Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

57. Phẩm “Khen Pháp Chắc Thật” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

12/07/202009:39(Xem: 8644)
57. Phẩm “Khen Pháp Chắc Thật” (Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu, Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên, Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le)

57_Pham Khen Phap Chat That



TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

 

 

PHẨM “KHEN PHÁP CHẮC THẬT”(1)
Phần sau quyển 342 đến phần đầu quyển 346, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Hư Không” quyển thứ 21, MHBNBLM)

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le





 

 

Tóm lược:

 

Xá lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật sâu xa là hành pháp chắc thật hay là hành pháp không chắc thật?

Thiện Hiện đáp:

- Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật sâu xa, là hành pháp không chắc thật, chẳng phải hành pháp chắc thật. Vì sao? Thưa Tôn giả! Vì Bát nhã Ba la mật không chắc thật; tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật cũng không chắc thật.

Thưa Tôn giả Xá lợi Tử! Vì pháp không nội không chắc thật, pháp không ngoại không chắc thật cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng không chắc thật; chơn như pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế… cũng không chắc thật; 12 xứ, 18 giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí…; bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không chắc thật; tám giải thoát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không chắc thật; Nhất thiết trí… cho đến Bồ Tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối cao cũng không chắc thật.

Thưa Tôn giả Xá lợi Tử! Nhất thiết trí trí cũng không chắc thật. Vì sao?

Thưa Tôn giả Xá lợi Tử! Vì Bồ Tát khi hành Bát Nhã, đối với Bát Nhã thấy “pháp chắc thật” chẳng khá nắm bắt được huống chi thấy “pháp không chắc thật”; đối với tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí, thấy pháp chắc thật chẳng khá nắm bắt được, huống chi thấy có pháp không chắc thật.

Đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã, đối với pháp không nội thấy pháp chắc thật chẳng khá nắm bắt được, huống chi thấy có pháp không chắc thật; đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại… cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng thấy pháp chắc thật chẳng khá nắm bắt được, huống chi thấy có pháp không chắc thật; đối với chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế… cũng thấy pháp chắc thật chẳng khá nắm bắt được, huống chi thấy có pháp không chắc thật khá được; đối với mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cũng thấy pháp chắc thật chẳng khá nắm bắt được, huống chi thấy có pháp không chắc thật. Đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã, đối với Bồ Tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối cao của chư Phật cũng thấy pháp chắc thật chẳng khá nắm bắt được, huống chi thấy có pháp không chắc thật khá được.

Khi ấy, các Thiên tử cõi Dục, cõi Sắc đều nghĩ: Nếu thiện nam thiện nữ nào có khả năng phát tâm cầu chứng quả vị Giác ngộ tối cao, như nghĩa hạnh mà Bát Nhã đã nói, học tất cả pháp mà không chứng thật tế, để nhập Niết bàn thì chẳng rơi vào bậc Thanh văn và Độc giác. Đại Bồ Tát ấy rất hiếm có, có khả năng làm việc khó làm, phải nên kính bái.

Biết tâm niệm của các Thiên tử, nên Thiện Hiện bảo: Đại Bồ Tát ấy chẳng chứng thật tế, chẳng rơi vào bậc Thanh văn và Độc giác, chưa phải là hy hữu. Nếu đại Bồ Tát biết tất cả pháp và các hữu tình đều chẳng thể nắm bắt được mà phát tâm cầu quả vị Giác ngộ tối cao, mang giáp bị đại bi, độ vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, làm cho chứng đắc Niết bàn rốt ráo, thì đại Bồ Tát ấy mới rất hiếm có, có khả năng làm việc khó làm.

Này các thiên tử! Nên biết, các đại Bồ Tát mang giáp bị đại bi, là vì muốn điều phục tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình hoàn toàn vô sở hữu, như có người mang giáp bị đánh nhau với hư không.

Này các thiên tử! Nên biết, các đại Bồ Tát mang giáp bị đại bi vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình và giáp bị đại bi đều chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Này các thiên tử! Vì hữu tình xa lìa, nên biết giáp bị đại bi này cũng xa lìa; vì hữu tình rỗng không, nên biết giáp bị đại bi này cũng rỗng không; vì hữu tình chẳng chắc thật, nên biết giáp bị này cũng không chắc thật; vì hữu tình vô sở hữu, nên biết giáp bị này cũng vô sở hữu.

