu rõ tận nguồn các pháp sâu xa, sở nguyện đã mãn, đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu đã nói đây cũng có khả năng tín thọ.

Lại có vô lượng Bồ Tát quá khứ đã ở trăm ức chỗ Phật gần gũi cúng dường, phát thệ rộng lớn, trồng nhiều cội đức, đối với Bát Nhã thậm thâm đã thuyết, tuy khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu đây cũng có khả năng tín thọ được.

Lại có vô lượng các thiện nam, thiện nữ quá khứ đã ở vô số chỗ Phật phát thệ rộng lớn, trồng các căn lành, huệ thông, được bạn lành nhiếp thọ, đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm đã thuyết, tuy khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu cũng khả năng tín thọ được. Vì sao? Vì những người như thế chẳng đem không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa mà phân biệt sắc cho đến thức. Cũng chẳng đem sắc cho đến thức mà phân biệt không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa.

Như vậy, chẳng đem không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa mà phân biệt nhãn cho đến ý, sắc cho đến pháp, nhãn thức cho đến ý thức, nhãn xúc cho đến ý xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra thọ, bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật, nội không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; tất cả Tam ma địa môn, tất cả Đà la ni môn; quả Dự lưu cho đến quả A la hán, Độc giác Bồ đề, tất cả hạnh Bồ Tát, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hữu vi giới vô vi giới. Cũng chẳng đem nhãn cho đến vô vi giới mà phân biệt không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa.

Bởi nhân duyên này, những người như thế đối Bát nhã Ba la mật thậm thâm đã thuyết, tuy khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu đây đều có khả năng tín thọ được.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo các Thiên tử rằng:

- Như vậy! Đã nói Bát nhã Ba la mật thậm thâm khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu, chẳng phải chỗ suy tầm, vượt cảnh suy tầm, trong ấy thật không có kẻ năng tín thọ. Vì sao? Các Thiên tử! Vì trong đây không có pháp để hiển thị, đã thật không pháp hiển thị, nên kẻ tín thọ thật chẳng đắc được.

Bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Trong giáo pháp Bát nhã Ba la mật thậm thâm đã nói đây, sao không rộng nói pháp tương ưng với Tam thừa, nghĩa là nói pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Vô thượng thừa? Sao chẳng rộng nói Bồ Tát đạo nhiếp thọ các Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến Thập địa, tức là nói bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật; bốn niệm trụ cho đến 18 pháp Phật bất cộng; tất cả Tam ma địa môn, tất cả Đà la ni môn? Sao chẳng rộng nói việc thù thắng của thần thông nhiếp thọ các Bồ Tát, tức là nói Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật này siêng năng tu hành, nên tùy theo chỗ mà hóa sanh, không mất thần thông tự tại du hý, khéo thông đạt được vô lượng pháp môn; từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn; tùy theo sở nguyện ưa thích các thứ căn lành, đều có khả năng tu hành chóng được viên mãn; ở chỗ chư Phật, lắng nghe Chánh pháp, thọ trì cho đến khi đắc Vô Thượng Bồ đề, thường chẳng quên mất; hằng ở trong thắng định lìa tâm tán loạn, lấy đây làm duyên nên được biện (tài) vô ngại, biện không dứt hết, biện ứng, biện nhanh, biện không sai lầm, biện các điều diễn thuyết đầy đủ nghĩa vị, biện tất cả thế gian rất thắng diệu?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Như vậy! Thật như đã nói, đối với giáo pháp Bát Nhã thậm thâm đây, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói giáo pháp tương ưng Tam thừa. Cho đến rộng nói thắng sự thần thông nhiếp thọ các Bồ Tát. Cho đến khiến được biện tài tất cả thế gian rất thắng diệu. Lấy vô sở đắc làm phương tiện, lấy vô sở đắc làm phương tiện đối với những pháp nào? Đó là đối với ngã cho đến người thấy, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối sắc cho đến thức lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối nhãn cho đến ý lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối nhãn thức cho đến ý thức lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối nhãn xúc cho đến ý xúc lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối nhãn xúc làm duyên sanh ra thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra thọ lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng lấy vô sở đắc làm phương tiện. Như vậy cho đến đối Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Vì nhân duyên gì đối với giáo pháp thậm thâm Bát nhã Ba la mật đây lấy vô sở đắc làm phương tiện rộng nói pháp tương ưng Tam thừa? Vì nhân duyên gì đối với giáo pháp thậm thâm Bát nhã Ba la mật đây lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói thắng sự thần thông nhiếp thọ các Bồ Tát cho đến khiến được biện tất cả thế gian rất thắng diệu?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Xá Lợi Tử! Bởi vì nội không cho đến vô tánh tự tánh không, nên đối với giáo pháp thậm thâm Bát Nhã đây lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói pháp tương ưng Tam thừa, rộng nói thắng sự thần thông nhiếp thọ các Bồ Tát cho đến khiến được biện tất cả thế gian rất thắng diệu

 

Sơ giải:

 

Phẩm “Tín Thọ” của Hội thứ II mở đầu với câu nói của Thiện Hiện: “Tôi nay muốn vì hữu tình như huyễn, như hóa, như mộng vui thuyết pháp như huyễn, như hóa, như mộng. Vì sao? Các Thiên tử! Như vậy, kẻ nghe đối với sở thuyết không nghe, không hiểu, không sở chứng vậy”.  

 

1. Như thế nào là: “Hữu tình như huyễn, như hóa như mộng…

nói pháp như huyễn, như hóa, như mộng?

