Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. Phẩm “Không Buộc Không Mở” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

08/08/202009:17(Xem: 8532)
15. Phẩm “Không Buộc Không Mở” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Phật tử Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Phật tử Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
2.15.Không Buộc Không Mở - HL

 

PHẨM “KHÔNG BUỘC KHÔNG MỞ”



Phần đầu quyển 413, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Giáp Bị Đại Thừa”,

cuối quyển 49 đến đầu quyển 51, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc:  Quảng Thiện Hùng Jordan Le






 

Tóm lược:

 

(Tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát năng mặc giáp bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa. Nếu Bồ Tát năng mặc giáp bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi, đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa. Nếu Bồ Tát năng mặc giáp nội không cho đến vô tánh tự tánh không, đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa. Nếu Bồ Tát năng mặc giáp Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa. Nếu Bồ Tát năng mặc giáp Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa. Nếu Bồ Tát năng tự biến thân tướng như Phật, phóng đại quang minh soi ba ngàn cõi, cho đến thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng, làm việc nhiêu ích cho các hữu tình, đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát mặc giáp bị công đức như thế, phóng đại quang minh soi ba ngàn cõi, cho đến thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng, cũng khiến các cõi kia sáu thứ biến động vì các hữu tình làm đại nhiêu ích. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát thường mặc giáp bị đại công đức bố thí Ba la mật, khắp hóa Tam thiên đại thiên thế giới như ngọc phệ lưu ly, cũng hóa tự thân làm Đại luân vương, bảy báu quyến thuộc, không thứ nào chẳng viên mãn. Các loại hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần áo cho áo, cần xe cho xe; cần hương xoa, hương bột, hương đốt, tràng hoa, phòng nhà đồ nằm, thuốc men, đèn đuốc và các thứ cần dùng khác, thứ gì đều thí cho. Làm thí này rồi, lại vì tuyên nói pháp tương ưng sáu pháp đến bờ kia, khiến họ nghe rồi trọn chẳng sa đọa, được Vô Thượng Bồ đề, thường chẳng rời bỏ pháp tương ưng sáu pháp đến bờ kia. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.

- Thiện Hiện! Như huyễn sư hoặc học trò y, ở ngã tư đường, trước đại chúng hóa làm các loại hữu tình nghèo khốn, cần thứ gì đều thí cho. Ý ông nghĩ  sao? Việc huyễn như thế có thật chăng?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Bồ Tát cũng lại như thế. Năng mặc giáp bị đại công đức bố thí Ba la mật, hoặc hóa thế giới như phệ lưu ly, hoặc hóa tự thân làm Luân vương, tùy loại hữu tình cần dùng thứ gì thì thí cho thứ ấy, và tuyên nói pháp tương ưng sáu pháp đến bờ kia. Như vậy, Bồ Tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức tịnh giới Ba la mật, vì hữu tình nên sanh nhà Luân vương, nối ngôi Luân vương, giàu sang tự tại, an lập vô lượng trăm ngàn ức chúng hữu tình nơi mười thiện nghiệp đạo; hoặc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; hoặc không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; hoặc Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng vì tuyên nói các pháp như thế khiến an trụ, cho đến được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối pháp như thế thường chẳng rời. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.

Thiện Hiện! Như huyễn sư hoặc học trò y, ở giữa ngã tư đường, trước đại chúng hóa làm vô lượng trăm ngàn hữu tình, khiến an trụ mười thiện nghiệp đạo, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Ý ông nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Bồ Tát cũng lại như thế. Vì hữu tình nên sanh nhà Luân vương, nối ngôi Luân vương, giàu sang tự tại, an lập vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng hữu tình nơi mười thiện nghiệp đạo, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Như vậy Bồ Tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng hữu tình mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật.

Thiện Hiện! Như thế nào Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng hữu tình khiến mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật?

Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát từ sơ phát tâm đến được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mặc giáp an nhẫn Ba la mật, thường khởi nghĩ này: Giả sử tất cả loại hữu tình đều cầm dao gậy gia hại, ta trọn chẳng khởi tâm hờn giận trong một sát na, khuyên các hữu tình cũng tu nhẫn này. Bồ Tát đây như tâm đã nghĩ đều được thành xong, cho đến chứng được Nhất thiết trí trí thường chẳng rời bỏ an nhẫn như thế; cũng khiến hữu tình tu nhẫn như thế. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát Ma ha tát mặc giáp bị Đại thừa.