Đại Bồ Tát ấy, tuy biết hữu tình hoàn toàn vô sở hữu, nhưng phát tâm cầu quả vị Giác ngộ, mang giáp bị đại bi muốn điều phục các loài hữu tình, nhưng sự điều phục ấy chẳng khác nào điều phục hư không. Vì sao? Vì hư không xa lìa, nên biết tất cả hữu tình cũng xa lìa; vì hư không rỗng không, nên biết tất cả hữu tình cũng rỗng không; vì hư không không chắc thật, nên biết tất cả hữu tình cũng không chắc thật; vì hư không vô sở hữu, nên biết tất cả hữu tình cũng vô sở hữu. Vì vậy, đại Bồ Tát ấy rất hiếm có, có khả năng làm việc khó làm.

Nên biết, việc điều phục phúc lạc cho các hữu tình của các đại Bồ Tát cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì hữu tình xa lìa, nên biết sự điều phục cũng xa lìa; vì hữu tình rỗng không, nên biết sự điều phục cũng rỗng không; vì hữu tình chẳng chắc thật, nên biết sự điều phục cũng không chắc thật; vì hữu tình vô sở hữu, nên biết sự điều phục phúc lạc này cũng vô sở hữu.

Nên biết, các đại Bồ Tát cũng vô sở hữu. Vì sao? Vì hữu tình xa lìa, nên biết đại Bồ Tát cũng xa lìa; vì hữu tình rỗng không, nên biết đại Bồ Tát cũng rỗng không; vì hữu tình không chắc thật, nên biết đại Bồ Tát cũng không chắc thật; vì hữu tình vô sở hữu, nên biết đại Bồ Tát cũng vô sở hữu.

Đối với Bát Nhã tất cả đều rỗng không: Các pháp kể cả hữu tình, Bồ Tát đều rỗng không, vô sở hữu, bất khả đắc, thì có gì có thể nói là chắc hay không chắc. Học Bát Nhã, hành Bát Nhã như hành hư không. Nếu đại Bồ Tát nghe như vậy mà tâm chẳng chìm đắm, chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng lo buồn, hối tiếc, thì nên biết đại Bồ Tát ấy có thể tu hành Bát nhã Ba la mật thâm sâu.

Lìa sắc nên lìa hữu tình; lìa thọ, tưởng, hành, thức nên lìa hữu tình; lìa 12 xứ, 18 giới, lìa 4 thiền, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến lìa quả vị Giác ngộ tối cao nên lìa hữu tình.

Lìa sắc nên lìa lục Ba la mật; lìa thọ, tưởng, hành, thức nên lìa lục Ba la mật; lìa sắc nên lìa pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại…cho đến pháp không không tánh tự tánh; lìa thọ, tưởng, hành, thức nên lìa pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh; lìa sắc nên lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế v.v…; lìa thọ, tưởng, hành, thức nên lìa chơn như cho đến thật tế v.v…; lìa sắc nên lìa Tứ Thánh đế; lìa thọ, tưởng, hành, thức nên lìa Tứ Thánh đế; lìa sắc nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; lìa thọ, tưởng, hành, thức nên lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc v.v…

Cũng như vậy, vì lìa ba mươi bảy pháp trợ đạo, ba môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, thập vị Bồ Tát, ngũ nhãn, lục thần thông, Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí, tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa, bốn quả Thanh văn, Bích Chi Phật, tất cả Bồ Tát hạnh, quả vị Giác ngộ tối cao tức là lìa tất cả pháp Phật. Vì lìa tất cả pháp Phật như thế nên xa sáu pháp Ba la mật, xa Nhất thiết chủng trí và xa lìa luôn quả vị Vô Thượng Bồ đề. (Q.345, ĐBN)

 

(Cứ lìa một pháp thì xa một pháp, nếu lìa tất cả pháp Phật thì không còn pháp nào để tu để học nữa! Nếu không còn pháp nào để tu để học thì làm sao chứng, làm sao độ? Không phải tác giả Bát Nhã cố ý nói như vậy. Bát Nhã muốn nói bản chất tất cả pháp đều chẳng phải có, đều viễn ly, vì tất cả pháp đều vắng lặng, vì tất cả pháp đều vô sở hữu, đều không sanh diệt... chẳng thể nắm bắt được, nên gọi là pháp không chắc thật.

