Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

34. Phẩm “Trời Đến"

15/08/202009:45(Xem: 6918)
34. Phẩm “Trời Đến"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-420

 

PHẨM “TRỜI ĐẾN"

Cuối quyển 429 cho đến đầu quyển 430, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với Đoạn năm, Phẩm "So Lường Công Đức"

từ Q.106 đến phần đầu Q.127, Hội thứ I, ĐBN)

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

Gợi ý:

Phần đầu của phẩm “Trời Đến”, Hội thứ II này và phẩm “A Nan Xưng Dự”(A Nan xưng tán) cùng nói lên tánh cách tôn dẫn hay chỉ đạo của Bát nhã Ba la mật. Phần sau của hai phẩm này nói về công đức tu tập thọ trì cũng như thờ phụng cúng dường Kinh này thời có vô lượng vô biên công đức hiện tại vị lai như các phẩm trước. Hai phẩm của hai Kinh thuyết như nhau. Cả hai viết theo lối trần thuật dễ hiểu, dễ tụng. Chẳng có gì mới mẻ ở đây.

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, cụ thọ Khánh Hỷ thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng rộng ngợi khen năm pháp Ba la mật: Bố thí, trì giới, an nhẫn v.v… cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, mà chỉ rộng khen Bát nhã Ba la mật thứ sáu?

Phật bảo:

- Khánh Hỷ! Bát nhã Ba la mật thứ sáu là tôn dẫn, vì có khả năng hướng dẫn năm Ba la mật trước cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, nên Ta chỉ rộng ngợi khen Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Ý ông nghĩ sao? Nếu chẳng hồi hướng Nhất thiết tướng trí mà tu bố thí cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, khá gọi là chơn bố thí Ba la mật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chăng?

Khánh Hỷ thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng chơn. Bạch Thiện Thệ ! Chẳng chơn.

Phật nói:

- Khánh Hỷ! Do hồi hướng Nhất thiết tướng trí mà tu bố thí cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, mới khá gọi là chơn bố thí Ba la mật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cho nên, Bát nhã Ba la mật là tôn dẫn, có khả năng dẫn dắt năm Ba la mật trước cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Do đó, Ta rộng ngợi khen Bát nhã Ba la mật.

Cụ thọ Khánh Hỷ lại thưa Phật rằng:

- Tại sao hồi hướng Nhất thiết tướng trí tu bố thí cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, mới được gọi là chơn bố thí Ba la mật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng?

Phật nói:

- Khánh Hỷ! Đem vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc mà làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết tướng trí mà tu bố thí cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Hồi hướng Nhất thiết tướng trí mà tu bố thí cho đến mười tám pháp Phật bất cộng như thế mới được gọi là chơn bố thí Ba la mật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

 

Cụ thọ Khánh Hỷ lại thưa Phật rằng:

- Lấy vô nhị nào làm phương tiện, vô sanh nào làm phương tiện, vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết tướng trí mà tu bố thí cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, mới được gọi là chơn bố thí Ba la mật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng?

Phật nói:

- Khánh Hỷ! Lấy vô nhị của sắc thọ tưởng hành thức cho đến Vô Thượng Bồ đề làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, hồi hướng Nhất thiết tướng trí, mà tu bố thí cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, mới được gọi là chơn bố thí Ba la mật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Cụ thọ Khánh Hỷ thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao lấy vô nhị của sắc thọ tưởng hành thức cho đến Vô Thượng Bồ đề làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, để hồi hướng Nhất thiết tướng trí mà tu bố thí cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, mới được gọi là chơn bố thí Ba la mật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng?

Phật nói:

- Khánh Hỷ! Sắc thọ tưởng hành thức, tánh sắc thọ tưởng hành thức không cho đến Vô Thượng Bồ đề, tánh Vô Thượng Bồ đề không. Vì sao? Vì sắc thọ tưởng hành thức tánh không cho đến Vô Thượng Bồ đề tánh không, cùng bố thí Ba la mật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng đều không hai, không hai phần vậy.

