Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

51. Phẩm "Điều Phục Tham Đẳng"

31/08/202021:42(Xem: 7380)
51. Phẩm "Điều Phục Tham Đẳng"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-439

PHẨM "ĐIỀU PHỤC THAM ĐẲNG"

Giữa quyển 446, tập 18, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phẩm “Trí Hướng Đến”, phần cuối Q.316,

cho đến phần đầu Q.318, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le



 

Gợi ý:

Muốn cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì Bồ Tát phải điều phục thân tâm, bằng cách lấy sự điều phục tham, sân, si và xa lìa tham, sân, si làm tánh, làm tướng, làm trạng, làm mạo. Bởi lý do đó, nên phẩm này của Hội thứ II mới có tên là “Điều Phục Tham Đẳng”. Trong khi Hội thứ I thì gọi là “Trí Hướng Đến”. Dù dưới “danh nghĩa” nào, một khi Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật sanh tịnh tín và thắng giải thì đại Bồ Tát này có thể hướng đến Nhất thiết trí trí. Nếu có thể hướng đến Nhất thiết trí trí thì có thể làm nơi chốn, chỗ hướng về cho tất cả hữu tình.

Phẩm này của Hội thứ II tương đương với phẩm thứ 53, “Thú Nhất Thiết Trí”(Hướng Về Nhất Thiết Trí), tập 4, quyển 71, Đại Trí Độ Luận.

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Ai là người đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa thường sanh tịnh tín và thắng giải(1)?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với tâm cầu hướng đến, tinh tấn tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; đã từng cúng dường trăm ngàn, vô số đức Phật, ở chỗ chư Phật tu phạm hạnh lâu dài, phát thệ rộng lớn, thiện căn thuần thục, được vô lượng bạn lành giúp đỡ, hộ niệm, mới có thể đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa như thế thường sanh tịnh tín và thắng giải.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát thường đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa như thế sanh tịnh tín và thắng giải, thì tâm đại Bồ Tát này tánh như thế nào, tướng như thế nào, (hình) trạng như thế nào, dung mạo như thế nào?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa như thế sanh tịnh tín và thắng giải thì tâm Bồ Tát lấy sự điều phục tham, sân, si và xa lìa tham, sân, si làm tánh, làm tướng, làm trạng, làm dung mạo.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tâm đại Bồ Tát này lấy điều phục tham, sân, si và không tham, sân, si; xa lìa tham, sân, si và không tham, sân, si làm tánh; làm tướng; làm trạng; làm dung mạo.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào thành tựu tánh, tướng, trạng, mạo như thế thì tâm mới có thể đối với Bát nhã Ba la mật thường sanh tịnh tín và thắng giải.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát nào thường đối với Bát nhã Ba la mật sâu xa như thế sanh tịnh tín và thắng giải thì đại Bồ Tát này sẽ đến đâu?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này sẽ đến Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có phải đại Bồ Tát nào đạt được Nhất thiết trí trí thì đại Bồ Tát ấy có thể làm nơi hướng đến cho tất cả hữu tình?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói, đại Bồ Tát nào thường đối với Bát Nhã sâu xa như thế sanh tịnh tín và thắng giải thì đại Bồ Tát này thường hướng đến Nhất thiết trí trí. Nếu thường hướng đến Nhất thiết trí trí thì thường làm chỗ hướng đến cho tất cả hữu tình.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát này thường làm việc khó làm, nghĩa là mặc áo đội mũ bền chắc và nguyện: “Tôi sẽ độ thoát tất cả hữu tình, đều giúp họ chứng đắc Niết bàn rốt ráo”. Tuy làm việc như thế đối với hữu tình nhưng hoàn toàn không thấy hữu tình được độ?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này đã mặc áo mũ không thuộc sắc, cũng không thuộc thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc cho đến thức đều rốt ráo vô sở hữu, không Bồ Tát, không áo mũ. Nên nói áo mũ kia không thuộc sắc, cũng không thuộc thọ, tưởng, hành, thức. Đại Bồ Tát này đã mặc áo mũ không thuộc sắc cho đến Nhất thiết trí, cũng không thuộc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo đều vô sở hữu, không Bồ Tát, không áo mũ. Nên nói áo mũ kia không thuộc Nhất thiết trí, cũng không thuộc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Đại Bồ Tát này đã mặc áo mũ không thuộc tất cả pháp. Vì sao? Vì tất cả pháp đều rốt ráo vô sở hữu, không Bồ Tát, không áo mũ. Nên nói áo mũ kia không thuộc tất cả pháp.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này tu hành Bát Nhã sâu xa như thế, nên thường mặc áo mũ công đức như vầy: Ta sẽ độ tất cả hữu tình, giúp họ chứng đắc Niết bàn rốt ráo.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát nào thường mặc áo mũ bền chắc như vầy: Ta sẽ độ tất cả hữu tình, đều giúp họ chứng đắc Niết bàn rốt ráo thì Bồ Tát ấy không rơi vào bậc Thanh văn và Độc giác. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì đại Bồ Tát này an lập hữu tình không giới hạn nên mặc áo mũ bền chắc như thế.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Ông quán pháp nghĩa nào mà nói: Đại Bồ Tát thường mặc áo mũ bền chắc như thế thì không rơi vào bậc Thanh văn và Độc giác?

