Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

21. Phẩm “Tu Học”

08/01/202107:59(Xem: 6234)
21. Phẩm “Tu Học”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-527

 

 XXI. PHẨM “TU HỌC”

Giữa quyển 564, Hội thứ V, ĐBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

Tóm lược: 

 

(Ai là người học Bát Nhã bị trở ngại, ai không bị trở ngại?)

 

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu khi Bồ Tát tu học Bát nhã Ba la mật, ngày đêm siêng năng thường không lìa bỏ thì lúc ấy quyến thuộc của ma như bị tên găm vào tim, run sợ lo buồn, hoảng hốt, ngồi đứng chẳng yên.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu khi Bồ Tát tu học Bát nhã Ba la mật, ngày đêm tinh chuyên sẽ đạt đến Niết bàn, thì lúc ấy quyến thuộc của ma đi đến chỗ của Bồ Tát, biến làm các sự việc đáng sợ, muốn làm cho thân tâm Bồ Tát kinh sợ, khủng khiếp, mà thối thất Bồ đề tâm.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Chẳng phải các Bồ Tát tu học Bát nhã Ba la mật đều bị ác ma làm rối loạn hết cả. Nếu các Bồ Tát nào đời trước nghe Bát Nhã sâu xa này không có lòng tin hiểu, hủy báng, chê bai, thì các Bồ Tát ấy khi tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ Tát nghe Bát Nhã sâu xa, không có lòng tin hiểu, hủy báng, chê bai, thì các Bồ Tát ấy khi tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn, thì các Bồ Tát này khi tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ Tát xa lìa bạn lành, bị bạn ác khống chế, chẳng nghe nghĩa thú sâu xa của Bát Nhã. Do chẳng nghe nên chẳng thấy, chẳng biết làm thế nào để tu học Bát nhã Ba la mật, thì các Bồ Tát này khi tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ Tát bị pháp tà khống chế, khi ấy ác ma liền nghĩ: Bồ Tát này là bạn của ta, làm cho vô lượng chúng sanh xả bỏ chánh pháp, làm cho nguyện của ta được viên mãn, thì các Bồ Tát này tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ Tát khi nghe thuyết Kinh Bát Nhã sâu xa, bảo với các Bồ Tát khác: “Bát nhã Ba la mật này lý thú sâu xa, khó tin khó hiểu, như thế thì biên chép, thọ trì, đọc tụng làm gì? Nguồn gốc này chính ta còn chẳng thể đạt được, huống là những người trí cạn phước mỏng kia”, thì các Bồ Tát này khi tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ Tát khinh chê Bồ Tát khác, nói thế này: “Ta có thể an trụ hạnh chơn thật viễn ly, còn các ông đều chẳng có”. Bấy giờ ác ma vui mừng hớn hở thì các Bồ Tát này khi tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ Tát tự ỷ danh học và sở hành công đức Đỗ đa Đầu đà, mà khinh miệt các chúng Bồ Tát tu các pháp thắng thiện khác, thường khen mình và hủy báng chê bai các vị khác. Họ thật không có các hành tướng trạng của Bất thối chuyển mà cho mình có, nên phát sanh phiền não. Khi ấy, ác ma rất vui mừng, nghĩ: Bồ Tát này làm cho cung điện và quốc độ của ta chẳng trống không, mà còn tăng thêm cảnh giới địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Khi ấy ác ma giúp thần lực cho người kia, làm cho càng tăng thêm uy lực biện tài, do đó được nhiều người tin nhận lời của người kia. Nhân đó, khuyên phát đồng ác kiến như người kia. Ác kiến đồng rồi, học theo pháp tà của người kia. Học theo pháp tà rồi, phiền não thêm mạnh, vì tâm điên đảo nên phát sanh ba nghiệp, luôn nhận quả chẳng đáng ưa. Do nhân duyên này thêm nẻo ác, làm cho cung điện của ma càng thêm đông đảo. Cho nên ác ma vui mừng hớn hở, muốn làm điều gì đều tùy ý tự tại, thì các Bồ Tát này tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu khi Bồ Tát cầu Thanh văn, Độc giác thừa, chê bai, gây gỗ, phỉ báng nhau thì bấy giờ ác ma nghĩ: Nay Bồ Tát này tuy xa Bồ đề nhưng chẳng xa lắm, tuy gần nẻo ác nhưng chẳng gần lắm. Nếu khi Bồ Tát cùng với thiện nam thiện nữ trụ Bồ Tát thừa, chê bai gây gỗ, phỉ báng nhau thì khi ấy ác ma nghĩ: Hai Bồ Tát này rất xa Bồ đề, rất gần nẻo ác. Nghĩ xong, ma rất vui mừng hớn hở và cố làm tăng thêm uy lực của chúng tăng để cho hai bên bạn bè đấu tranh luôn chẳng dứt, khiến vô lượng, vô biên hữu tình khác đều rất nhàm chán Đại thừa. Các Bồ Tát này khi tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ma làm rối loạn.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ Tát chưa được thọ ký Bất thối chuyển Bồ đề, đối với các Bồ Tát đã được thọ ký Bất thối chuyển Bồ đề sanh tâm tổn hại, đấu tranh, khinh miệt, chê bai, mắng nhiếc, phỉ báng, tùy theo các Bồ Tát này phát khởi bao nhiêu tâm niệm chẳng lợi ích thì thối lui bấy nhiêu kiếp từng tu thắng hạnh, trải qua bấy nhiêu đời xa lìa bạn lành, lại chịu bấy nhiêu đời sanh tử ràng buộc. Nếu chẳng xả bỏ tâm đại Bồ đề thì phải trãi qua bấy nhiêu số kiếp mặc áo giáp hoằng thệ, siêng tu thắng hạnh không lúc nào gián đoạn, rồi sau mới được bù đắp lại bấy nhiêu công đức.