Thiện Hiện! Như huyễn sư hoặc học trò y ở giữa đường ngã tư, trước đại chúng hóa làm nhiều loại hữu tình, hoặc cầm dao gậy gia hại lẫn nhau; hoặc khuyên nhau tu hạnh an nhẫn. Ý ông nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Bồ Tát cũng lại như thế. Tự mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng khiến mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật. Như vậy, Bồ Tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy. 

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng khiến mặc giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật.  

Thiện Hiện! Như thế nào là Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng hữu tình khiến mặc giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật?

- Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, thân tâm tinh tấn dứt các ác pháp bất thiện, tu các thiện pháp, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng hữu tình tu tập thân tâm tinh tấn như thế, cho đến chứng được Nhất thiết trí trí thường chẳng rời chính siêng như thế. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.

Thiện Hiện! Như huyễn sư hoặc học trò y, ở giữa ngã tư đường, trước đại chúng hóa làm nhiều thứ các loại hữu tình tự tu tinh tấn, cũng khuyên người tu tinh tấn. Ý ông nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Bồ Tát cũng lại như thế. Đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, tự tu tinh tấn, cũng khuyên hữu tình khiến tu tinh tấn. Như vậy, Bồ Tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy. 

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức tĩnh lự Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng khiến mặc giáp bị đại công đức tĩnh lự Ba la mật.

Thiện Hiện! Như thế nào là Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức tĩnh lự Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng khiến mặc giáp bị đại công đức tĩnh lự Ba la mật?

Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát trụ trong định tất cả pháp bình đẳng, chẳng thấy các pháp có định có loạn mà thường tu tập tĩnh lự Ba la mật như thế, cũng khuyên hữu tình tu tập tĩnh lự bình đẳng như thế; cho đến chứng được Nhất thiết trí trí thường chẳng bỏ rời tĩnh lự như thế. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.

Thiện Hiện! Như huyễn sư hoặc học trò y, ở giữa ngã tư đường, trước đại chúng hóa làm nhiều thứ các loại hữu tình khiến tu tĩnh lự các pháp bình đẳng, cũng khuyên nhau tu tĩnh lự như thế. Ý ông nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Bồ Tát cũng lại như thế. Trụ trong định tất cả pháp bình đẳng, cũng khuyên hữu tình tu định như thế. Như vậy Bồ Tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát tự mặc giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng khiến mặc giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật.

Thiện Hiện! Như thế nào là Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng khiến mặc giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật?

Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát trụ Bát nhã Ba la mật thẳm sâu vô hý luận, chẳng đắc các pháp hoặc sanh hoặc diệt, hoặc nhiễm hoặc tịnh, sai khác đây kia; cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng an trụ huệ vô hý luận như thế. Đây là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.

Thiện Hiện! Như huyễn sư hoặc học trò y ở giữa ngã tư đường, trước đại chúng hóa làm nhiều thứ các loại hữu tình; tự mình an trụ huệ vô hý luận, cũng khuyên người trụ huệ như thế. Ý ông nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Bồ Tát cũng lại như thế. Tự năng an trụ huệ vô hý luận, cũng khuyên hữu tình trụ huệ như thế. Như vậy Bồ Tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy. 

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát mặc giáp bị công đức như trên đã nói, quan sát thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng thấy hữu tình, nhiếp thọ tà pháp, làm các ác hành. Bồ Tát này dùng sức thần thông tự biến bản thân đầy khắp thế giới chư Phật như thế, tùy hữu tình kia ưa muốn thị hiện, tự hiện tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Cũng khuyên người hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Khuyên các hữu tình hành hạnh này rồi lại tùy âm loại, nói pháp tướng tương ưng sáu thứ Ba la mật, khiến kia nghe rồi cho đến chứng được Nhất thiết trí trí thường chẳng rời diệu pháp như thế. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát Ma ha tát mặc giáp bị Đại thừa.