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát này không vì độ thoát phần ít hữu tình mà mặc áo mũ bền chắc như thế, cũng không vì cầu phần ít trí mà mặc áo mũ bền chắc như thế. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này vì cứu vớt khắp tất cả hữu tình, giúp họ vào Niết bàn mà mặc áo mũ bền chắc như thế; chỉ vì cầu được Nhất thiết trí trí mà mặc áo mũ bền chắc như thế. Do đó nên không rơi vào bậc Thanh văn và Độc giác.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế rất là sâu xa, Không kẻ năng tu, không pháp sở tu, cũng không chỗ tu, cũng không do đây mà được tu tập. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trong nghĩa sâu xa Bát nhã Ba la mật đây mà có phần ít thật pháp khá được gọi kẻ năng tu, pháp sở tu, hoặc nơi tu, hoặc do đây mà được tu tập.

Bạch Thế Tôn! Vì không phải trong nghĩa sâu xa của Bát nhã Ba la mật này mà có phần ít thật pháp có thể được gọi là người thường tu và pháp tu, hoặc chỗ tu, hoặc do đây mà được tu tập.

Bạch Thế Tôn! Như tu hư không là tu Bát Nhã. Như tu tất cả pháp là tu Bát Nhã. Như tu pháp không thật là tu Bát nhã Ba la mật. Như tu vô sở hữu là tu Bát nhã Ba la mật. Như tu vô nhiếp thọ là tu Bát nhã Ba la mật. Như tu trừ khiển là tu Bát nhã Ba la mật.

Phật hỏi:

- Thiện Hiện! Tu trừ khiển pháp nào là tu Bát nhã Ba la mật?

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tu trừ khiển(2) sắc là tu Bát nhã Ba la mật; tu trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển mười hai xứ, mười tám giới là tu Bát Nhã. Tu trừ khiển ngã là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả là tu Bát Nhã. Tu trừ khiển bố thí Ba la mật là tu Bát nhã Ba la mật; tu trừ khiển tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển pháp nội Không cho đến pháp vô tánh tự tánh Không là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển tứ Thánh đế cho đến ba mươi bảy pháp trợ đạo là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là tu Bát nhã Ba la mật. Nói gọn, tu trừ khiển tất cả các pháp Phật là tu Bát nhã Ba la mật.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nên y Bát nhã Ba la mật sâu xa như thế để quán sát đại Bồ Tát Bất thối chuyển. Đại Bồ Tát nào tuy hành Bát Nhã mà không chấp trước, nên biết đây là đại Bồ Tát Bất thối chuyển. Đại Bồ Tát nào tuy hành tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật mà không chấp trước, nên biết đây là đại Bồ Tát Bất thối chuyển. Đại Bồ Tát nào tuy hành pháp nội Không cho đến pháp vô tánh tự tánh Không mà không chấp trước, nên biết đó là đại Bồ Tát Bất thối chuyển. Đại Bồ Tát nào tuy hành chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì mà không chấp trước, nên biết đây là đại Bồ Tát Bất thối chuyển. Đại Bồ Tát nào tuy hành Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo mà không chấp trước, nên biết đây là đại Bồ Tát Bất thối chuyển. Đại Bồ Tát nào tuy hành bốn niệm trụ nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí mà không chấp trước, nên biết đây là đại Bồ Tát Bất thối chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát Bất thối chuyển khi hành Bát nhã Ba la mật sâu xa không quán lời người và sdạy răn của người khác cho là chơn yếu; không phải chỉ tin người có sở tác; không bị các tham dục, sân nhuế, ngu si, kiêu mạn v.v… làm ô nhiễm tâm, cũng không bị chúng dẫn dắt. Các đại Bồ Tát Bất thối chuyển khi hành Bát Nhã sâu xa không lìa bố thí cho đến Bát Nhã. Các đại Bồ Tát Bất thối chuyển khi hành Bát nhã Ba la mật, nghe thuyết Bát Nhã sâu xa như thế, không những chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi, chẳng nghi, chẳng hối, chẳng thối, chẳng chìm cũng chẳng lui bỏ sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà đối với Bát Nhã sâu xa lại vui thích muốn nghe, thọ trì, đọc tụng, thông hiểu tường tận, chánh niệm tư duy, như thuyết tu hành, không hề nhàm chán. Nên biết đại Bồ Tát này, đời trước đã từng nghe Bát nhã Ba la mật thọ trì, đọc tụng, chánh niệm tư duy v.v…