Khánh Hỷ phải biết: Do Bát nhã Ba la mật, nên có khả năng hồi hướng Nhất thiết tướng trí. Do hồi hướng Nhất thiết tướng trí, nên có khả năng khiến bố thí Ba la mật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng được đến bờ rốt ráo. Vậy nên, Bát nhã Ba la mật làm tôn làm dẫn đối năm Ba la mật trước cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, nên Ta chỉ rộng ngợi khen Bát nhã Ba la mật. Khánh Hỷ nên biết: Ví như đem hạt giống rải lên đại địa, các duyên hòa hợp thời được sanh trưởng. Nên biết đại địa là chỗ nương tựa, có khả năng kiến lập, làm cho các hạt giống sanh trưởng. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật và hồi hướng Nhất thiết tướng trí là chỗ nương tựa, có khả năng kiến lập, làm cho năm pháp Ba la mật trước cho đến mười tám pháp Phật bất cộng được sanh trưởng. Cho nên Bát Nhã đây là tôn dẫn, là pháp dẫn đường cho năm Ba la mật trước cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Do đó, Ta chỉ rộng ngợi khen Bát Nhã.

 

(Kinh cũng xác nhận rằng “Bát nhã Ba la mật và hồi hướng Nhất thiết chủng trí là chỗ nương tựa, có khả năng kiến lập, làm cho tất cả pháp sanh trưởng, nên nói Bát nhã Ba la mật làm tôn làm dẫn đối với tất cả các pháp”. Nhưng dù nói như thế nào đi nữa thì Bát Nhã muốn trở thành tôn dẫn phải theo một số điều kiện nào(thí dụ như phải hồi hướng nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiên chẳng hạn… ) đó mới có thể kiến lập các pháp khác. Nếu không hội đủ điều kiện thì chẳng có pháp nào kiến lập được pháp nào. Nên nói tôn dẫn chỉ là cách nói theo thế tục vậy thôi. Bát Nhã là không, bản tánh không. Rốt ráo cũng đừng quá tưởng tượng bốc cao mà lạc mất tâm đạo.

Kinh MHBNBLMĐ trong phẩm “Xá Lợi”, nói rằng: Do được Bát nhã Ba la mật dẫn đạo, nên khi hành bố thí Bồ Tát mới được đầy đủ Đàn Ba la mật, khi hành trì giới mới được đầy đủ Thi La Ba la mật, khi hành nhẫn nhục mới được đầy đủ Sẵn Đề Ba la mật, khi hành tinh tấn mới được đầy đủ Tỳ Lê Gia Ba la mật, khi hành thiền định mới được đầy đủ Thiền Ba la mật, khi quán các pháp mới được đầy đủ Bát nhã Ba la mật. Vì sao ? Vì Bồ Tát, dụng vô sở đắc, quán hết thảy các pháp, từ sắc... dẫn đến nhất thiết chủng trí đều là bất khả đắc cả”.

 Nên trong phần “Bát Nhã Ba La Mật”, Hội thứ XVI nói: Bát nhã Ba la mật kỳ cùng không phải là pháp tối cao hay thực tại vĩnh hằng nào cả. Như vậy, chẳng có gì là tôn nhiếp, tôn dẫn, chỉ dựa vào thế tục mà nói, trong thắng nghĩa đế không có nghĩa này.).

 

Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Ngày nay Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với công đức Bát nhã Ba la mật đây nói vẫn chưa hết. Vì sao? Con theo Thế Tôn được thọ Bát nhã Ba la mật ngần công đức sâu rộng vô lượng vô biên. Các thiện nam thiện nữ đối Bát nhã Ba la mật đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, rộng vì hữu tình tuyên nói lưu bố, chỗ được ngằn công đức cũng sâu rộng vô lượng vô biên. Nếu có ghi chép Kinh Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế lại đem vô lượng các thứ thượng diệu tràng hoa, hương xoa, hương bột cùng tràng phan lọng báu, các ngọc diệu trân kỳ quý lạ v.v… cúng dường, chỗ được ngằn công đức cũng vô lượng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam thiện nữ, đối Bát nhã Ba la mật thậm thâm, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học v.v… do nhân duyên đây thế gian bèn có mười thiện nghiệp đạo; hoặc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; hoặc nội không cho đến vô tánh tự tánh không; hoặc bốn niệm trụ nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc quả Dự lưu cho đến quả A la hán; hoặc Độc giác Bồ đề; hoặc Bồ Tát cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; hoặc có bao nhiêu thắng sự thế gian không việc nào mà chẳng lưu xuất.

Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích rằng:

- Kiều Thi Ca! Ta chẳng nói Bát nhã Ba la mật, chỉ có ngần ấy công đức. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm đầy đủ vô biên công đức thù thắng. Nếu các thiện nam, thiện nữ này đem vô sở đắc làm phương tiện, đối Bát nhã Ba la mật đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học v.v… nhóm giới, nhóm định, nhóm huệ, nhóm giải thoát, nhóm giải thoát tri kiến sẽ trọn nên vô lượng thù thắng.

Kiều thi ca! Các thiện nam, thiện nữ này sẽ được coi như Phật. Vì sao? Vì họ thọ trì đạo Vô thượng của tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại; vì họ quyết định hướng tới Phật Bồ đề; vì họ muốn làm lợi ích, an vui cho tất cả hữu tình không cùng tận; vì họ vượt khỏi bậc Thanh văn, Độc giác.

Kiều thi ca! Nhóm giới, nhóm định, nhóm huệ v.v… của Thanh văn, Độc giác so với nhóm giới, nhóm định, nhóm huệ v.v… của các thiện nam, thiện nữ đây thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, cho đến cực số phần cũng chẳng bằng một. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ này vượt khỏi tâm tưởng thấp hèn của tất cả Thanh văn, Độc giác. Đối với các pháp của Thanh văn, Độc giác thừa, họ suốt đời chẳng ngợi khen; nhưng đối với tất cả pháp khác, chẳng có pháp nào mà không biết, nghĩa là biết rõ pháp không có sở hữu.

Kiều thi ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ nào chẳng lìa tâm Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Kinh Bát nhã Ba la mật, chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh tấn siêng tu học v.v… lại đem vô lượng phẩm vật thượng diệu như tràng hoa cho đến các ngọc diệu trân kỳ quý lạ v.v… cúng dường thì Ta nói người này hiện tại và vị lai thu được vô lượng, vô biên công đức thắng lợi.

 

(Nhưng dù sao trên thật tế tu Bát nhã Ba la mật cũng đem lại trí tuệ và các diệu dụng không thể nghĩ bàn. Nên nói tu Bát nhã Ba la mật có vô lượng vô biên công đức trí tuệ. Nói như vậy cũng là nói theo thế tục).

 

Khi ấy, Thiên Đế Thích liền thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chư thiên chúng con thường theo thủ hộ các thiện nam, thiện nữ này, chẳng cho tất cả người, phi người cùng các thứ ác duyên làm não hại.

Bấy giờ, Phật bảo Thiện Hiện rằng:

- Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, tuyên nói pháp tương ưng Bát Nhã thậm thâm như thế, lúc đó có vô lượng các thiên tử thiên nữ cùng đến nhóm hợp, dùng uy lực của mình khiến cho pháp sư đó thuyết pháp biện tài lưu loát, nếu có chướng nạn cũng chẳng bị ngăn dứt.

Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học v.v... lại đem nhiều phẩm vật thượng diệu tràng hoa cho đến các ngọc diệu trân kỳ quý lạ v.v… cúng dường, ở đời hiện tại được vô biên công đức thắng lợi, ma và ma quân chẳng thể làm rối loạn não hại được.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ đối trước bốn chúng tuyên nói Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, tâm không khiếp sợ, chẳng bị tất cả luận nạn đè bẹp. Vì sao? Vì những người đó được gia trì của Bát nhã Ba la mật vậy. Lại Bát nhã Ba la mật đây trong tạng bí mật(1) đủ rộng phân biệt tất cả pháp. Chỗ gọi pháp thiện pháp phi thiện, pháp hữu ký pháp vô ký, pháp hữu lậu pháp vô lậu, pháp thế gian pháp xuất thế gian, pháp hữu vi pháp vô vi, pháp Thanh văn, pháp Độc giác, pháp Bồ Tát, pháp Như Lai. Tất cả các pháp như thế thảy vô lượng trăm ngàn sai khác đều nhiếp thọ vào Bát Nhã.

