Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

24. Phẩm “Giáo Thọ” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)

19/06/202008:01(Xem: 7763)
24. Phẩm “Giáo Thọ” (Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 
Phẩm Giáo Thọ_CS Thiện Bửu_ Quảng Tịnh_photo

PHẨM “GIÁO THỌ”

 

Phần sau quyển 82 cho đến phần đầu quyển 84, Hội thứ I, ĐBN.

(Có thể nói phẩm này tương đương với phần sau quyển thứ 09,

phẩm “Ảo Nhân Thỉnh Pháp”, MHBNBLM)

Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước




 

 

Tóm lược:

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Xá Lợi Tử, cụ thọ Đại Mục Liên, cụ thọ Chấp Đại Tạng, cụ thọ Mãn Từ Tử, Đại Ca Đa Diễn Na, Đại Ca Diếp Ba v.v… chư đại Thanh văn và vô lượng trăm ngàn đại Bồ Tát cùng lúc hỏi Thiện Hiện: Đã nói Bát nhã Ba la mật là thâm sâu khó thấy, khó biết, là đối tượng nghiên cứu, siêu vượt, vi diệu, tịch tịnh tối thắng đệ nhất, chỉ có bậc cực Thánh mới tự nội chứng, chẳng phải người có tri thức thường tục có thể suy lường. Đối với pháp như vậy ai là người có khả năng tín thọ?

Cụ thọ Thiện Tiện đáp: Thưa quý vị có ba hạng người có thể tín thọ là: 1. Đại Bồ Tát bất thối, 2. Người đã thấy Thánh đế hay các lậu tận A La hán; 3. Các thiện nam tín nữ đã từng thân cận cung kính cúng dường vô lượng vô số chư Phật hay người đã phát thệ rộng lớn, gieo trồng căn lành, trí năng thông tuệ. Đó là những người có khả năng tín thọ Bát nhã Ba la mật. Vì những người như vậy hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt sắc, cũng chẳng lấy sắc để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng lấy thọ, tưởng, hành, thức để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt các uẩn, cũng chẳng lấy các uẩn để phân biệt viễn ly, bất viễn ly. (Q.82, ĐBN)

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật, mười tám pháp không, chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế…, Ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao; cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật nói trên để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt tất cả pháp Phật; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt tất cả pháp Phật, cũng chẳng lấy tất cả pháp Phật để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt phàm phu và pháp của bậc phàm phu; Bồ Tát thập địa và pháp của bậc Bồ Tát thập địa; Bồ Tát thập địa cộng Tam thừa và pháp của Bồ Tát thập địa cộng Tam thừa; cũng không phân biệt cảnh hữu vi với vô vi là không hay bất không, là hữu tướng hay vô tướng v.v…, và cũng chẳng lấy không, bất không, lấy hữu tướng, vô tướng phân biệt Bồ Tát thập địa cộng Tam thừa và pháp của Bồ Tát thập địa cộng Tam thừa v.v…

Như vậy, Bát nhã Ba la mật đã nói là pháp sâu xa khó thấy, khó biết, là siêu vượt, vi diệu, tịch tịnh, tối thắng đệ nhất, chỉ có bậc cực Thánh tự nội chứng, kẻ tri thức thế gian chẳng có thể suy lường; trong đó, thật không có kẻ có khả năng tín thọ. Vì sao? Vì trong đó, không có pháp có thể hiển thị, vì không có pháp có thể hiển thị nên kẻ thật tín thọ cũng chẳng thể nắm bắt được.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Ở trong giáo pháp thâm sâu của Bát nhã Ba la mật này, rộng nói giáo pháp ba thừa, đó là pháp của Thanh văn, Độc giác, Vô thượng thừa, rộng nói bao gồm Bồ Tát đạo. Đó là bố thí Ba la mật, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; hoặc cái không nội, cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh; hoặc chơn như, pháp giới, pháp tánh, định pháp, trụ pháp, thật tế v.v…; hoặc tứ Thánh đế; hoặc tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định; 37 pháp trợ đạo; hoặc tam giải thoát môn; hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa; nghĩa là rộng nói là tất cả pháp Phật bao gồm các thắng sự công đức của đại Bồ Tát. Các đại Bồ Tát đối với Bát Nhã, siêng năng tu hành, cho nên tùy nơi sanh ra thường thọ hóa sanh, không mất thần thông, có thể dạo chơi tự tại, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn, tùy theo sở nguyện, ưa gieo trồng thiện căn, mau được viên mãn, ở chỗ các đức Phật nghe và thọ trì chánh pháp cho đến chứng quả vị Giác ngộ tối cao, thường không quên mất cũng không biếng bỏ, thường trụ định thù thắng, xa lìa tâm tán loạn; do duyên này, nên được các biện tài vô ngại, biện tài không chấm dứt, biện tài không sai lầm, biện tài nhạy bén, biện tài thích ứng, biện tài có nghĩa lý phong phú ý vị khi diễn thuyết, biện tài thù thắng tối diệu đối với tất cả thế gian.