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào nghe thuyết Bát Nhã sâu xa như thế, tâm không kinh, không khủng, không hãi, không chìm, không đắm, cũng không lui bỏ sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; đối với Bát Nhã, vui mừng thích nghe, thọ trì, đọc tụng, thông hiểu tường tận, chánh niệm tư duy, tinh tấn tu hành, tâm không nhàm chán, đại Bồ Tát này tu hành Bát Nhã như thế nào?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này liên tục tùy thuận hướng đến Nhất thiết trí trí nên thực hành Bát nhã Ba la mật sâu xa như thế.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm sao đại Bồ Tát này liên tục tùy thuận hướng đến Nhất thiết trí trí, thực hành Bát nhã Ba la mật sâu xa?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nào liên tục tùy thuận hướng đến không, vô tướng, vô nguyện, như hư không, vô sở hữu, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, như chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, không tạo, không tác, như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như hình tượng, như bóng sáng, như sóng nắng, như việc biến hoá, như thành Tầm hương mà hành Bát Nhã, thì đây là đại Bồ Tát liên tục tùy thuận hướng đến Nhất thiết trí trí, thực hành Bát nhã Ba la mật sâu xa. (Q.446, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

Bạch Thế Tôn! Như đức Thế Tôn đã nói, nếu đại Bồ Tát liên tục tùy thuận hướng đến không, vô tướng, vô nguyện, cho đến như thành tầm hương hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, thì Bồ Tát này tiếp nối tùy thuận hướng đến Nhất thiết trí trí thực hành Bát Nhã thẳm sâu, ấy là Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu là hành sắc chăng? Là hành thọ tưởng hành thức chăng? Như vậy cho đến là hành Nhất thiết trí chăng? Là hành Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chăng?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này khi hành Bát nhã Ba la mật sâu xa không hành sắc, không hành thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, cho đến không hành Nhất thiết trí, không hành Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này đã tùy thuận hướng đến Nhất thiết trí trí, không kẻ có thể hành được, không kẻ có thể phá hoại được, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ, không phương cõi, không số lượng, không đi, không đến. Đã không số lượng, không đi, không đến, thì cũng chẳng thể nắm bắt, cũng chẳng thể chứng đắc vậy.

Thiện Hiện! Nhất thiết trí trí như thế không thể lấy sắc chứng, không thể lấy thọ, tưởng, hành, thức chứng. Như vậy, cho đến không thể lấy Nhất thiết trí chứng, không thể lấy Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chứng. Vì sao? Vì sắc tức là tánh Nhất thiết trí trí; thọ, tưởng, hành, thức tức là tánh Nhất thiết trí trí. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí tức là tánh Nhất thiết trí trí; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí tức là tánh Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì sắc như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như, đều một như, không hai không khác; hoặc thọ, tưởng, hành, thức như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như, đều một như, không hai không khác. Như vậy, cho đến hoặc Nhất thiết trí như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như, đều một như, không hai không khác; hoặc Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí như, hoặc Nhất thiết trí trí như, hoặc tất cả pháp như, đều một như, không hai không khác. Thế nên, Nhất thiết trí trí không thể lấy sắc chứng; không thể lấy thọ, tưởng, hành, thức chứng. Như vậy, cho đến không thể lấy Nhất thiết trí chứng; không thể lấy Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chứng.