Thật ra, không có pháp chắc thật hay không chắc thật. Chắc hay không chắc là nhị nguyên pháp. Pháp Phật bất nhị. Nói có nói không chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh: Pháp không chắc thật có nghĩa là không kiên cố, không bền chắc, nên phải xa lìa. Đừng bám víu vào chúng mà khổ lụy thân tâm. Nếu không bám, thì không hệ lụy hay nói khác nếu không bám víu chúng thì không bị trói buộc bởi chúng. Nếu không bị trói buộc thì được tự tại, tâm chẳng chìm, chẳng đắm, chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng lo buồn, hối tiếc. Nên Kinh nói tiếp:

 

Nếu đại Bồ Tát nghe nói các pháp viễn ly mà tâm chẳng chìm, chẳng đắm, chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng lo buồn, hối tiếc, thì nên biết đại Bồ Tát ấy đã từng tu hành thậm thâm Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì tất cả pháp đều chẳng phải có, nên các đại Bồ Tát đối với Bát Nhã, tâm chẳng chìm, chẳng đắm. Vì tất cả pháp đều viễn ly, vì tất cả pháp đều vắng lặng, vì tất cả pháp đều vô sở hữu, vì tất cả pháp đều không sanh diệt, nên các đại Bồ Tát đối với Bát Nhã, tâm chẳng chìm, chẳng đắm. Do những nhân duyên như thế, nên các đại Bồ Tát đối với Bát Nhã, tâm chẳng chìm, chẳng đắm. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát đối với tất cả pháp hoặc năng chìm đắm, hoặc sở chìm đắm, hoặc thời chìm đắm, hoặc xứ chìm đắm, hoặc sự chìm đắm, do đó mà chìm đắm, đều chẳng thể nắm bắt được, vì tất cả pháp chẳng thể nắm bắt được. Nếu các đại Bồ Tát nghe nói như vậy, tâm chẳng chìm, chẳng đắm, chẳng kinh, chẳng sợ v.v… thì nên biết đại Bồ Tát ấy đã từng tu hành thậm thâm Bát nhã Ba la mật. (Q.346, ĐBN)

Nếu đại Bồ Tát thường tu hành Bát Nhã như thế, không những Thiên Đế Thích, Đại Phạm Thiên vương, các chúa tể thế giới thường kính lễ mà trời Cực quang tịnh, hoặc trời Biến tịnh, hoặc trời Quảng quả, hoặc trời Tịnh cư và các chúng trời khác, thường cung kính lễ bái, cả đến tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới khắp mười phương cũng thường hộ niệm.

Nếu đại Bồ Tát ấy thường tu hành Bát Nhã như vậy, thì không những làm cho việc tu hành Bát Nhã sớm được viên mãn mà còn làm cho tất cả pháp Phật và các thiện căn công đức sớm hoàn thành, mau chứng quả Vô Thượng Bồ đề.

Nếu đại Bồ Tát thành tựu hai pháp: Một là quán các pháp đều rốt ráo không; hai là chẳng bỏ hữu tình thì vô lượng ác ma trong hằng sa thảy chẳng có thể cản trở phá hoại, chẳng có thể ngăn cản sự tu hành Bát Nhã, cũng chẳng thể phá hoại sở cầu quả vị Vô Thượng Giác ngộ. Các đại Bồ Tát chỉ thành tựu được hai pháp ấy đúng như lời chư Phật đã nói thời được chư Phật thường hộ niệm.

Nếu các đại Bồ Tát thường an trụ Bát Nhã như thế, thì chư Phật hiện tại trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới mười phương, ở giữa đại chúng hoan hỷ, tán dương, khen ngợi danh tự dòng họ và các công đức của các đại Bồ Tát ấy.

Bồ Tát tu hành Bát Nhã mặc dù đối với tánh vô sanh, đối với tánh không, đối với tánh tịch tịnh, đối với tánh viễn ly, đối với tánh vô sở hữu, đối với tánh chẳng tự tại, đối với tánh chẳng chắc thật của tất cả pháp, phát sanh tin hiểu sâu sắc, cũng chưa chắc chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Nếu các Bồ Tát đối với Bát nhã Ba la mật mà Phật đã thuyết phát sanh lòng tin thanh tịnh, trụ đúng lời, hành đúng như lời. Trụ và hành đúng như lời sẽ được Vô sanh pháp nhẫn, rồi an trụ trong Nhất thiết chủng trí, sẽ chứng Vô Thượng Bồ đề.