Lại do các thiện nam, thiện nữ khéo trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không, nên đều chẳng thấy có kẻ năng luận nạn, cũng chẳng thấy có sở luận nạn, cũng chẳng thấy có sở thuyết Bát nhã Ba la mật. Vì vậy, nên Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ đây nhờ đại oai thần lực Bát nhã Ba la mật này hộ trì, nên chẳng bị tất cả bọn dị học luận nạn và các kẻ oán địch làm khuất phục.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ đối Bát Nhã thậm thâm đây, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố. Các thiện nam, thiện nữ này tâm chẳng kinh chẳng sợ chẳng hãi, tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng ưu hối. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ này đều chẳng thấy có việc đáng kinh, đáng sợ, đáng hãi, chìm đắm ưu hối vậy.

Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ đây muốn được vô biên công đức thắng lợi hiện tại đây, nên đối Bát Nhã thậm thâm như thế chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, chẳng chút nới bỏ.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, đối Kinh điển Bát Nhã thậm thâm đây chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Các thiện nam, thiện nữ này hằng được cha mẹ, Sư trưởng, bạn thân, quốc vương, đại thần và các Sa môn, Bà la môn tất cả đều kính ái. Cũng được mười phương vô biên thế giới tất cả Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác, Bồ Tát, Độc giác, A la hán, Bất hoàn, Nhất lai, Dự lưu quả đều thương nhớ. Lại được thế gian các trời, ma, phạm và người, phi người, A tu la ái mộ, giúp đỡ. Các thiện nam, thiện nữ này thành tựu biện tài tối thắng không gián đoạn; trong tất cả thời, tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không; tu hành bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; tu hành tất cả Tam ma địa, Đà la ni môn, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật; tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, thường không biếng nhác phế bỏ. Các thiện nam, thiện nữ này chẳng bị tất cả ngoại đạo dị luận và các oán địch hàng phục, ngược lại có khả năng hàng phục ngoại đạo dị luận và các oán địch.

Kiều thi ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ nào muốn trong hiện tại và vị lai được công đức thắng lợi như thế vô tận, thì nên đối với Bát Nhã thậm thâm đây, đem tâm ứng hợp với Nhất thiết trí trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học Bát nhã Ba la mật!

Lại nữa, Kiều thi ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ nào biên chép Kinh Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, để chỗ thanh tịnh, trang nghiêm bằng đủ loại báu, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen thì khi ấy, trong Tam thiên đại thiên thế giới đây và mười phương vô biên thế giới khác, các trời Tứ đại vương cho đến trời Quảng quả, những vị đã phát tâm Vô thượng Bồ đề thường đến chỗ ấy đnh lễ, đọc tụng Bát Nhã, rồi cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu lễ bái, chắp tay lui về. Ngoài ra còn có các vị trời Tịnh cư như là trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh cũng thường đến đnh lễ, đọc tụng Bát Nhã, rồi cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu, lễ bái, xong chp tay lui về.

Tam thiên Đại thiên thế giới đây và mười phương vô biên thế giới khác, các rồng, dược xoa, kiện đạt phược, A tu la, yết lộ trà, khẩn nại lạc, mạc hô lạc già, người, phi người v.v… có đại oai đức cũng hằng đến đấy xem lễ đọc tụng Bát Nhã, rồi cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu, lễ bái, chp tay lui về.

Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này sẽ khởi nghĩ đây: Nay Tam thiên đại thiên thế giới đây và mười phương vô biên thế giới khác, các trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Sắc cứu cánh, cùng vô lượng các rồng, dược xoa, kiện đạt phược, A tu la v.v… thường đến đây, xem lễ đọc tụng Bát nhã Ba la mật, do ta biên chép rồi cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, quanh hữu lễ bái, chấp tay mà lui. Như vậy là ta đã thiết lập pháp thí. Khởi nghĩ như vậy rồi, họ vô cùng vui mừng phấn khởi, khiến cho phước báu tăng trưởng bội phần.

Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này ở Tam thiên đại thiên thế giới đây và mười phương vô biên thế giới khác, các trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Sắc cứu cánh, cùng vô lượng các rồng, dược xoa, kiện đạt phược, A tu la v.v… thường đến đây, theo dõi ủng hộ, chẳng cho tất cả người, phi người… làm não hại, chỉ trừ ác nghiệp đời trước đã chín mùi hiện tại phải chịu, hoặc chuyển nặng thành nhẹ.

Kiều thi ca! Nhờ đại lực oai thần của Kinh Bát Nhã thậm thâm đây, nên các thiện nam, thiện nữ này được các thứ công đức thắng lợi trong đời hiện tại như thế, nghĩa là những vị đã phát tâm Vô thượng Bồ đề như chư thiên…, hoặc người nương vào Phật pháp đã được việc thù thắng an vui, vì kính trọng pháp nên thường đi đến đây, theo dõi ủng hộ làm cho thiện nam, thiện nữ kia tăng thế lực. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ này đã phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Giác, thường cứu vớt các hữu tình vậy, thành thục các hữu tình vậy, chẳng bỏ các hữu tình vậy, làm lợi ích an vui cho các hữu tình vậy. Các chư thiên… kia cũng lại như vậy. Do nhân duyên đây nên chư thiên… thường đến ủng hộ các thiện nam, thiện nữ này, khiến cho không bị não hại.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ này làm sao giác biết ở Tam thiên đại thiên thế giới này và mười phương vô biên thế giới khác, các trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Sắc cứu cánh, cùng vô lượng các rồng, dược xoa, kiện đạt phược, A tu la, yết lộ trà, khẩn nại lạc, mạc hô lạc già, người, phi người thảy đi đến chỗ ấy, xem lễ đọc tụng Bát nhã Ba la mật thậm thâm do họ biên chép, rồi cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, chấp tay đi nhiễu, vui mừng hộ niệm?

Bấy giờ, Phật bảo Thiên Đế Thích rằng:

- Kiều Thi Ca! Các thiện nam thiện nữ, nếu thấy chỗ an để Bát nhã Ba la mật có diệu quang minh, hoặc ngửi thấy chỗ ấy có hương thơm khác lạ, hoặc nghe tiếng thiên nhạc thì sẽ biết khi ấy có chư thiên, rồng… đủ đại thần lực, oai đức rực rỡ thù thắng đều đi đến chỗ ấy, xem lễ đọc tụng Bát Nhã thậm thâm do họ thơ tả, rồi cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, chấp tay đi nhiễu, vui mừng hộ niệm. Các thiện nam, thiện nữ này tu hạnh thuần tịnh, trang nghiêm chỗ ấy, chăm lòng cúng dường Bát nhã Ba la mật. Phải biết bấy giờ có chư thiên, rồng… đủ đại thần lực, oai đức rực rỡ thù thắng đều đến chỗ, xem lễ đọc tụng Bát nhã Ba la mật do họ thơ tả, rồi cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, chp tay đi nhiễu, vui mừng hộ niệm.

