Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

22. Phẩm “Tùy Thuận” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

12/08/202021:16(Xem: 7619)
22. Phẩm “Tùy Thuận” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Phật tử Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

2.22.Tuỳ Thuận-QT

 

PHẨM “TÙY THUẬN”
Phần giữa quyển 420, Hội thứ II. 

(Tương đương với phẩm “Tùy Thuận”(cùng một tên),

phần giữa quyển 61, Hội thứ I, ĐBN)

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước




 

 

Gợi ý:

Phẩm “Tùy Thuận” của Hội thứ II, ĐBN so với phẩm “Hội Tông” (Hội Các Tông Chỉ) của Kinh MHBNBLMĐ giống nhau như hai giọt nước. Phẩm tựa có khác nhưng nội dung không khác. Quý vị độc giả có thể đọc song song với Hội này để hiểu rõ vấn đề hơn, nếu muốn.

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, Cụ thọ Mãn Từ Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trước đây, Như Lai bảo Tôn giả Thiện Hiện thuyết giảng Bát nhã Ba la mật cho các Bồ Tát mà sao hôm nay lại nói đến Đại thừa?

Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trước đây con đã nói các nghĩa của Đại thừa nhưng đâu có trái vượt với Bát nhã Ba la mật?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Trước đây ông đã thuyết giảng các nghĩa của Đại thừa tất cả đều tuỳ thuận, không trái vượt với Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả thiện pháp, Bồ đề phần pháp, hoặc Thanh văn, hoặc Độc giác, hoặc Bồ Tát, hoặc Như Lai pháp. Như vậy, tất cả không có pháp nào là không thâu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật thậm thâm này.

Bấy giờ, Thiện Hiện lại thưa:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao tất cả thiện pháp, Bồ đề phần pháp, hoặc Thanh văn, hoặc Độc giác, hoặc Bồ Tát, hoặc Như Lai đều thâu nhiếp vào trong Bát nhã Ba la mật thậm thâm này.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Hoặc sáu Ba la mật, hoặc ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, hoặc pháp môn giải thoát không, hoặc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, hoặc mười lực của Phật, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, hoặc pháp không quên mất, hoặc tánh luôn luôn xả. Thiện Hiện! Tất cả các thiện pháp như vậy, Bồ đề phần pháp, hoặc Thanh văn, hoặc Độc giác, hoặc Bồ Tát, hoặc Như Lai pháp, tất cả đều thâu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật thậm thâm này.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Hoặc Đại thừa, hoặc Bát nhã Ba la mật, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật; hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức; hoặc 12 xứ, 18 giới, hoặc nhãn xúc, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, hoặc các thọ do nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc tám giải thoát, hoặc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, hoặc ba mươi bảy Bồ đề phần pháp; hoặc pháp môn giải thoát không, hoặc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc pháp thiện, hoặc pháp chẳng thiện, hoặc pháp hữu ký, hoặc pháp vô ký, hoặc pháp hữu lậu, hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp hữu vi, hoặc pháp vô vi; hoặc pháp thế gian, hoặc pháp xuất thế gian; hoặc Thánh đế khổ, hoặc Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc Dục giới, hoặc Sắc, Vô sắc giới; hoặc 18 pháp không (từ pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh); hoặc pháp giới, hoặc chơn như, thật tế, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới an ẩn v.v... hoặc các Đà la ni, hoặc Tam ma địa, hoặc Phật mười lực, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc chư Như Lai pháp, hoặc pháp luật của Phật giác ngộ nói ra; hoặc Bồ đề, hoặc Niết bàn. Tất cả pháp như vậy, đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, trước đây ông đã nói các nghĩa của Đại thừa tất cả đều tùy thuận, không trái vượt với Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Đại thừa không khác Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật không khác Đại thừa. Đại thừa không khác tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật; tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật không khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc Bát Nhã, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, tánh đó không hai, không hai phần.

Này Thiện Hiện! Đại thừa không khác 37 Bồ đề phần pháp, 37 Bồ đề phần pháp không khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc ba mươi bảy Bồ đề phần pháp tánh đó không hai, không hai phần. Đại thừa cho đến Phật mười lực không khác, Phật mười lực không khác Đại thừa. Đại thừa không khác bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc Phật mười lực, hoặc bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tánh đó không hai, không hai phần.

Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, trước đây ông đã nói các nghĩa của Đại thừa tất cả đều tùy thuận không trái vượt Bát nhã Ba la mật. Nói Đại thừa tức là nói Bát nhã Ba la mật, nói Bát nhã Ba la mật tức là nói Đại thừa, bởi hai danh nghĩa này không khác vậy.

 

Lược giải:

 

Phẩm “Tùy Thuận” của Hội thứ II, này nằm trong câu nói của Phật: “Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, trước đây ông đã nói các nghĩa của Đại thừa tất cả đều tùy thuận, không trái vượt với Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Đại thừa không khác Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật không khác Đại thừa. Đại thừa không khác tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật; tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật không khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc Bát Nhã, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, tánh đó không hai, không hai phần”.

Trong câu nói này, Phật lấy sáu pháp Ba la mật để so sánh với Đại thừa: Vì hoặc Đại thừa, hoặc Bát Nhã, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, tánh đó không hai, không hai phần”.

Điều đó có nghĩa Đại thừa và lục Ba la mật” chỉ là một. Nên nói không hai không khác. Đó gọi là tương ưng hay tùy thuận không trái ngược nhau. Phẩm trước Phật so sánh Địa thừa với hư không. Phẩm này Phật so sánh Đại thừa với Bát nhã Ba la mật. Chúng ta có thể nói Bát Nhã có đặc tánh gì thì Đại thừa có đặc tánh đó hay ngược lại.

Đại thừa như hư không, Bát nhã Ba la mật cũng như hư không; Đại thừa nhiếp thọ tất cả pháp, Bát nhã Ba la mật cũng nhiếp thọ tất cả pháp; Đại thừa dung nạp tất cả hữu tình, Bát Nhã cũng dung nạp tất cả hữu tình, nên nói Đại thừa không khác Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật không khác Đại thừa, tánh đó không hai không khác, nên nói cả hai tùy thuận hay tương ưng với nhau.

Phẩm “Tùy Thuận”, quyển 61, Hội thứ I, ĐBN nói rằng:

“Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc Đại thừa, hoặc Bát Nhã, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật; hoặc sắc, hoặc thọ tưởng hành thức, hoặc 12 xứ, 18 giới; hoặc bốn Thánh đế; 12 duyên khởi; hoặc Dục, Sắc, Vô sắc giới; hoặc pháp thiện, pháp phi thiện; hoặc pháp hữu ký, vô ký; hoặc pháp hữu lậu, vô lậu; hoặc pháp hữu vi, vô vi; hoặc pháp thế gian, xuất thế gian; hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc tám giải thoát, hoặc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc 37 pháp trợ đạo; hoặc tam giải thoát môn; hoặc năm loại mắt, hoặc sáu phép thần thông; hoặc Phật mười lực, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc pháp không quên mất, hoặc tánh luôn luôn xả; hoặc tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa; hoặc các đức Như Lai, hoặc pháp mà đức Phật đã giác ngộ đã nói; hoặc 18 pháp không; hoặc chơn như, hoặc pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, bổn vô, thật tế, cứu cánh Niết bàn (nói khác là tất cả pháp Phật), tất cả các pháp như vậy, đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng phải tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng.

Thiện Hiện! Do nhân duyên này, vừa rồi, ông nói Đại thừa đối với Bát nhã Ba la mật, hoàn toàn tùy thuận, không có sự chống trái, vượt qua. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Đại thừa chẳng khác Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật chẳng khác Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại thừa, hoặc Bát nhã Ba la mật, tánh nó không hai, vì không có hai phần”.

Phẩm “Tùy Thuận” của Hội thứ I còn nói thêm rằng không những lục Ba la mật mà tất cả Phật pháp, tất cả pháp mầu Phật đạo, tư lương Bồ đề Bồ Tát hay còn gọi là Bồ Tát đạo đều tương ưng với Đại thừa. Vì vậy, Kinh mới nói hoặc Đại thừa hoặc Bát Nhã hoặc tất cả pháp mầu Phật đạo không hai, không khác. Tất cả đều tương ưng, chẳng xa lìa nhau.

Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 24, “Hội Tông” (Hội Các Tông Chỉ), tập 3, quyển 32, giải thích toàn bộ phẩm này như sau:

“Theo như ý Kinh ở trên đây thì ngài Phú Lâu Na chẳng còn có tâm nghi. Thế nhưng vì hạng người mới học Bát nhã Ba la mật, chỉ phân biệt các pháp theo danh tự mà chưa rõ nghĩa “không”, nên ngài Phú Lâu Na phải vì họ mà nêu câu hỏi. Ngài Tu Bồ Đề dựa nơi chỗ hỏi của ngài Phú Lâu Na mà bạch Phật, để thỉnh Phật giảng rộng thêm.

 

--o0o--

 

Phật bảo ngài Tu Bồ Đề rằng: Đúng như lời ông nói, Ma Ha Diễn (Đại thừa) tùy thuận Bát nhã Ba la mật, chẳng khác Bát nhã Ba la mật, chẳng ly Bát nhã Ba la mật.

Phật vì tùy thuận chúng sanh mà nói ba thừa đạo, nhưng hết thảy thiện pháp của ba thừa đạo đều nhiếp trọn vào trong Bát nhã Ba la mật, và đều dẫn đến Niết Bàn cả.

Muốn vào Niết Bàn, phải tu ba giải thoát môn (không, vô tướng và vô tác), nên nói ba giải thoát môn là cộng pháp của cả ba thừa đạo. Hành giả do trì giới, mà sanh thiền định; do thiền định mà sanh trí huệ; và khi được trí huệ viên mãn rồi, thì chẳng còn chấp thế gian nữa.

Hỏi: Vì sao nói ba thừa đạo pháp đều là trợ đao pháp, và đều nhiếp vào trong Bát nhã Ba la mật cả?

Đáp: Vì Bồ Tát hành đầy đủ các thiện pháp, mà chẳng hề chấp các thiện pháp ấy, Bồ Tát thường tu hạnh xả, nên chẳng còn chấp các pháp tướng vậy.

Nên biết rằng ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo và ba giải thoát môn là cộng pháp của cả ba thừa. Còn sáu pháp Ba la mật là pháp của Bồ Tát; mười lực, bốn vô sở uý, bốn vô ngại trí, đại từ, đại bi… mười tám bất cộng pháp thường dẫn đến hành xả, là pháp của Phật.

 

--o0o--

 

Có thuyết nói rằng tu sáu pháp Ba la mật có hai trường hợp:

- Đầy đủ (cụ túc) Ba la mật.

- Chưa đầy đủ (chưa cụ tức) Ba la mật.

Đầy đủ Ba la mật là pháp Bồ Tát; chưa đầy đủ Ba la mật là pháp Nhị Thừa.

Lại có thuyết nói Ma Ha Diễn là tánh không, Bát nhã Ba la mật cũng là tánh không. Bởi vậy nên hai pháp này là chẳng phải hai, chẳng phải khác.

Ngài Tu Bồ Đề nói về Ma Ha Diễn là tùy thuận Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật cũng như năm Bát nhã Ba la mật kia đều là tánh không, nên Ma Ha Diễn cũng là tánh không. Dẫn đến pháp như, pháp tánh, thật tế, bất khả tư nghì tánh, Niết Bàn tánh cũng đều là như vậy cả.

Lại nữa, chư đại Bồ Tát, khi hành Ma Ha Diễn, đã dùng lực phương tiện Bát nhã Ba la mật để tu các thiện pháp nhằm dẫn đến đạo Niết Bàn, mà vẫn biết rõ các pháp ấy đều chẳng có hợp, chẳng có tan, chẳng có sắc, chẳng có hình, chẳng có đối… vì đều chỉ là một tướng (nhất tướng), là chẳng có tướng (vô tướng) vậy”.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói Ma ha diễn tức là Bát nhã Ba la mật, vì hai pháp này chẳng phải hai, chẳng phải khác.

 

---o0o---  

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2590)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5764)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 113000)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5925)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5963)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6535)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12298)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8473)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14690)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25106)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567