Bấy giờ Khánh Hỷ bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát này đã phát khởi tâm ác sanh tử tội khổ, thì cần phải luân hồi trải qua bấy nhiêu đời, hay ở nửa chừng cũng được ra khỏi? Các Bồ Tát này bị thối lui thắng hạnh thì cần phải siêng năng trải bấy nhiêu kiếp không lúc nào gián đoạn, rồi sau đó mới được bù đắp hay là ở nửa chừng có thể phục hồi lại như trước?

Phật bảo Khánh Hỷ:

- Ta vì Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn nói cách xuất tội và phục hồi lại thiện pháp.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu các Bồ Tát sau khi tạo tội này mà tâm không hổ thẹn, ôm ấp ác tâm không bỏ, chẳng chịu như pháp phát lồ sám hối, thì Ta nói: Hạng người ấy không thể ở nửa chừng được xuất tội khổ và phục hồi thiện pháp. Nếu các Bồ Tát sau khi tạo tội này càng sanh lòng hổ thẹn, chẳng ôm ấp tâm ác, tìm người pháp phát lồ sám hối, nghĩ thế này: Ta nay đã được thân người vốn khó được, sao lại để cho khởi lên tội lỗi như thế, làm cho mất lợi hành lớn! Ta nên làm lợi ích cho tất cả hữu tình, sao lại làm tổn hại chúng! Ta nên cung kính tất cả hữu tình như tôi tớ thờ chủ, sao lại kiêu mạn khinh miệt, hủy nhục chúng! Ta nên nhận chịu tất cả sự đánh đập, trách mắng của tất cả hữu tình, sao lại đem lời nói và hành động tàn bạo đáp lại chúng! Ta nên hòa giải tất cả hữu tình, làm cho kính mến nhau, sao lại đưa ra lời lẽ hung ác để chống chọi chúng! Ta nên chịu đựng tất cả hữu tình dẫm đạp mãi mãi như đường sá hay như chiếc cầu, sao lại trở lại lăn nhục chúng! Ta cầu quả vị Vô Thượng Bồ đề, vì cứu vớt khổ lớn sanh tử cho hữu tình, làm cho đạt được Niết bàn an vui rốt ráo, sao lại muốn đem khổ đến cho chúng? Từ nay cho đến tận đời vị lai, ta nên như si, như câm, như mù, như điếc, đối với các hữu tình không phân biệt. Giả sử có bị chém đứt đầu, chân tay, hoặc móc mắt, cắt tai, xẻo mũi, cắt lưỡi, cưa xẻ tất cả chi thể thân phần, đối với hữu tình kia, ta quyết không khởi ác. Nếu ta khởi ác thì liền thối thất tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chướng ngại cho sự cầu Nhất thiết trí trí, không thể làm lợi ích an vui cho hữu tình. Này Khánh Hỷ nên biết! Ta nói các Bồ Tát này nửa chừng có thể thoát khỏi tội và phục hồi lại thiện pháp, chẳng cần phải trải qua nhiều kiếp số như thế, chẳng bị ác ma làm rối loạn và mau chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Lại nữa, Khánh Hỷ! Các chúng Bồ Tát cùng với những vị cầu Thanh văn, Độc giác thừa như thế, chẳng nên giao thiệp. Giả sử cùng giao thiệp thì chẳng nên cùng ở chung. Giả sử cùng ở chung với họ thì chẳng nên cùng họ bàn luận, xác quyết, lựa chọn nghĩa lý, chớ nhân việc này để tâm phát sanh giận dữ, hoặc lại phát sanh lời lẽ thô ác, chướng ngại quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng hư hoại vô biên pháp Bồ Tát hạnh.