Tu Bồ Đề bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Nếu như đức Phật nói chư đại Bồ Tát trụ đúng như lời, hành đúng như lời, sẽ an trụ trong Nhất thiết chủng trí? Đại Bồ Tát không pháp để được thì thế nào lại có thể an trụ trong Nhất thiết chủng trí?

- Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát trụ trong pháp như đó là an trụ Nhất thiết chủng trí.

- Bạch đức Thế Tôn! Trừ như ra, không còn pháp nào để được thì ai trụ trong như, trụ trong như rồi sẽ được Vô Thượng Bồ Đề? Ai trụ trong như để thuyết pháp? Như ấy còn chẳng thể được, huống là trụ trong như được Vô Thượng Bồ Đề? Không bao giờ có ai trụ trong như để thuyết pháp?

- Này Tu Bồ Đề! Đúng như vậy. Trừ như ra không còn pháp nào để được, ai trụ trong như, trụ trong như rồi sẽ được Vô Thượng Bồ Đề, ai trụ trong như để thuyết pháp. Như ấy còn chẳng thể được, huống là ai trụ trong như được Vô Thượng Bồ Đề. Ai trụ trong như để thuyết pháp. Tại sao vậy? Như ấy không có sanh, không có diệt, không có trụ, không có dị. Nếu pháp không có sanh, diệt, trụ, dị thì trong đó ai sẽ trụ như. Ai sẽ trụ như mà thuyết pháp. Không bao giờ có việc đó.

Tới đây, Thích Đề Hoàn Nhân thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Ở trong Bát nhã Ba la mật thậm thâm muốn được Vô Thượng Bồ Đề rất là khó. Tại sao vậy? Vì không có ai trụ trong như, cũng không ai được Vô Thượng Bồ Đề, cũng không ai thuyết pháp? Đối với pháp tánh thậm thâm, tâm chẳng kinh sợ, các việc như thế rất là hi hữu?

Cụ thọ Thiện Hiện bảo Thích đề Hoàn nhân:

Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, quán tất cả  pháp, không pháp nào đều chẳng không. Nghĩa là quán tất cả pháp hữu sắc không, pháp vô sắc cũng không. Quán tất cả pháp hữu kiến không, pháp vô kiến cũng không. Quán tất cả pháp hữu đối không, pháp vô đối cũng không. Quán tất cả pháp hữu lậu không, pháp vô lậu cũng không. Quán tất cả pháp hữu vi không, pháp vô vi cũng không. Quán tất cả pháp thế gian không, pháp xuất thế gian cũng không. Quán tất cả pháp vắng lặng không, pháp chẳng vắng lặng cũng không. Quán tất cả pháp xa lìa không, pháp chẳng xa lìa cũng không. Quán tất cả pháp quá khứ không, pháp vị lai, hiện tại cũng không. Quán tất cả pháp thiện không, pháp bất thiện, vô ký cũng không. Quán tất cả pháp cõi Dục không, pháp cõi Sắc, Vô sắc cũng không. Quán tất cả pháp học không, pháp vô học, chẳng phải học, chẳng phải vô học cũng không. Quán tất cả pháp thấy đoạn không, pháp tu đoạn, chẳng phải đoạn cũng không. Quán tất cả pháp hữu không, pháp vô, pháp phi hữu phi vô cũng không. Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, quán tất cả pháp như thế thảy đều không. Trong các pháp không đều vô sở hữu, thì ai chìm, ai đắm, ai sợ, ai kinh, ai nghi, ai ngại? Vậy nên, Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát tu hành sâu sắc Bát nhã Ba la mật, đối với pháp tánh sâu xa, tâm chẳng chìm đắm, chẳng sợ, chẳng kinh, không nghi, không ngại, là việc dĩ nhiên.

Thích đề Hoàn Nhân nói:

- Những điều Tôn giả đã nói tất cả đều nương không, vậy nên không ngăn ngại. Ví như lấy tên bắn hư không hoặc xa hoặc gần đều không ngăn ngại. Tôn giả đã nói cũng lại như vậy, còn ai có thể dám đối chất.

 

(Tất cả pháp đều không, đều không chắc thật, thì làm sao tu hành pháp không, tu pháp không chắc thật mà được Vô Thượng Bồ đề? Vậy mà có người vẫn tiếp tục tu hành và vẫn có người do pháp nầy mà chứng đắc quả vị Vô Thượng Giác ngộ tiếp nối dòng giống Phật. Đó chính là cái ẩn áo vi diệu của Bát nhã Ba la mật. Cái đó mới hi hữu!