Thiện Hiện! Như huyễn sư hoặc học trò y ở giữa ngã tư đường, trước đại chúng hóa làm các nhiều loại hữu tình, tự mình an trụ sáu pháp đến bờ kia, cũng khiến khuyên người an trụ pháp này. Ý ông nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Bồ Tát cũng lại như thế. Khắp thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng tự hiện nơi thân tùy nghi an trụ sáu pháp đến bờ kia, cũng khuyên hữu tình khiến trụ hạnh này thường chẳng rời bỏ. Như vậy, Bồ Tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát mặc giáp các công đức như trên đã nói, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, lợi ích an vui tất cả hữu tình, chẳng tạp tác ý Thanh văn, Độc giác. Bồ Tát này chẳng khởi nghĩ đây: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi bố thí và cácBa la mật khác, ngần ấy hữu tình chẳng đáng an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi sáu pháp Ba la mật.

Chẳng khởi nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi nội không cho đến vô tánh tự tánh không, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Chẳng khởi nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, ngần ấy hữu tình chẳng đáng an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Chẳng khởi nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi tam giải thoát môn, ngần ấy hữu tình chẳng đáng an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi tam giải thoát môn. Chẳng khởi nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi Phật mười lực cho đến 18 pháp Phật bất công, ngần ấy hữu tình chẳng đáng an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi Phật mười lực cho đến 18 pháp Phật bất cộng. Chẳng khởi nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi quả Dự lưu cho đến quả vị A la hán, ngần ấy hữu tình chẳng đáng an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi quả Dự lưu cho đến quả vị A la hán.Cũng chẳng khởi nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi Phật Vô Thượng Bồ đề, ngần ấy hữu tình chẳng đáng an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.

Thiện Hiện! Như huyễn sư hoặc học trò y ở giữa ngã tư đường, trước đại chúng hóa làm nhiều loại hữu tình, số ấy vô lượng.  Tùy sở ưng phương tiện an lập khiến trụ bố thí, cho đến khiến trụ chư Phật Vô Thượng Thiện Hiện đáp rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Bồ Tát cũng lại như thế. Đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, an lập vô lượng vô số vô biên các loại hữu tình khiến trụ bố thí cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Như vậy Bồ Tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.

 

(Tất cả pháp tự tướng không)

 

Bấy giờ, Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật nói, các Bồ Tát chẳng mặc giáp bị công đức(1), phải biết đấy là mặc giáp bị Đại thừa(2). Vì sao? Vì tất cả pháp tự tướng không vậy. Vì sao? Vì sắc cho đến thức, tướng sắc cho đến thức không. Nhãn xứ cho đến ý xứ, tướng nhãn xứ cho đến ý xứ không. Sắc xứ cho đến pháp xứ, tướng sắc xứ cho đến pháp xứ không. Nhãn giới cho đến ý giới, tướng nhãn giới cho đến ý giới không. Sắc giới cho đến pháp giới, tướng sắc giới cho đến pháp giới không. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới, tướng nhãn thức giới cho đến ý thức giới không. Nhãn xúc cho đến ý xúc, tướng nhãn xúc cho đến ý xúc không. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, tướng nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không.

Bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật, tướng bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật không. Bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, tướng bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo không. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không, tướng nội không cho đến vô tánh tự tánh không, không.Như vậy Phật mười lực cho đến mười tám Phật bất cộng, tướng Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không. Bồ Tát, tướng Bồ Tát không. Mặc giáp bị đại công đức, tướng mặc giáp bị đại công đức không.

Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên này, các Bồ Tát chẳng mặc giáp bị công đức, phải biết đấy là mặc giáp bị Đại thừa.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Như vậy! Như ngươi đã nói. Thiện Hiện phải biết: Nhất thiết trí trí vô tạo vô tác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác. Các Bồ Tát vì việc đây nên mặc giáp bị Đại thừa.

 

(Nói về bất khả đắc, vô tạo vô tác)

 

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:   

- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên nào Nhất thiết trí trí vô tạo vô tác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác? Vì việc này nên các Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Người tạo tác(tác giả)bất khả đắc, nên Nhất thiết trí trí vô tạo vô tác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác. Vì sao? Vì sắc chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Thọ tưởng hành thức chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Vì sắc cho đến thức rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Thập nhị xứ, thập bát giới chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Thập bát giới chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Thập nhị xứ, thập bát giới rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Vì nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Ngã chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Vì ngã cho đến kiến giả rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Cảnh mộng chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vang, tượng, việc huyễn, bóng sáng, ánh nắng, không hoa, thành tầm hương, việc biến hóa chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Vì cảnh mộng cho đến việc biến hóa rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Nội không chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán vô tán không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Vì nội không cho đến vô tánh tự tánh không rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Ba mươi bảy pháp trợ đạo cho đến Như Lai mười lực chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Chơn như chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Vì chơn như cho đến thật tế rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Bồ Tát chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Vì Bồ Tát, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Nhất thiết trí chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo bất khả đắc vậy.