Kiều Thi Ca! Tùy theo chư thiên, rồng… đủ đại thần lực, oai đức rực rỡ thù thắng như thế đi đến chỗ nào thì chỗ ấy các tà thần, ác quỷ kinh sợ lui tan, không dám ở. Do nhân duyên đây, các thiện nam, thiện nữ này tâm hồn mở rộng, khởi hiểu tịnh thắng, sở tu thiện nghiệp bội phần tăng trưởng, làm việc gì đều không bị ngăn ngại. Vì vậy, Kiều Thi Ca! Nếu Kinh điển Bát nhã Ba la mật tùy để chỗ nào, chung quanh nên dọn dẹp uế vật, lau chùi sạch sẽ, tưới rải nước thơm, trải bày bảo tọa, an để Kinh lên; trang nghiêm chỗ ấy bằng cách đốt hương, rải hoa, giăng treo màn lọng, cờ phướn báu, phong linh, trang sức bên trong, các trân châu vi diệu quý hiếm v.v… Nếu năng cúng dường Bát nhã Ba la mật như thế, bèn có vô lượng các thiên long… đủ đại thần lực, oai đức rực rỡ thù thắng đi đến chỗ kia xem lễ đọc tụng Bát nhã Ba la mật do họ thơ tả, rồi cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, chp tay đi nhiễu, vui mừng hộ niệm.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này nếu năng cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Bát Nhã như thế, quyết định sẽ được thân tâm không mỏi, thân vui tâm vui, thân nhẹ tâm nhẹ, thân nhu tâm nhuyễn, thân yên ổn tâm yên ổn, luôn luôn nhớ tưởng Bát nhã Ba la mật. Đêm ngủ không có ác mộng, chỉ thấy mộng lành, là thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thân sắc vàng ròng, đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi tùy hảo, viên mãn trang nghiêm, phóng đại quang minh soi khắp tất cả, Thanh văn Bồ Tát vây quanh trước sau; nghe Phật thuyết pháp tương ưng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Lại nghe thuyết pháp tương ưng nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Bốn niệm trụ nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Lại nữa, ở trong mộng thấy cội Bồ đề, lượng cao rộng, các báu trang nghiêm. Có đại Bồ Tát tới cội Bồ đề, ngồi xếp bằng tréo chân, hàng phục ma oán, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ vô lượng chúng. Lại thấy vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức Bồ Tát luận nghị quyết trạch các môn pháp nghĩa rằng: Nên thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tu Bồ Tát hạnh hàng phục ma quân, dứt hẳn thói quen chướng ngại, tới chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại còn mộng thấy mười phương vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức Phật, cũng nghe tiếng Phật kia bảo rằng: Thế giới đó, danh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đó, có trăm ngàn trăm ức muôn ức Bồ Tát, có trăm ngàn trăm ức muôn ức Thanh văn đệ tử cung kính vây quanh mà vì thuyết pháp. Lại mộng thấy mười phương vô lượng trăm ngàn trăm ức Phật vào Bát Niết bàn. Mỗi mỗi Phật kia sau vào Niết bàn đều có thí chủ cúng dường Thiết lợi la Phật, nên dùng bảy báu khởi xây vô lượng trăm ngàn trăm ức muôn ức Bảo tháp. Lại tại mỗi mỗi Bảo tháp đều đem vô lượng thượng diệu tràng hoa, hương xoa, hương bột cùng tràng phan lọng báu, các ngọc diệu trân kỳ quý lạ v.v… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, trải qua vô lượng kiếp.

Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này thấy tướng các loại mộng lành như thế, hoặc ngủ hoặc thức thân tâm nhẹ nhàng an vui. Các thiên thần… giúp ích tinh khí cho họ, khiến cho thân thể họ cảm thấy nhẹ nhàng. Do nhân duyên đây nên chẳng còn nhiều tham nhiễm đối với vật thực, thuốc men, y phục, đồ nằm; tâm họ không đặt nặng đối với bốn đồ cúng hiến. Như sư Du già nhập định thù thắng vi diệu, do sức định ấy tươi nhuận thân tâm; từ định xuất rồi, tuy gặp các thực vật ngon nhưng tâm vẫn khinh an. Đây cũng như thế. Vì sao? Vì các thiện nam, thiện nữ này do Tam thiên đại thiên thế giới đây và vô biên thế giới khác, tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Thanh văn, Bồ Tát, trời, rồng, dược xoa, kiện đạt phược, A tu la v.v… là những bậc đủ đại thần lực oai đức từ bi hộ niệm, đem diệu tinh khí thầm rót vào thân tâm, khiến cho họ ý chí dũng mãnh, thân thể tráng kiện.

Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam thiện nữ muốn được sở hữu công đức thắng lợi hiện tại như thế, nên phát tâm Nhất thiết trí trí, đem vô sở đắc làm phương tiện, đối Kinh điển Bát nhã Ba la mật chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, thơ tả giải nói, rộng khiến lưu bố.

Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam thiện nữ, tuy đối Kinh điển Bát nhã Ba la mật, chẳng năng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh siêng tu học, suy nghĩ đúng lý, rộng vì hữu tình tuyên nói lưu bố, mà chỉ biên chép, trang nghiêm bằng các báu, lại đem các phẩm thượng diệu tràng hoa, hương xoa, hương bột cùng tràng phan lọng báu, các ngọc diệu trân kỳ quý lạ… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, cũng được công đức thắng lợi như đã nói trước. Vì sao? Kiều Thi Ca! Các thiện nam, thiện nữ này làm lợi vui rộng lớn vô lượng vô biên các hữu tình vậy.

Lại nữa, Kiều thi ca! Nếu các thiện nam thiện nữ nào dùng tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Kinh Bát nhã Ba la mật thm thâm đây, chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh chuyên tu học, suy nghĩ đúng lý, rộng vì hữu tình tuyên nói lưu bố; hoặc lại biên chép, trang nghiêm bằng các báu, đem các phẩm vật thượng diệu như tràng hoa cho đến các ngọc diệu trân kỳ quý lạ…cúng dường, thì được nhóm phước vô lượng vô biên vượt hơn các hữu tình khác trọn đời đem vô lượng phẩm vật thượng diệu như vật thực, y phục, đồ nằm, thuốc men cúng dường mười phương thế giới tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử; cũng hơn hẳn các hữu tình khác cúng dường Thiết lợi la của mười phương Phật và đệ tử Phật sau khi vào Niết bàn, bằng cách dùng bảy báu xây dựng bảo tháp cao rộng trang nghiêm đẹp đẽ, lại đem vô lượng tràng hoa trời vi diệu, cho đến các ngọc diệu trân kỳ quý lạ… trọn đời cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Vì sao? Vì mười phương chư Phật và chúng đệ tử Phật đều sanh ra từ Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế.

 

Thích nghĩa:

(1). Tạng bí mật: Pháp tạng (kho pháp) rất sâu xa bí ẩn, duy có Phật với Phật mới biết rõ được, chứ chẳng phải pháp môn phổ thông mà mọi người đều có thể hiểu biết. Lại vì là pháp kín nhiệm được đức Như lai đặc biệt hộ niệm, nếu không phải người có căn khí, thì giữ kín không nói ra, cho nên gọi là Bí mật tạng. Bởi vậy, Bí mật tạng là tên chung của các Kinh hiển bày nghĩa rất sâu, bí ẩn. Trong Hiển giáo, Kinh Niết bàn quyển 2 (bản Nam và bản Bắc) lấy pháp thân, Bát Nhã, giải thoát là chẳng một chẳng khác làm Bí mật tạng. Nhưng, theo ý của Mật giáo, thì tất cả giáo pháp do hóa thân đức Thích ca nói là Hiển giáo, còn riêng giáo pháp do pháp thân đức Đại nhật nói mới là Bí mật tạng, cũng là tên gọi chung Chân ngôn nhất thừa. Không chỉ là pháp môn sâu kín, mà còn là pháp nội chứng cực kỳ bí mật của Như lai, vì thế, đối với người chưa quán đỉnh, quyết không tuyên nói chỉ bày. Cũng giống như Thanh văn thừa, đối với người chưa thụ giới, không thể nói giới Kinh cho họ nghe, bởi vậy, gọi giới Kinh là Bí mật tạng. (Từ diển Phật quang). Đã thích nghĩa rồi, chỉ nhắc lại để nhớ!