Kinh nhấn mạnh các pháp không, các pháp không bền chắc, các pháp đều như, vô sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Nếu hiểu như vậy, tu như vậy, hành như vậy thì không có chướng ngại, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Ở đây, kinh không khen pháp chắc thật hay chẳng chắc thật, kiên cố hay chẳng kiên cố mà ở đây kinh mật ý nói hành mà không thấy năng hành, sở hành, đó là vô đạo hành. Hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật).

 

Thích nghĩa:

(1). Kinh Đại Bát Nhã do HT. Thích Trí Nghiêm dịch từ Hán sang Việt có hai bản, một bản đăng ở thuvienhoasen.org dịch nguyên văn câu chữ Hán kiên đẳng tán phẩm” là phẩm “Khen tánh chắc thật”; bản khác đăng ở tuvienquangduc.com lại dịch là phẩm “Khen bền chắc thảy”; trong khi Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa do Ngài Thích Trí Tịnh cũng dịch từ Hán sang Việt lại dùng “Pháp chơn thật”. Và câu mở đầu nguyên văn bản chữ Hán là: Bồ Tát Ma Ha Tát . hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời . vi hành kiên thật pháp . vi hành kiên thật pháp da” . Cụm từ “hành kiên thật pháp” có thể tạm dịch là “hành pháp chắc thật”, vì từ “kiên” có nghĩa là chắc chắn, bền chắc hay kiên cố. Hội thứ II, có phẩm tựa “Kiên Cố, Chẳng Kiên Cố”, website thưvienhoasen. org lại dùng từ “kiên cố”. Từ chắc thật, bền chắc, kiên cố, kiên định dịch từ chữ Hán “堅固.

 

Lược giải:

 

Phật dùng nhiều phương tiện khác nhau để chỉ rõ thiên sai vạn biệt của tất cả pháp trên thế gian này. Bằng nhiều cách diễn tả khác nhau, Phật bảo: Các pháp nào là giả danh, chỉ có tên gọi, không có tự tánh; nào là rỗng không, không tánh không tướng, không thể không dụng; nào là như huyễn, như mộng vì không thật có chỉ do duyên hợp; nào là như, như vậy là như vậy, chẳng lúc nào chẳng như, như đó bình đẳng, bình đẳng đó gọi là thanh tịnh… Tới đây, Phật nói về tánh các pháp: Bền chắc hay chẳng bền chắc.

Tất cả những chỉ dẫn đó không ngoài chủ đích ngăn chận chúng sanh không nên dùng cảm quan và ý thức nhìn vạn hữu phơi bày trước mắt bằng cái nhìn “duy thực”. Cái thấy biết ngây ngô dễ sanh phân biệt chấp trước. Và một khi chấp trước sẽ đưa đến thiên lệch, nghiêng ngả làm nhiễu loạn thân tâm, không thể tu hành được. Vì sao? Vì những cảm thọ dễ sanh phiền não chướng và ý thức dễ sanh sở tri chướng. Có chướng là có phiền não, mà phiền não thì đi ngược với giác ngộ thì làm sao tu, làm sao chứng.

Vì vậy, Phật bảo “Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thặm thâm, là hành pháp không chắc thật, chẳng phải hành pháp chắc thật. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật không chắc thật; tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật cũng không chắc thật”. Không những lục Ba la mật không chắc thật, mà tất cả pháp Phật kể cả Vô Thượng Bồ đề cũng không chắc thật. Vì sao? Vì tất cả pháp vô sở hữu, không thể nắm bắt được”. Mong cầu, nắm bắt chẳng khác nào nắm bắt một làn hương. Cái có được không phải từ ngoài vào, đuổi bắt chẳng khác nào bỏ hình bắt bóng. Nếu biết bóng chẳng khác hình, vậy bỏ hình bắt bóng hay bỏ bóng bắt hình chẳng khác nhau, cũng không ngoài nắm bắt. Biết vậy, thì đừng nương vịn vào các pháp, cũng đừng mong cầu, nắm bắt nữa.