 

Thích nghĩa:

(1). Thắng giải: (勝解) Phạm: Adhimokwa. Pàli:Adhimutti. Cũng gọi Tín giải. Tên của tâm sở, 1 trong 10 Đại địa pháp thuộc 75 pháp của Câu xá, 1 trong 5 Biệt cảnh thuộc 100 pháp của Duy thức. Nghĩa là sự hiểu rõ thù thắng, tức đối với các cảnh sở duyên (đối tượng nhận thức) khởi lên tác dụng phán đoán chính xác. Nhưng về tâm sở này, các phái giải thích có khác nhau. Thuyết Nhất thiết hữu bộ và tông Câu xá cho rằng Thắng giải là 1 trong 10 Đại địa pháp, có thể tương ứng với tất cả tâm sở, tức trùm khắp tất cả tâm. Luận Câu xá quyển 4, (Đại 29, 19 thượng) nói: Thắng giải nghĩa là đối với các cảnh có năng lực hiểu rõ chính xác. Tức bất luận là thị phi, tà chính, tác dụng của tâm sở này đều có thể quyết đoán rõ ràng, chính xác. Ví dụ khi tâm đối trước cảnh, dù cảnh đó là hoa hay trăng, tâm liền quyết đoán là hoa, là trăng, cho nên tất cả tâm đều có tâm sở này. Nhưng tông Duy thức thì cho rằng Thắng giải là 1 trong 5 Biệt cảnh, không có công năng trùm khắp tất cả tâm sở. Luận Thành duy thức quyển 5 (Đại 31, 28 trung) nói: Thế nào là thắng giải? Nghĩa là khi đối trước cảnh tâm quyết định rõ ràng, phán đoán chính xác, đó là Thắng giải; còn nếu đối trước cảnh tâm còn do dự, nghi ngờ, không thể quyết đoán, thì không phải là Thắng giải, không thể trùm khắp. Còn Thượng tọa bộ thì chủ trương Thắng giải chính là quyết định và không khác gì với Trí tướng. Thuyết Nhất thiết hữu bộ thì cho rằng ấn khả là tác dụng khác của Thắng giải, vì thế khác với Thắng giải hoặc Trí tướng. Luận Đại tì bà sa quyển 101 cho rằng Trạch diệt là tự tính của giải thoát vô vi, còn Thắng giải thì là tự tính của giải thoát hữu vi. [X. luận Phẩm loại túc Q.1; luận Đại tì bà sa Q.16, 28]. - Từ điển Phật Quang.

(2). Khiển có nghĩa là khiển trách, quở, lên án, phê phán. Tu trừ khiển: Tu để trừ bỏ bình phẩm hay phê phán, khen chê.

 

Lược giải:

 

1. Muốn chứng giác, muốn được Nhất thiết trí trí, muốn trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì Bồ Tát phải liên tục tùy thuận Không, Vô tướng, Vô tác, như hư không mà tu, tu vô sở hữu, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, không tạo, không tác, như mộng, như ảo, như trò biến hóa, như ảo thành. Vì Chánh giác, Nhất thiết trí trí, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không thể lấy sắc mà chứng, không thể lấy thọ tưởng hành thức mà chứng; cũng không thể lấy xứ giới mà chứng, cũng không thể lấy tất cả pháp Phật mà chứng. “Vì sao? Vì đại Bồ Tát đã tùy thuận hướng đến Nhất thiết trí trí, không kẻ có thể hành được, không kẻ có thể phá hoại được, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ, không phương cõi, không số lượng, không đi, không đến. Đã không số lượng, không đi, không đến, thì cũng chẳng thể nắm bắt, cũng chẳng thể chứng đắc vậy”.

 

Phẩm“Huệ Đến Bờ Kia”, quyển 527, Hội thứ III, ĐBN nói rõ ràng:

Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, nếu nhớ có sắc và nghĩ phải tu, như vậy là chẳng trừ khiển sắc, chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật. Nếu nhớ có thọ tưởng hành thức và nghĩ phải tu, như vậy là chẳng trừ khiển thọ tưởng hành thức, chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến nếu nhớ có dứt hẳn phiền não tập khí nối nhau và nghĩ phải tu, như vậy là chẳng trừ khiển dứt hẳn phiền não tập khí nối nhau, chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật. Nếu nhớ có Nhất thiết trí trí và nghĩ phải tu đây, như vậy là chẳng trừ khiển Nhất thiết trí trí, chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật.