Thiện Hiện! Do nhân duyên đây Nhất thiết trí trí vô tạo vô ác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác. Các Bồ Tát Ma ha tát vì việc này nên mặc giáp bị Đại thừa. Thiện Hiện! Do nghĩa này nên các Bồ Tát chẳng mặc giáp bị công đức. Phải biết đấy là mặc giáp bị Đại thừa.

 

(Nói về các pháp không buộc không mở ví như mộng, như hóa)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật nói, sắc không buộc không mở, thọ tưởng hành thức không buộc không mở.

Khi ấy, Mãn Từ Tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Tôn giả bảo rằng sắc không buộc không mở, thọ tưởng hành thức không buộc không mở chăng?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Tôi bảo sắc không buộc không mở, thọ tưởng hành thức không buộc không mở.

Mãn Từ Tử bảo:

- Những gì là sắc không buộc không mở? Những gì là thọ tưởng hành thức không buộc không mở?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Như mộng sắc không buộc không mở. Như mộng thọ tưởng hành thức không buộc không mở. Như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như việc huyễn, như không hoa, như thành tầm hương, như việc biến hóa sắc không buộc không mở. Như vang cho đến như việc biến hóa thọ tưởng hành thức không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức vô sở hữu nên không buộc không mở. Vì xa lìa nên không buộc không mở. Vì vắng lặng nên không buộc không mở. Vì vô sanh nên không buộc không mở. Vì vô nhiễm nên không buộc không mở. Vì vô tịnh nên không buộc không mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Quá khứ sắc không buộc không mở. Quá khứ thọ tưởng hành thức không buộc không mở. Vị lai hiện tại sắc không buộc không mở. Vị lai hiện tại thọ tưởng hành thức không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức vô sở hữu nên không buộc không mở. Vì xa lìa nên không buộc không mở. Vì vắng lặng nên không buộc không mở. Vì vô sanh nên không buộc không mở. Vì vô diệt nên không buộc không mở. Vì vô nhiễm nên không buộc không mở. Vì vô tịnh nên không buộc không mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Sắc thiện không buộc không mở. Thọ tưởng hành thức thiện không buộc không mở.  Sắc bất thiện, vô ký không buộc không mở. Thọ tưởng hành thức bất thiên, vô ký không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức vô sở hữu nên không buộc không mở. Vì xa lìa nên không buộc không mở. Vì vắng lặng nên không buộc không mở. Vì vô sanh nên không buộc không mở. Vì vô diệt nên không buộc không mở. Vì vô nhiễm nên không buộc không mở. Vì vô tịnh nên không buộc không mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Sắc thế gian không buộc không mở, thọ tưởng hành thức thế gian không buộc không mở. Sắc xuất thế gian không buộc không mở, thọ tưởng hành thức xuất thế gian không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức vô sở hữu nên không buộc không mở. Vì xa lìa nên không buộc không mở. Vì vắng lặng nên không buộc không mở. Vì vô sanh nên không buộc không mở. Vì vô diệt nên không buộc không mở. Vì vô nhiễm nên không buộc không mở. Vì vô tịnh nên không buộc không mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Sắc hữu lậu không buộc không mở, thọ tưởng hành thức hữu lậu không buộc không mở. Sắc vô lậu không buộc không mở, thọ tưởng hành thức vô lậu không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức vô sở hữu nên không buộc không mở. Vì xa lìa nên không buộc không mở. Vì vắng lặng nên không buộc không mở. Vì vô sanh nên không buộc không mở. Vì vô diệt nên không buộc không mở. Vì vô nhiễm nên không buộc không mở. Vì vô tịnh nên không buộc không mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tất cả pháp không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả pháp vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, nên vô tịnh, nên không buộc không mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Bố thí Ba la mật không buộc không mở. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật không buộc không mở. Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, nên vô tịnh, nên không buộc không mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nội không cho đến vô tánh tự tánh không, chơn như cho đến thật tế… không buộc không mở. Ba mươi bảy pháp trợ đạo cho đến Như Lai mười lực không buộc không mở. Bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không buộc không mở. Vì sao? Vì nội không cho đến 18 pháp Phật bất cộng vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, vô tịnh, nên không buộc không mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nhất thiết trí không buộc không mở. Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không buộc không mở. Vì sao? Vì ba Thánh trí vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, vô tịnh, nên không buộc không mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Bồ Tát không buộc không mở. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không buộc không mở. Vì sao? Vì Bồ Tát, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, vô tịnh, nên không buộc không mở.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tất cả hữu vi không buộc không mở, tất cả vô vi không buộc không mở. Vì sao? Vì hữu vi, vô vi vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, vô tịnh, nên không buộc không mở.