Kinh nói: “Đối với Bát Nhã tất cả đều rỗng không: Các pháp kể cả hữu tình, Bồ Tát đều rỗng không, vô sở hữu, bất khả đắc, thì có gì có thể nói là chắc hay không chắc. Học Bát Nhã, hành Bát Nhã như hành hư không. Nếu đại Bồ Tát nghe như vậy mà tâm chẳng chìm đắm, chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng lo buồn, hối tiếc, thì nên biết đại Bồ Tát ấy có thể tu hành sâu sắc Bát nhã Ba la mật”.

 

Còn nương vịn hay nắm bắt là còn hệ lụy hay bị trói buộc bởi pháp. Không nương vịn, không nắm bắt cũng không xa lìa. Xa lìa Tứ đế thì không có Thanh văn, xa lìa Thập nhị nhân duyên thì không có Bích Chi Phật, xa lìa lục Ba la mật thì không có Bồ Tát. Lìa một pháp thì mất một pháp, lìa tất cả pháp Phật thì không còn gì để học, để tu. Phải “mượn chỉ để đưa diều qua khỏi gió”. Vậy, nương mà chẳng nương, nắm bắt chẳng nắm bắt, xa lìa mà cũng chẳng xa lìa. Phủi hết tất cả thì hết động niệm. Vì sao?

Vì: “Các đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, quán tất cả  pháp, không pháp nào chẳng đều không. Nghĩa là quán tất cả pháp hữu sắc không, pháp vô sắc cũng không. Quán tất cả pháp hữu kiến không, pháp vô kiến cũng không. Quán tất cả pháp hữu đối không, pháp vô đối cũng không. Quán tất cả pháp hữu lậu không, pháp vô lậu cũng không. Quán tất cả pháp hữu vi không, pháp vô vi cũng không. Quán tất cả pháp thế gian không, pháp xuất thế gian cũng không. Quán tất cả pháp vắng lặng không, pháp chẳng vắng lặng cũng không. Quán tất cả pháp xa lìa không, pháp chẳng xa lìa cũng không v.v… Quán tất cả pháp hữu không, pháp vô, pháp phi hữu phi vô cũng không. Các đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu, quán tất cả pháp như thế thảy đều không. Trong các pháp không, (tất cả) đều vô sở hữu, thì ai chìm, ai đắm, ai sợ, ai kinh, ai nghi, ai ngại?”

Tất cả yếu chỉ tu hành đều nằm ở chỗ này. Nếu quán các pháp đều không thì không cần biết pháp chắc thật hay chẳng chắc thật, chân thật hay chẳng chân thật, kiên cố hay chẳng kiên cố. Cứ theo tín giải mà tu hành, sẽ sanh lòng tin thanh tịnh, sẽ mau chứng ngộ. Đó là pháp môn giản dị để tu để hành, không cần phải có các pháp môn cầu kỳ nào khác. Nói dễ, nhưng thực hành tu tập quán không như thế không phải dễ. Phải quán tưởng liên tục qua nhiều ngày tháng mới có hy vọng. Có nghe câu nói này không: Thiên tài chẳng qua là một sự tập luyện lâu dài./.

 