Ngược lại, các đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, chẳng nhớ có sắc và chẳng nghĩ phải tu trừ khiển sắc, là tu Bát nhã Ba la mật. Chẳng nhớ có thọ tưởng hành thức và chẳng nghĩ phải tu trừ khiển thọ tưởng hành thức, là tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến chẳng nhớ có dứt hẳn phiền não tập khí nối nhau và chẳng nghĩ phải tu trừ khiển dứt hẳn phiền não tập khí nối nhau, là tu Bát nhã Ba la mật. Chẳng nhớ có Nhất thiết trí trí và chẳng nghĩ phải tu trừ khiển Nhất thiết trí trí, là tu Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì chẳng phải kẻ tưởng có dứt tham sân si, tùy miên trói buộc thường d tu Bát nhã Ba la mật.

Vậy nên, Tu Bồ Đề! Nếu đại Bồ Tát tu trừ khiển sắc, cũng trừ khiển tu đây, gọi tu Bát Nhã. Tu trừ khiển thọ tưởng hành thức, cũng trừ khiển tu đây gọi tu Bát Nhã. Nói rộng, cho đến tu trừ khiển dứt hẳn phiền não tập khí nối nhau và trừ khiển tu đây, gọi tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển Nhất thiết trí trí và trừ khiển tu đây, gọi tu Bát nhã Ba la mật”.

Nói nôm na tu trừ bỏ và trừ bỏ luôn “cái gọi là từ bỏ”. Đó chính là tu Bát Nhã. Nếu cứ nghĩ tưởng phải tu, phải hành, phải khiển, phải bỏ, phải chứng bất cứ pháp nào dù pháp đó mang nhiều công đức nhất thì cũng coi như chẳng tu Bát nhã Ba la mật. Nếu nhớ, nếu nghĩ ngũ uẩn là cái che đậy tánh giác thì nên khiển trừ cái nhớ cái nghĩ đó. Nhưng mỗi khi khởi niệm thì vọng sanh thì tâm không còn như như bất động nữa.

Khiển chính là một động niệm thì khiển cũng là cái đáng trừ, đáng bỏ. Do đó, Phật nói: “Tất cả pháp chẳng có tướng, chẳng không tướng. Nếu đại Bồ Tát biết tất cả pháp hoặc có tướng hoặc không tướng, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng, tu vô tướng đây là tu Bát nhã Ba la mật”. Vô tướng tức không. Thấy nhân không, pháp cũng không là thâm nhập được Bát nhã Ba la mật thì được an nhiên tịch lặng thôi.

Vậy lìa cũng bỏ, khiển cũng bỏ và cái bỏ sau cùng đó cũng không nên nói đến nữa. Như thế thì tâm hành diệt, ngôn ngữ đoạn, mới an trụ tánh không, hành cảnh vô tướng, nguyện không phân biệt, tâm mới tuyệt đối an nhiên tịch lặng. Bát Nhã nghịch đời ở chỗ đó, vì cái suy lý thường tục bằng ý thức, thấy cái gì nghịch lại thói quen tập tục thì phải trừ, phải lìa, phải khiển mà không biết rằng chính cái phải trừ, phải lìa, phải khiển là những biện pháp chống lại sự an tịnh của tâm, cái mà Bát Nhã gọi là vô niệm, vô tâm.

Cuối cùng Phật dạy: “… đại Bồ Tát nào thường đối với Bát Nhã sâu xa như thế sanh tịnh tín và thắng giải thì đại Bồ Tát này thường hướng đến Nhất thiết trí trí. Nếu thường hướng đến Nhất thiết trí trí thì thường làm chỗ hướng đến cho tất cả hữu tình”.

Đó là chúng ta chỉ giải quyết một vấn đề là tu trừ khiển.

 

2. Vấn đề thứ hai mắc mỏ quá! Kinh hầu hết chỗ nào cũng nói đến hai chữ “Không hành”, thí dụ không hành Bồ Tát đạo làm sao tiến đến Bồ đề? Làm sao hiện chứng, làm sao đắc quả mà được giải thoát?