Mãn Từ Tử! Các Bồ Tát đối bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật; bốn niệm trụ cho đến Nhất thiết tướng trí không buộc không mở như thế, đem vô sở đắc mà làm phương tiện nên siêng tu học.

 

(Đem vô sở hữu làm phương tiện mà tu hành Bát Nhã)

 

Mãn Từ Tử! Các Bồ Tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện nên trụ bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật; bốn niệm trụ cho đến Nhất thiết tướng trí không buộc không mở như thế.

Mãn Từ Tử! Các Bồ Tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện nên thành thục hữu tình không buộc không mở. Nên nghiêm tịnh cõi Phật không buộc không mở. Nên thân cận cúng dường chư Phật không buộc không mở. Nên nghe thọ pháp môn không buộc không mở.

Mãn Từ Tử! Bồ Tát này thường chẳng xa lìa chư Phật không buộc không mở, thường chẳng xa lìa thần thông không buộc không mở, thường chẳng xa lìa năm nhãn không buộc không mở, thường chẳng xa lìa các Đà la ni không buộc không mở, thường chẳng xa lìa các Tam ma địa không buộc không mở.

Mãn Từ Tử! Bồ Tát Ma ha tát này phải khởi Đạo tướng trí không buộc không mở. Phải chứng Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí không buộc không mở. Phải quay xe pháp không buộc không mở. Phải đem pháp yếu tam thừa không buộc không mở, an lập các loại hữu tình không buộc không mở.

Mãn Từ Tử! Nếu Bồ Tát tu hành sáu pháp Ba la mật không buộc không mở, năng chứng tất cả pháp tánh không buộc không mở. Vì vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, vô tịnh, nên không buộc không mở.

Mãn Từ Tử! Phải biết Bồ Tát này được gọi kẻ mặc giáp bị Đại thừa không buộc không mở.

 

Thích nghĩa:

(1). Mặc giáp bị công đức: Kinh MHBNBLMĐ gọi là “đại thệ trang nghiêm” cũng gọi “hoằng thệ nguyện”: Thệ nguyện rộng lớn bao trùm khắp cả chúng sanh. Nguyện nghĩa của tiếng Phạm là mặc giáp lớn, tức là lập thệ nguyện rộng lớn cứu độ chúng sanh để thành tựu Vô thượng Bồ đề. Cụm từ đại thệ nguyện trang nghiêm diễn tả xác nghĩa và dễ hiểu hơn “mặc áo giáp lớn”. Thích nghĩa của cụm từ này đã giải thích trong phẩm “Ma Ha Tát”, nay lặp lại để nhớ.

(2). “Đại Bồ Tát chẳng mặc giáp bị công đức, thì nên biết đó là mặc giáp bị Đại thừa”. Nguyên văn bản chữ Hán ĐBN là: Bồ Tát Ma Ha Tát .bất hoàn công đức khải .đương tri thị vi .hoàn Đại Thừa khải”.

“Đại Bồ Tát chẳng mặc giáp bị công đức, thì nên biết đó là mặc giáp bị Đại thừa”. Cách dịch trên không có gì sai trái. Tuy nhiên, câu này có vẽ khó hiểu nếu so với lối dịch của Kinh MHBNBLMĐ: “Đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là đại trang nghiêm”.

Đứng về phương diện chiết tự giải thích như thế. Nhưng đứng về nghĩa: “Đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là đại trang nghiêm”, luận Đại Trí Độ giải thích rằng:

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Theo nghĩa mà con được nghe Phật nói thì chẳng trang nghiêm mới là đại trang nghiêm. Vì sao? Vì các pháp đều là tự tướng không.

Hỏi: Vì sao ngài Tu Bồ Đề lại hỏi Phật như vậy?