---o0o---

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2022(Xem: 2594)
Cho tới nay có ít nhất mười nhà dịch giả (thuật) bộ Qui Sơn Cảnh Sách sang Việt ngữ như trong sách Phật Tổ Tam Kinh (1950; của Vô Danh Thị), Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1972), Tuệ Nhuận (1973); Chư Thượng Tọa, Đại Đức dạy chúng, tại các trường Phật học Báo Quốc, Linh Ứng (Non Nước), Nguyên Thiều (Bình Định), Ấn Quang (Sàigon), Lưỡng Xuyên (Trà Vinh), Phật Ân (Mỹ Tho), Huệ Nghiêm (Gia Định) v.v... đều giảng dạy tăng sinh bộ sách quý này. Tại sao chúng tôi vẫn tiếp tục dịch luận bản văn trên sang tiếng Việt làm gì? Vẫn biết có nhiều vị uyên thâm Phật học đã dịch văn Cảnh Sách, song văn phong mỗi thời một thay đổi; hoàn cảnh Giáo Hội - Tăng Đoàn – mỗi giai đoạn không giống nhau. Từ khi có số Phật Tử Việt tỵ nạn đông đảo tại hải ngoại đến nay gần hai mươi năm, tình trạng Phật giáo có phức tạp, đổi thay. Chưa có vị nào dịch luận văn “Cảnh Sách” cho thích hợp trào lưu hiện tại, có thể nói là thời kỳ vô cùng giao động trong giới nhà tu Phật và Phật Tử nói chung, nếu nhìn theo nhiều góc c
03/02/2022(Xem: 5765)
Được biết A Di Đà Land được Đạo Hữu Tony Thạch tạo mãi vào ngày 01 tháng 06 năm 2015, nơi đây vốn là một khu đất rừng bạch đàn (Eucalyptus) với diện tích 2243.44 Acres (907.887957 hectares, trên khoảng 9 cây số vuông). Khu đất rộng lớn này nằm sâu bên trong ngôi làng Curraweela (gần thị trấn Taralga) thuộc miền nam tiểu bang New South Wales (gần thị trấn Goulburn) cách trung tâm thành phố Sydney khoảng 250 cây số (2 tiếng 30 phút lái xe). Đạo hữu Tony Thạch tạo mãi đặt tên cho khu đất là A Di Da Land, với ước nguyện trong tương lai sẽ biến nơi đây thành một Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà để giúp cho tứ chúng đồng tu, đồng giải thoát khỏi biển khổ sinh tử luân hồi.
02/02/2022(Xem: 113058)
Thư Viện Kinh Sách tổng hợp dung chứa trên 1,200 tập sách trên Trang Nhà Quảng Đức
05/01/2022(Xem: 5925)
CHÁNH PHÁP Số 122, tháng 01.2022 Hình bìa của Hồ Bích Hợp NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XA XỨ NHỚ LẠI NGÀY CŨ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6 Ý NGHĨA PHẬT PHÁP TĂNG TAM BẢO (HT. Thích Thắng Hoan), trang 7
30/12/2021(Xem: 5965)
Bởi thế, đặc san Phật Việt số 2 kỳ này xoay quanh chủ đề “công tác hoằng pháp và phiên dịch Tam Tạng Kinh Điển.” Để góp phần vào công tác hoằng dương chánh pháp trước hoàn cảnh mới của nhân loại và Phật Giáo Việt Nam, đặc biệt nhắm đến việc chuẩn bị hành trang Phật Pháp cho thế hệ Tăng, Ni và Phật tử trẻ tuổi, chư tôn đức Tăng, Ni và Cư Sĩ tại hải ngoại đã thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp vào đầu tháng 5 năm 2021 dưới sự tán trợ của Viện Tăng Thống GHPGVNTN. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hoằng Pháp gồm chư tôn Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan và Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn Chứng Minh; Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ làm Cố Vấn Chỉ Đạo; Hòa Thượng Thích Như Điển làm Chánh Thư Ký, Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Hòa Thượng Thích Bổn Đạt làm Phó Thư Ký và chư tôn đức Tăng, Ni thành viên. Ngoài ra Hội Đồng Hoằng Pháp còn có 4 Ban, gồm Ban Phiên Dịch và Trước Tác, Ban Truyền Bá, Ban Báo Chí và Xuất Bản, và Ban Bảo Trợ.
10/12/2021(Xem: 6537)