 

(Thế nào là đồng học?)

 

Nếu các Bồ Tát cùng thiện nam thiện nữ trụ Bồ Tát thừa cùng ở chung thì nên xem nhau như bậc Đại sư, cung kính, tôn trọng, vâng lời. Lại nghĩ: Chúng Bồ Tát kia là bạn lành chơn tịnh của chúng ta, đồng ngồi một thuyền, đồng đi một đường, đồng đến một chỗ, đồng một sự nghiệp, đồng học một thời, đồng học một chỗ và đồng học một giáo pháp. Nếu học như thế thì không khác nhau.

Lại nghĩ: Nếu Bồ Tát kia trụ ý nghĩ xen tạp thì ta sẽ không học chung với Bồ Tát ấy. Nếu Bồ Tát kia lìa ý nghĩ xen tạp thì ta sẽ thường cùng học tập với họ. Nếu có Bồ Tát khi học như thế thì mau chứng sở cầu Nhất thiết trí trí.

Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát vì tận nên học, vì bất sanh nên học, vì viễn ly nên học, vì diệt nên học, là học Nhất thiết trí trí phải không?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Nếu các Bồ Tát khi học như thế thì chẳng phải học Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do duyên nào, học như thế thì chẳng phải học là Nhất thiết trí trí?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Ý ngươi nghĩ sao? Phật chứng tướng như rất viên mãn nên gọi danh hiệu Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Như vậy, tướng như có thể gọi là tận cho đến diệt chăng?

Thiện Hiện bạch:

- Bạch Thế Tôn! Không! Vì sao? Vì như tướng là vô tướng, không thể nói là tận cho đến diệt vậy.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Thế nên, Bồ Tát khi học như thế chẳng phải là học Nhất thiết trí trí. Nếu các Bồ Tát chẳng vì tận nên học, cho đến chẳng vì diệt nên học, thì khi học như thế là học Nhất thiết trí trí, cũng là học Bát nhã Ba la mật, cũng học Địa, Lực, Vô sở úy v.v... của Phật và vô biên Phật pháp khác.

Thiện Hiện nên biết: Nếu các Bồ Tát khi học như thế là đạt đến chỗ rốt ráo của tất cả sự học. Thiên ma, ngoại đạo chẳng thể chinh phục; dứt trừ các điều ác, viên mãn các điều lành. Phần ít hữu tình có thể học như thế. Thế nên Bồ Tát muốn dự vào số hữu tình giác ngộ hiếm hoi ấy thì phải siêng năng tu học phương tiện thiện xảo Bát Nhã Ba la mật thậm thâm.

 

Sơ giải:

 

1. Phần đầu phẩm này hỏi ai là người có thể học Bát nhã Ba la mật không trở ngại và ai là người học Bát nhã Ba la mật có thể gặp nhiều chướng ngại?