 

Lược giải:

 

- Phẩm này trước hết nói về tính cách thượng tôn của Bát Nhã trong sáu pháp Ba la mật. Vì Bát Nhã như người sáng mắt trong số những người mù bẩm sanh, thiếu Bát Nhã các Ba la mật không thể đến được bến bờ mong muốn. Bát Nhã là chỉ đạo, là thuyền trưởng giữa đại dương bao la. Bát Nhã như mặt trời đem ánh sáng cho muôn loài, thiếu ánh sáng là thiếu tất cả. Bát Nhã cũng như đất đem lại sự sống cho muôn loài, thiếu đất là thiếu mầm sống. Vì vậy, Bát Nhã mới được suy tôn hơn tất cả. Nên Phật bảo Khánh Hỷ:

“Khánh Hỷ phải biết: Do Bát nhã Ba la mật, nên có khả năng hồi hướng Nhất thiết tướng trí. Do hồi hướng Nhất thiết tướng trí, nên có khả năng khiến bố thí Ba la mật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng được đến bờ rốt ráo. Vậy nên, Bát nhã Ba la mật làm tôn làm dẫn đối năm Ba la mật trước cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, nên Ta chỉ rộng ngợi khen Bát nhã Ba la mật. Khánh Hỷ nên biết: Ví như đem hạt giống rải lên đại địa, các duyên hòa hợp thời được sanh trưởng. Nên biết đại địa là chỗ nương tựa, có khả năng kiến lập, làm cho các hạt giống sanh trưởng. Cũng vậy, Bát nhã và hồi hướng Nhất thiết tướng trí là chỗ nương tựa, có khả năng kiến lập, làm cho năm pháp Ba la mật trước cho đến mười tám pháp Phật bất cộng được sanh trưởng. Cho nên Bát nhã Ba la mật đây là tôn dẫn, là pháp dẫn đường cho năm Ba la mật trước cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Do đó, Ta chỉ rộng ngợi khen Bát Nhã Ba la mật”.

 

- Phần kế nói đến công đức của người thọ trì đọc tụng hay tôn thờ Bát Nhã. Phật bảo:

“Kiều thi ca! Nếu các thiện nam thiện nữ nào dùng tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát nhã Ba la mật đây, chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh chuyên tu học, suy nghĩ đúng lý, rộng vì hữu tình tuyên nói lưu bố; hoặc lại biên chép, trang nghiêm bằng các báu, đem các phẩm vật thượng diệu như tràng hoa cho đến các ngọc diệu trân kỳ quý lạ…cúng dường, thì được nhóm phước vô lượng vô biên vượt hơn các hữu tình khác trọn đời đem vô lượng phẩm vật thượng diệu như vật thực, y phục, đồ nằm, thuốc men cúng dường mười phương thế giới tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử; cũng hơn hẳn các hữu tình khác cúng dường Thiết lợi la của mười phương Phật và đệ tử Phật sau khi vào Niết bàn, bằng cách dùng bảy báu xây dựng bảo tháp cao rộng trang nghiêm đẹp đẽ, lại đem vô lượng tràng hoa trời vi diệu, cho đến các ngọc diệu trân kỳ quý lạ… trọn đời cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Vì sao? Vì mười phương chư Phật và chúng đệ tử Phật đều sanh ra từ Bát nhã thậm thâm như thế”.

 

Chúng tôi thiết nghĩ Đoạn năm, phẩm “So Lường Công Đức”, từ quyển 106 đến phần đầu quyển 127, Hội thứ I, ĐBN, hơn 20 quyển nói về đề tài này như thế là quá đủ, Quý vị có thể quay lại ôn tập nếu muốn. Kinh văn của Hội thứ II trôi chảy thông suốt, dễ đọc dễ hiểu, nhất là Kinh viết theo lối trần thuật, nên không cần dong dài, ai cũng có thể lãnh hội./.

 

---o0o---

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2590)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5764)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 113042)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5925)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5963)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6536)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12302)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8474)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14691)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25111)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567