Đáp: Theo nghĩa Phật dạy thì “phát đại trang nghiêm” hàm súc ý nghĩa quá thậm thâm, khó biết khó giải, nên chúng sanh ở trong chúng hội khởi tâm nghi, khi nghe nói trang nghiêm là rốt ráo không. Họ dấy niệm nghĩ rằng việc dùng thần thông đi khắp mười phương thế giới là việc làm của chư Phật và chư Bồ Tát, họ chẳng làm sao có thể biết được.

Do biết rõ tâm niệm của chúng sanh trong chúng hội như vậy, nên ngài Tu Bồ Đề mới chỉ cho họ biết rằng nghĩa “đại trang nghiêm” chẳng phải quá thậm thâm, chẳng phải quá khó biết, khó giải. Ngài nói rằng vì “đại trang nghiêm” là tự tướng không, nên dễ thành, dễ được vậy.

Vì sao? Vì sắc,… dẫn đến thức chẳng có định tướng, nên là bất khả đắc, tứ niệm xứ,… dẫn đến thập bát bất cộng pháp chẳng có định tướng, nên là bất khả đắc, Vô Thượng Bồ Đề, Nhất Thiết Trí, Nhất Thiết Chủng Trí, Bồ Tát, Phật cũng chẳng có định tướng, nên đều là bất khả đắc cả.

Nếu có Bồ Tát biết rõ được các pháp đều là tự tướng không, đều là tịch diệt tướng mà chẳng sợ hãi, chẳng bỏ mất bản nguyện của mình, vẫn thường tinh tấn hành đạo, thì phải biết đó là vị Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại thệ trang nghiêm.

Vậy nên, phát đại thệ trang nghiêm chẳng phải là việc khó làm, khó được.

 

--o0o--

           

Phật ấn chứng lời nói của ngài Tu Bồ Đề, và dạy rằng: Đúng như vậy, đúng như vậy. Vì Nhất Thiết Chủng Trí chẳng phải là tác pháp (phi tác pháp), chúng sanh cũng chẳng phải là tác pháp, nên Bồ Tát vì chúng sanh phát đại thệ trang nghiêm. Vì sao? Vì tác giả là bất khả đắc, nên Nhất Thiết Chủng Trí cũng như chúng sanh đều chẳng phải là tác pháp. Hết thảy các pháp đều chẳng do ai làm ra (phi tác), và đều chẳng phải chẳng làm ra (phi bất tác), đều là như huyễn, như hóa, đều là bất khả đắc cả.

Bồ Tát vì chúng sanh phát đại thệ nguyện trang nghiêm. Nhưng Bồ Tát không, chúng sanh không, Nhất thiết chủng trí cũng không phải tác pháp. Không có tác giả, không có thọ giả, không có tác pháp. Tất cả đều bất khả đắc. Biết như vậy, nên không chấp. Nên Bồ Tát vẫn thành thục chúng sanh, trang nghiêm thanh tịnh Phật độ. Chẳng có gì để trang nghiêm, nhưng vẫn tu Đại thừa vẫn trang nghiêm Phật độ, nên gọi là đại trang nghiêm.

 

Sơ giải:

 

Có nắm bắt, có tung có hứng… là có thủ xả, có dính mắc, quái ngại. Có dính mắc, quái ngại nên có trói buộc, có trói buộc mới cần tháo gỡ. Suốt đời loanh quanh, hết buộc rồi gỡ, hết gỡ rồi buộc, tự mình làm rối mình, làm sao giải thoát? Các pháp tự nó bất động, trơ lì như gỗ đá, nên gọi là trì độn. Tất cả pháp vô sở hữu bất khả đắc, tự tánh xa lìa, tự tánh vắng lặng, vốn vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, trơ lì ra đó, làm gì có trói, có mở? Tự mình cảm thọ, tham ái… muốn thủ giữ nắm bắt hay buông bỏ tức chấp chặt mà bị trói. Vì vậy, nên có thể nói “có vọng cầu thì có vọng sanh”. Đó chính là triền phược, là hệ lụy!

Nếu biết như vậy, không dấy niệm, không thủ tâm chấp tướng tức không lay không chuyển, không hành thì không còn bị trói, tâm mới được an nhiên tịch lặng, nên nói là giải thoát! Nhưng giải thoát là giải thoát cái gì? Giải thoát đi đâu? Đó cũng chỉ là vô vi vô tác như như bất động, thì được an nhiên tự tại, chẳng có gì khác!