Bồ Tát nào liên tục ngày đêm siêng năng tu tập, thọ trì không xa lìa Bát Nhã thì không bị các ác ma làm nhiễu loạn, làm cho kinh sợ có thể thối thất đạo Bồ đề. Ngược lại, Bồ Tát nào không có lòng tin hiểu, hủy báng, chê bai Bát nhã Ba la mật, lại bị bạn ác, bị tà pháp khống chế thường hay khinh chê các Bồ Tát khác thì khi tu học Bát nhã Ba la mật liền bị ác ma làm rối loạn.

Lại nữa, nếu các Bồ Tát chưa được thọ ký Bất thối chuyển Bồ đề, đối với các Bồ Tát đã được thọ ký Bất thối chuyển sanh tâm tổn hại, đấu tranh, khinh miệt, chê bai, mắng nhiếc, phỉ báng. Tùy theo các Bồ Tát này phát khởi bao nhiêu tâm niệm xấu ác thì thối lui bấy nhiêu kiếp từng tu thắng hạnh, trải qua bấy nhiêu đời xa lìa bạn lành, chịu bấy nhiêu đời sanh tử ràng buộc. Nhưng, nếu chẳng xả bỏ tâm đại Bồ đề thì phải trãi qua bấy nhiêu số kiếp mặc giáp bị đại công đức, siêng tu thắng hạnh không lúc nào gián đoạn, thì sau này mới được bù đắp lại bấy nhiêu tội lỗi đã tạo.

Nếu các Bồ Tát sau khi tạo tội này mà tâm không hổ thẹn, ôm ấp ác tâm không bỏ, chẳng chịu như pháp phát lồ sám hối, thì hạng người ấy không thể ở nửa chừng được xuất tội khổ và phục hồi thiện pháp. Nếu các Bồ Tát sau khi tạo tội sanh lòng hổ thẹn, chẳng ôm ấp ác tâm, lại tìm người phát lồ sám hối, thì mới có thể phục hồi lại thiện pháp.

 

2. Các Bồ Tát có hạnh nguyện tốt thì không nên giao thiệp với các Bồ Tát xấu ác. Nếu vì một lý do nào đó phải sống chung đụng với hạng xấu ác này thì cũng không nên bàn luận tranh cải với họ vì có thể gây giận dữ rồi phát sanh lời lẽ thô tục xấu ác, chướng ngại quả vị Vô Thượng Bồ đề, cũng như hủy hoại vô biên Bồ Tát hạnh. Nhưng nếu may mắn được ở chung với những vị có đạo hạnh thì nên kính lễ như đạo sư.

Còn đối với những người đồng học, đồng sở nguyện, cùng chí hướng thì phải có thái độ như thế nào? Kinh bảo:

“Nếu các Bồ Tát cùng thiện nam thiện nữ trụ Bồ Tát thừa cùng ở chung thì nên xem nhau như bậc Đại sư, cung kính, tôn trọng, vâng lời. Lại nghĩ: Chúng Bồ Tát kia là bạn lành chơn tịnh của chúng ta, đồng ngồi một thuyền, đồng đi một đường, đồng đến một chỗ, đồng một sự nghiệp, đồng học một thời, đồng học một chỗ và đồng học một giáo pháp. Nếu học như thế thì không khác nhau.

… Nếu Bồ Tát kia trụ ý nghĩ xen tạp thì ta sẽ không học chung với Bồ Tát ấy. Nếu Bồ Tát kia lìa ý nghĩ xen tạp thì ta sẽ thường cùng học tập với họ. Nếu có Bồ Tát khi học như thế thì mau chứng sở cầu Nhất thiết trí trí”.

Phần cuối phẩm này nói về học Nhất thiết trí trí và học “tướng như”. Nhiều pháp hội trước đã thuyết nhiều về các vấn đề này rồi, chúng ta gần như thuộc lòng. Nên không cần lặp lại nữa!

 

Điều cần nhớ trong phẩm này là đừng dùng tâmtận diệt ly biến”mà học Nhất thiết trí trí. Trong phẩm “Tùy Hỉ Hồi Hướng”cũng nói đến cụm từ này. Nếu đem tâm này tùy hỉ thì chẳng mang ích lợi gì./.

 

---o0o---

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2595)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5765)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 113077)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5927)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5971)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6539)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12312)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8479)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14695)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25129)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567