Thiện Hiện đáp: Đúng vậy! Đúng như lời Ngài nói, ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát nhã Ba la mật này, rộng nói pháp ba thừa; rộng nói Bồ Tát đạo, đó là bố thí Ba la mật cho đến tất cả pháp môn Tam ma địa; nghĩa là rộng nói tất cả pháp Phật và các thắng sự công đức của đại Bồ Tát. Các đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật, siêng năng tu hành, cho nên tùy nơi sanh ra thường hóa sanh cho đến đắc biện tài tối thắng vi diệu trong tất cả thế gian. Giáo pháp thậm thâm như vậy, hễ có nói thì phải lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử hỏi: Pháp này (Bát Nhã) đối với pháp nào, lấy vô sở đắc làm phương tiện?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Pháp này đối với ngã lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng cho đến cái biết, cái thấy lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với sắc, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với thọ, tưởng, hành, thức, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Pháp này đối với mười hai xứ, mười tám giới hay nói rộng pháp này đối với tất cả pháp Phật lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì nhân duyên gì ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát Nhã này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói giáo pháp ba thừa? Vì nhân duyên gì ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát Nhã này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm Bồ Tát đạo, đó là bố thí Ba la mật cho đến tất cả pháp môn Tam ma địa? Vì nhân duyên gì ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát Nhã này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm tất cả pháp Phật và các thắng sự công đức của đại Bồ Tát? Các đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật này, siêng năng tu hành, cho nên tùy nơi sanh ra, thường thọ hóa sanh cho đến được biện tài thù thắng tối diệu trong tất cả thế gian?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Do cái không nội nên ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát nhã Ba la mật này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói pháp ba thừa. Do cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cho đến cái không không tánh tự tánh, nên ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát nhã Ba la mật này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói pháp ba thừa.

Xá Lợi Tử! Do cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh nên ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát nhã Ba la mật này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm Bồ Tát đạo từ bố thí Ba la mật, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; hoặc chơn như, pháp giới, pháp tánh, định pháp, trụ pháp, thật tế v.v… cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc tứ Thánh đế, 12 nhân duyên; hoặc Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; hoặc tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa.

Xá Lợi Tử! Do cái không nội cho đến cái không không tánh tự tánh, nên ở trong giáo pháp thậm thâm của Bát nhã Ba la mật này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm Bồ Tát đạo, rộng nói bao gồm tất cả pháp Phật và các thắng sự công đức của đại Bồ Tát. Các đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật này, siêng năng tu hành, nên tùy nơi sanh ra, thường thọ hóa sanh cho đến được biện tài thù thắng tối diệu đối với tất cả thế gian.

(Nói cách khác, là do hiểu biết sâu xa 18 pháp không này, Bồ Tát siêng năng tu hành tất cả pháp Phật, lấy vô sở đắc làm phương tiện, nên tùy nơi sanh thường hóa sanh, luôn luôn được biện tài thù thắng tối diệu đối với tất cả thế gian).

 

Lược giải:

 

Phẩm này đặc biệt nói về ý thức phân biệt và hậu quả của nó. Có phân biệt là có chia chẻ, phân hóa. Có chia chẻ phân hóa nên rơi vào nhị nguyên đối đãi: Không-bất không, hữu tướng-vô tướng, hữu nguyện -vô nguyện v.v… Pháp Phật là pháp môn bất nhị! Vì vậy, chỉ những bậc cực Thánh, những La Hán lậu tận, những vị thường gần gũi, phụng sự cung kính cúng dường vô số vô biên chư Phật, siêng năng tu học chánh pháp mới có thể nhập Bát Nhã Tánh không và nhờ đó vào được đệ nhất nghĩa đế, rồi sống với nó thấy tất cả pháp đều bình đẳng, không còn chấp đắm nữa mới sanh trí tuệ mà có Bát Nhã Trí, Vô Phân Biệt Trí, Vô Trước Trí.

Tu Bát nhã Ba la mật muốn đắc Bát Nhã Trí, Vô Phân Biệt Trí, Vô Trước Trí phải lìa phân biệt, vì phân biệt đưa tới chấp trước! Phân biệt không đáng trách. Đáng trách chính là chấp trước. Chấp trước đi liền với phân biệt. Ở đâu có phân biệt thì ở đó có chấp trước hay ngược lại.

Ai là người phân biệt giỏi nhất thế gian, phải nói là Phật. Nhưng tại sao Phật phân biệt giỏi nhất mà thành bậc Thiên nhân sư. Còn chúng sanh lúc nào cũng phân biệt mà vẫn bị trầm luân khổ ải nhiều kiếp. Bởi vì, Phật và Bồ Tát sống trong phân biệt nhưng không phân biệt, không dính mắc! Có dính mắc là có quái ngại. Sống trong phân biệt mà không biệt, không dính mắc mới thật là khó!

Phẩm này một lần nữa khuyên hành giả Bát Nhã: Muốn tín thọ được Bát nhã Ba la mật, muốn được tất cả biện tài thù thắng tối diệu đối với thế gian, muốn được bậc hóa sanh phải lấy vô sở đắc làm phương tiện, lấy vô chấp, vô thủ, vô trụ, vô phân biệt mà tịnh tu các thiện pháp.

 

Đó là lời khuyên, lời dặn dò của người dạy bảo trao truyền Bát nhã Ba la mật tạm gọi là Giáo thọ. Vì vậy, phẩm này mới có tên là Giáo thọ./.

 

---o0o---

 

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2587)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5761)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 112997)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5924)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5959)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6535)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12288)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8468)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14683)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25092)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567