Vì vậy, trước khi giải thích pháp môn “không buộc không mở” Phật thuyết các pháp như huyễn như mộng, các pháp là trì độn trơ lì như gỗ đá, các pháp tự tánh vắng lặng xa lìa, vô nhiễm vô tịnh, các pháp là không, vô tác, bất khả đắc… nếu như vậy thì làm sao có phược có thoát được. Để quản diễn thêm ý này, Bồ Tát Long Thọ trong phẩm thứ 17, “Trang Nghiêm”, tập 3, quyển 46, Đại trí Độ Luận nói:

“Trong chúng hội, có người nghe Phật dạy rằng các pháp đều là như huyễn, như hóa, lại dấy niệm nghĩ rằng: Thập bát không nhằm phá các pháp tướng là có thật dụng. Như vậy vì sao lại nói các pháp đều chẳng được làm ra, là phi tác?

Phật dạy: Nội không,… dẫn đến vô pháp hữu pháp không, tứ niệm xứ,…, dẫn đến thập bát bất cộng pháp v.v... đều là vô sở tác cả. Vậy nên biết rằng thập bát không cũng là hư dối, chẳng thật có, là vô sở tác vậy.

Dẫn đến pháp như, pháp tướng, pháp tánh, pháp vị, thật tế đều là chân thật pháp, nhưng bản thể vốn là vô tác.

Tùy theo nghiệp nhân duyên mà trở thành hữu tác, thành ra có pháp hữu vị; mỗi mỗi đều do cộng nhân mà có vậy. Còn pháp vô vi là do đối đãi với pháp hữu vi mà có.

Bởi nhân duyên như vậy, nên Phật nói pháp như, pháp tướng, pháp tánh, pháp vị, thật tế cũng đều là vô sở tác, đều là rốt ráo bất khả đắc. Dẫn đến Nhất Thiết Chủng Trí, Bồ Tát, Phật cũng đều là như vậy.

 

--o0o--

 

Lại nữa, các pháp đều là vô phược, vô thoát; mà chúng sanh chấp các pháp tướng nên ở nơi khổ xứ khó giải thoát, mới nghĩ rằng: Phật pháp rất khó làm, rất khó được.

Ngài Tu Bồ Đề thấu rõ tâm niệm của chúng sanh nên bạch Phật: Theo nghĩa mà con nghe được Phật nói, thì ngũ ấm là vô phược, vô thoát, là rốt ráo không, là bất khả đắc. Như vậy chẳng có tác giả, nên chẳng có trói buộc (vô phược) chẳng có cởi mở (vô thoát).

Phật dạy: Phàm phu chấp các pháp mà chẳng biết các pháp đều là hư dối, là bất khả đắc, là vô phược, vô thoát. Còn các bậc Thánh, thấy rõ các pháp đều là rốt ráo không, đều là vô phược, vô thoát. Bồ Tát thấy rõ ngũ ấm cùng các pháp thiện, bất thiện, vô ký trong 3 đời đều là như mộng, như huyễn, đều là vô sở hữu, là bất khả đắc. Dẫn đến như pháp tánh, thật tế cũng như vậy.

Bồ Tát biết rõ các pháp đều là tự tánh ly, tự tánh tịch diệt, tự tánh bất sanh, đều là vô sở hữu, là bất khả đắc, nên được vô phược, vô thoát.

Bồ Tát trú nơi Trung Đạo, dẫn dắt chúng sanh thoát ly phiền não, nên nói là vô phược, vô thoát, lại chẳng dùng vô lậu để phá các pháp tướng nên nói là vô thoát.

Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, tịnh Phật độ quốc, dẫn đến được đầy đủ các thần thông, đầy đủ năm nhãn, các đà la ni và các tam muội mà vẫn chẳng rời Phật, an lạc chúng sanh trong tam thừa đạo, mà vẫn vô phược, vô thoát. Vì sao? Vì Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp đều là vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là bất sanh, là rốt ráo không vậy.

Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại thệ trang nghiêm, với đầy đủ các nhân duyên như vậy, nên được vô phược, vô thoát./.

 

---o0o---

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2590)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5764)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 113027)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5925)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5963)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6535)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12299)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8473)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14690)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25107)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567