 

Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 28, “Huyễn Nhân Thính Pháp”, tập 3, quyển 54, trả lời rằng:

“Trước đây đã nói rõ rằng hết thảy pháp đều là như huyễn, như hóa, chẳng có người thuyết, chẳng có người nghe, chẳng có người hiểu, chẳng có người biết. Do vậy, chư Thiên khởi tâm nghi, nghĩ rằng nếu như vậy thì hạng người nào mới nghe được pháp mà ngài Tu Bồ Đề đang thuyết?

Ngài Tu Bồ Đề nói: Người như huyễn, như hóa mới nghe được pháp này. Chư Thiên lại nghĩ rằng: Hạng người nghe pháp mà ngài Tu Bồ Đề đang thuyết phải như thế nào, mới có thể tương ưng, mới có thể tín thọ, dẫn đến mới có thể tu hành được đạo quả?

Ngài Tu Bồ Đề khẳng định: Chỉ có người như huyễn, như hóa mới nghe được pháp tôi đang thuyết, và họ sẽ tương ưng tu tập thành đạo quả.

Hỏi: Người như huyễn, như hóa chẳng có các tâm và tâm sở, họ chẳng có tín thọ được pháp. Như vậy thì nói pháp để làm gì?

Đáp: Đây chẳng phải khiến người huyễn hóa nghe pháp, mà chỉ muốn dạy người tu hành phải dụng tâm “vô sở đắc” để hành các pháp, ví như huyễn hóa chẳng có nghe, chẳng biết, chẳng chứng vậy.

Lại nữa, vì ngã và chúng sanh như huyễn, như mộng, nên người thuyết pháp cũng như huyễn như mộng. Người thuyết pháp đã là như huyễn, như mộng, thì người nghe pháp, người biết pháp, người hiểu pháp cũng như huyễn, như mộng.

Lại nữa, sắc…, dẫn đến Niết Bàn cũng là như huyễn, như mộng.

Sở dĩ, Kinh so sánh người tu hành như huyễn như hóa như mộng vì mục đích của Kinh Bát Nhã muốn dạy người tu hành phải dụng tâm “vô sở đắc” để hành các pháp, ví như huyễn hóa chẳng có nghe, chẳng biết, chẳng chứng vậy”. Vã lại, muốn có chứng có đắc là còn sở đắc, thì không thể tương ưng với Bát Nhã nữa.

Tất cả triết lý của phẩm “Huyễn Nhân Thính Pháp” nằm ở chỗ này.

 

2. Thế nào là: Kẻ nghe đối với sở thuyết không nghe,

không hiểu, không sở chứng vậy?

 

Tại sao “chẳng đem không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa mà phân biệt sắc cho đến thức? Cũng chẳng đem sắc cho đến thức mà phân biệt không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng xa lìa”?

Bởi vì, sắc cho đến thức là pháp thế gian, là Tục đế. Đó là pháp vô thường, biến hoại, sanh diệt, chỉ do duyên hòa hợp, giả có v.v… không thể đem pháp ấy mà so với Thánh pháp.

Không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vắng lặng, xa lìa là pháp xuất thế gian, là Chân đế, là đệ nhất nghĩa.

Kinh cũng bảo rằng: Không có pháp thế gian thì không có pháp xuất thế gian, nghĩa là không có Tục đế thì không có Chân đế. Vậy, Chân đế chẳng khác Tục đế (đối với Bát Nhã Ba La Mật, thì “chân – tục” song dụng chẳng phải hai, chẳng phải khác). Trong Chân đế hay Thắng nghĩa đế không phân biệt, chỉ có ai thông đạt Bát nhã Ba la mật mới hiểu nghĩa này, nên mới có khả năng tín thọ pháp. Kẻ sơ cơ (mới phát tâm) khó thấy khó giác.

Bát Nhã không kêu gọi, không hiển lộ, khó thấy khó giác, vắng lặng vi tế, trầm mật thắng diệu, chẳng phải chỗ suy tầm, vượt cảnh suy tầm. Hành giả Bát Nhã phải tự mình lặn sâu vào chỗ thâm cùng của trí năng, đào xới bới vỡ những giáo nghĩa hay những pháp nghĩa hiển hiện của nó, kẻ hời hợt chẳng thể tín thọ được.

 

Vì vậy, khi nói không những người thuyết pháp, người nghe pháp như huyễn như mộng mà cả pháp được thuyết cũng như huyễn như mộng… Nhưng đó không có nghĩa là “không ngơ”, chẳng có gì hết, nên không cần tín thọ. Khi người thuyết người nghe vô sở đắc, pháp được thuyết được nghe cũng vô sở đắc, không chấp không đắm, lấy vô sở đắc làm phương tiện cùng hữu tình hồi hướng Nhất thiết trí trí “rộng nói pháp tương ưng Tam thừa, rộng nói thắng sự thần thông nhiếp thọ các Bồ Tát cho đến khiến chư vị được biện tất cả thế gian rất thắng diệu”.

Đó là lý do khi nói pháp, khi nghe pháp, và chính pháp được nghe phải xem như huyễn hóa dù là pháp đem lại nhiều công đức thắng diệu nhất như Niết bàn. Lìa chấp, lìa đắm, không năng sở, không buông bắt nắm giữ, tung hứng nữa thì mới có tự do trong tư duy và hành động, mới có thể tín thọ phụng hành, bằng ngược lại thì tất cả đều như huyễn như mộng cả!

 

---o0o---

 


 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2589)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5763)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 113000)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5924)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5963)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6535)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12298)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8473)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14690)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25105)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567