Bản dịch này cũng đã đăng tải trong các số báo đặc san Pháp Bảo, từ số 2, tháng 5 năm 1982 và còn tiếp tục đăng tải cho đến nay. Loạt bài đăng trong báo sẽ được chấm dứt trong vài kỳ báo nữa, vì các phần sau tuy cần thiết đối với người muốn nghiên cứu, nhưng lại trở nên khô khan với người ít quan tâm tới sử liệu Phật Giáo. Đó là lý do quý vị chỉ tìm thấy bản dịch được đầy đủ chỉ có trong sách này. Trong khi dịch tác phẩm, cũng như trong khoảng thời gian còn tòng học tại Nhật Bản, chúng tôi tự nghĩ: không hiểu sao Phật giáo đã du nhập vảo Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, thứ 3 mà mãi cho tới nay vẫn chưa có được những cuốn sách ghi đầy đủ các chi tiết như bộ “Các tông phái Phật Giáo Nhật Bản” mà quý vị đang có trong tay. Điều mong mỏi của chúng tôi là Phật Giáo Việt Nam trong tương lai cố sao tránh bớt vấp phải những thiếu sót tư liệu như trong quá khứ dài hơn 1500 năm lịch sử truyền thừa! Để có thể thực hiện được điều này, cần đòi hỏi giới Tăng Già phải đi tiên phong trong việc trước t
08/12/2021(Xem: 12305)
Chương trình Lễ Phát Chứng Chỉ Mãn Khóa Lớp Giáo Lý Online năm thứ 2 Trong Thời Gian Cách Ly Đại Dịch Covid-19 MC: Phật tử Quảng Tịnh & Phật tử Nguyên Nhật Thơ Bắt đầu lúc 2pm, Saturday 18/12/2021 - Niệm Phật cầu gia hộ - Chào Phật Giáo Kỳ (mở mp3) - Tuyên bố lý do và giới thiệu (Phật tử Quảng Tịnh & Nguyên Nhật Thơ) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Tịnh Tâm (Canada, do Đh.Tâm Từ đọc) - Lời cảm niệm tri ân của Phật tử tại Úc (Đh.Huệ Hương-Huệ Linh) - Nhạc phẩm “Nguyện Kiếp Sau Làm Một Đoá Sen.” (do Phật tử Nguyên Quảng Hương trình bày) - Lời cảm niệm của Đh Quảng Trinh (USA) - Lời cảm niệm của Phật tử Thanh Phi, TV Quảng Đức, - Nhạc phẩm “Lạy Mẹ Quan Thế Âm” (do Phật tử Khánh Đào trình bày) - Lời cảm niệm Đh.Trần Thị Nhật Hưng (Thụy Sĩ, Âu Châu) - Lời cảm niệm Đh.Diệu Danh Tuyết Mai (Hannover, Đức Quốc) - Nhạc phẩm “Cát Bụi Cuộc Đời” do Phật tử Tâm Quảng Hóa trình bày - Ngâm thơ “Thập Nghĩa Đi Chùa” do Phật tử Tâm Huệ trình bày - Cắt bánh mừng lễ mãn khóa và mừng sinh nhậ
06/12/2021(Xem: 8476)
Ba bài kinh đầu tiên, Kinh Phạm Võng, Kinh Sa Môn Quả, và Kinh A Ma Trú, là những bài kinh quan trọng bậc nhất trong Trường Bộ Kinh. Bài kinh Phạm Võng giới thiệu 62 Tà Kiến của các ngoại đạo đương thời, gián tiếp đặt đạo Phật ra ngoài các tà thuyết trên, và xác minh lập trường của đức Phật đối với các vấn đề vũ trụ và nhân sinh. Kinh này cũng đề cập đến Giới của đức Phật, từ Tiểu Giới đến Đại Giới, gián tiếp so sánh đời sống xa hoa phù phiếm của các Sa Môn, Bà La Môn đương thời với đời sống giản dị giải thoát của đức Thế Tôn. Cũng chính trong bài kinh này, đức Phật nói, chỉ có kẻ vô văn phàm phu mới tán thán giới đức, còn bậc thiện trí thì tán thán trí đức của Ngài. Và chính nhờ vào trí đức, đức Phật đã tóm thâu hết thảy mọi tà thuyết hiện hữu trong đời và truy nguyên căn nhân cùng động lực của mọi tà thuyết.
05/12/2021(Xem: 14692)
Kể từ khi Bánh xe Chánh Pháp được vận chuyển lần đầu tiên tại Vườn Nai, từ đó giáo pháp từ bi và trí tuệ dần dần lan tỏa trong mọi tầng lớp xã hội, trong nhiều phương vực khác nhau, với nhiều sắc thái dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Để cho tất cả mọi giai tầng xã hội, từ thượng lưu trí thức cho đến những hạng bần cùng khốn khỏ, thất học, cũng bình đẳng thọ hưởng hương vị tịnh lạc giải thoát, Đức Thế Tôn đã khuyến khích, hãy để cho mọi người được nghe và tu học Chánh Pháp theo ngôn ngữ địa phương của chính mình.
30/11/2021(Xem: 25116)
316. Thi Kệ Bốn Núi do Vua Trần Thái Tông biên soạn. Trần Thái Tông (1218-1277), là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam (triều đại kéo dài đến 175 năm sau, ông cũng là một Thiền sư đắc đạo và để lại những tác phẩm Phật học vô giá cho đời sau). Đây là Thời Pháp Thoại thứ 316 của TT Nguyên Tạng, cũng là bài giảng cuối của năm thứ 2 (sẽ nghỉ qua sang năm sẽ giảng lại) từ 6.45am, Thứ Ba, 30/11/2021 (26/10/Tân Sửu) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃 Youtube: Tu Viện Quảng Đức (TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng, Melbourne, Australia) https://www.youtube.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567