Câu hỏi nếu không hành Bồ Tát đạo thì làm sao tiến đến Bồ đề? Câu hỏi này đặt đúng chỗ. Nhưng thêm mệnh đề sau: Làm sao hiện chứng? Làm sao đắc quả? Là sai. Vì có tưởng niệm, có chủ đích đằng sau tu hành thì gọi là hành có sở đắc! Tu thì cứ tu, hành thì cứ hành, không ai ngăn, không ai cản được. Mỗi khi có sở đắc là không đắc, không hiện quán. Nên kinh thường bảo là không hành hay hành như vô công dụng hạnh. V lại, nếu hành mà có nắm giữ chấp đắm là hành có sở đắc. Vì vậy, Phật dạy:

- “Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này khi hành Bát Nhã sâu xa không hành sắc, không hành thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, cho đến không hành Nhất thiết trí, không hành Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí”.

Phật bảo khi hành Bát Nhã là không hành sắc, không hành thọ tưởng hành thức. Vì sao? Vì ngũ uẩn còn gọi là ngũ che, nó che đậy tánh giác của chúng ta không cho thấy thật tướng của tất cả pháp. Nếu không thấy thật tướng của tất cả pháp thì làm sao giác ngộ. Nên không hành sắc thọ tưởng v.v… là phải. Vã lại, ngũ uẩn vô thường biến hoại sinh diệt làm sao hành được. Nhưng không hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết trí trí, 3 trí tối cao của những bậc chứng ngộ thì hành cái gì? Có lẽ không ai đồng ý với câu nói này.

Nhất thiết trí trí, không có kẻ hành được, không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ, không phương cõi, không số lượng. Đã không số lượng, không đi, không đến, vô sở hữu bất khả đắc thì làm sao nắm bắt, chứng đắc được. Vì sao? Vì tất cả pháp đều không chẳng khác nào huyễn mộng, không thể nắm bắt thì cũng chẳng thể chứng đắc. Đó là nói theo đệ nhất nghĩa đế. Trong đệ nhất nghĩa không có chứng không có đắc. Vì vậy, những điều Phật phát biểu đều làm cho chúng ta có cảm tưởng nghịch đời. Vì tất cả phàm phu đều thuận dòng thế gian, nói có chứng có đắc, còn người thuận theo chánh lý thì ngược với thế gian.

Tu đến độ nào đó chín mùi nứt vỡ thì đạt Tam minh, Ngũ nhãn, Lục thần thông, giác ngộ và đạt được Bát nhã trí… Phật muốn cũng không được, không muốn cũng không được. Khi giác ngộ, nhập chơn như, pháp giới rồi thì thấy thật tướng các pháp đều không, đều như: Sắc như, thọ tưởng hành thức như, Nhất thiết trí như, Đạo tướng trí như, Nhất thiết trí trí như, tất cả đều như không hai không khác. Người tri nhận tất cả các pháp chẳng lúc nào chẳng như, như đó là như thường tại, chẳng đến chẳng đi, chẳng biến hoại, nên gọi là Như Lai không khác!

 

Kết luận:

 

Kinh Bát nhã Ba la mật quá mênh mông, khó nắm vững hết toàn thể giáo lý do Phật thuyết. Học tới đâu ôn luyện tới đó. Phẩm này Phật nói làm sao thực hành Bát nhã Ba la mật? Câu trả lời là muốn thực hành thì phải tùy thuận Bát nhã Ba la mật, mà tùy thuận Bát Nhã là phải tùy thuận Nhất thiết chủng trí. Phải dùng “không, vô tướng, vô tác” để tùy thuận. Phải dùng “vô sở hữu, vô sanh, vô diệt, vô cấu, vô tịnh” mà tùy thuận. Phải dùng “như mộng, như huyễn, như diệm, như hưởng, như ảnh, như hóa” để tùy thuận. Như vậy, mới gọi là thực hành Bát nhã Ba la mật.

Nên Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 53, “Thú Nhất Thiết Trí”(Hướng về Nhất Thiết Trí), tập 4, quyển 71, mới nói rằng:

“Tùy thuận như vậy là chẳng hành sắc... dẫn đến chẳng hành Nhất thiết chủng trí. Vì sao? Vì Nhất thiết chủng trí là vô pháp, là thật pháp, chẳng phải là hữu vi pháp. Bởi vậy nên nói chỗ hành xứ của Bồ Tát là pháp vô tác (chẳng phải được làm ra), vô hoại (chẳng thể hoại), vô khứ (chẳng có đi), vô lai (chẳng có đến).

Như vậy là hết thảy các pháp chẳng phải theo 6 pháp Ba La Mật mà đến, cũng chẳng vào trong Phật pháp, nên là chẳng từ đâu đến và cũng chẳng đi về đâu.

Lại nữa, hữu vi pháp là hư vọng, nên là chẳng có chỗ trú, vô vi pháp chẳng thể ức tưởng phân biệt được, nên là chẳng có chỗ trú.

Do nơi 5 ấm hòa hợp mà khởi ra có 6 đường chúng sanh, khi 5 ấm chẳng còn tương tục nữa, thì cũng chẳng còn có 6 đường chúng sanh nữa. Lúc bấy giờ các tâm hành đều diệt, các ngôn ngữ đều đoạn.

Bởi vậy nên thực hành Bát Nhã Ba La Mật thậm thâm là chẳng hành sắc... dẫn đến chẳng hành Nhất thiết chủng trí. Vì sao? Vì sắc tức là Bát Nhã Ba La Mật... dẫn đến Nhất thiết chủng trí tức là Bát Nhã Ba La Mật. Vì sắc như tướng... dẫn đến Nhất thiết chủng trí như tướng, cùng với Bát Nhã Ba La Mật như tướng là nhất như, chẳng phải hai, chẳng phải khác”.

Lại nữa, “Người tu tập Bát Nhã phải biết rõ Bát nhã Ba la mật cùng hết thảy các pháp là rốt ráo không, nghĩa là 18 pháp không cũng không, Nhất thiết chủng trí cũng không, thật tướng tất cả pháp cũng không. Tuy biết tất cả pháp đều không hết nhưng chẳng thủ chấp “tướng không đó”. Vậy, phải niệm nhân không, pháp không thì sẽ được “tận không”.

Phải đổi lại câu nói của thiền sư D.T. Suzuki là “phòng sạch hết bụi là nhờ chổi, nhưng còn chổi thì phòng cũng không thể nói là trống không”(1). Được như vậy mới vào được Bát Nhã Tánh Không.

Lại nữa, tại sao nói Sắc tức là Bát nhã Ba la mật, Bát nhã Ba la mật tức là Sắc và tất cả pháp đều như thế cả. Bởi vì tất cả pháp đều là như, đều cùng một “tướng như”. Nên nói, Bát nhã Ba la mật hay Sắc cũng ngang đồng với tất cả pháp, cái gọi là như tướng, là “nhất như tướng”. Nên có thể nói: Bát Nhã có khả năng soi thấy thế giới như thế là như thế, thấy các pháp trong bản tính như thực của chúng. Đấy là cái thấy xuyên qua tướng trạng để trực ngộ được chân tánh của vạn hữu mà tuyên bố rằng thấy như thế là thấy các pháp như trong chơn như thật tướng của chúng. Vì vậy, mới nói tất cả pháp không hai không khác.

 Vì sao nói như như không hai không khác? Bởi vì tất cả pháp sanh ra trong cùng một bào thai gọi là Như Lai tạng, nên cùng là anh em với nhau, tất cả đều bình đẳng. Nhập được pháp như rồi, sống trong thắng nghĩa, tức nhập được chơn như pháp giới. Nên thấy tất cả pháp bình đẳng không hai không khác.

Phẩm “Chơn Như” kế kiếp sẽ cho ta nhãn quang kỳ diệu này.

Thích nghĩa cho phần lược giải:

(1). Câu nói của Thiền sư D.T. Suzuki nguyên văn là: “Phòng được quét sạch là nhờ chổi; nhưng nếu còn chổi thì không phải là Không tuyệt đối”. Chúng tôi đổi ra là: “Phòng sạch hết bụi là nhờ chổi, nhưng còn chổi thì phòng cũng không thể nói là trống không”. Trông không hay là rỗng không sẽ dẫn đến vô thức, vô niệm, vô tâm mà chứng tánh.

 

---o0o---

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2594)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5765)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 113064)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5927)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5965)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6538)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12306)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8476)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14693)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25118)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567