Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã

31/03/202108:05(Xem: 9826)
III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-554

 

III. PHẦN THỨ III TỔNG LUẬN:

 

TÁNH KHÔNG BÁT NHÃ

(Với những nguyên lý chỉ đạo của nó)

 

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

MỤC LỤC

 

 

LUẬN #1. VĂN TỰ, NGÔN THUYẾT TRONG BÁT NHà      

 

1. Danh tự Bát Nhã

2. Ngôn thuyết Bát Nhã

 

 

LUẬN #2. BÁT NHÃ VỚI NHỮNG BIỂU THỊ hay

                                NHỮNG PHÁP NGHĨA HIỂN HIỆN CỦA NÓ                       

 

1. Vũ trụ quan và Nhân sinh quan.

1- Vũ trụ quan

1/. Vũ trụ và thế giới

2/. Phương hướng

3/. Thời gian

4/. Số lượng

2- Nhân sanh quan

1/. Thân căn và Khí thế gian

1).- Uẩn Xứ Giới

2).- Các đại chủng

3).- Các pháp

2/. Tưởng và Tình

1).- Cảnh giới

2).- Cõi:

a/.- 25 thành phần hiện hữu

b/.- 10 dạng Tiên

c/.- Cõi Âm

2. Tâm & Tâm sở và Ngã & Ngã sở

1- Tâm & Tâm sở

2- Ngã & Ngã sở

3. Phân biệt và vô phân biệt

                        1- Phân biệt

                        2- Vô phân biệt

                        3- Đoạn phân biệt

4. Chấp, chẳng chấp

1- Trước, chẳng trước tướng

2- Bát Nhã lấy “vô trước” làm tướng

3- Đoạn chấp

5. Pháp môn bất nhị

1- Nhị pháp (pháp phân hai)

2- Bất nhị pháp (pháp không hai)

3- Nhị, Bất nhị đều bỏ nốt.

6. Vũ trụ quan và Nhân sinh quan Phật đạo

1- Vũ trụ quan Phật giáo

2- Nhân sinh quan Phật giáo

 

 

LUẬN# 3. CÁI THẤY TỪ BỜ KIA

 

1. Tất cả pháp không thật, hư ngụy (nói về thực thể)

2. Thi thiết: Danh giả, pháp giả và thọ giả (nói về danh tướng)

3. Như huyễn như mộng                                                    

1- Thế nào là như huyễn trong kinh điển thuộc hệ Bát Nhã

2- Giáo lý về như huyễn

4. Các pháp vốn trì độn, vô tri

5. Tánh không và 18 pháp không

1- Một trào lưu mới trong việc hóa đạo

2- Mười tám pháp không

3- Vài thí dụ về 18 pháp không.

4- Giáo lý Tánh không trong Bát Nhã.

5- Tánh không: Tương đối hay tuyệt đối

6. Như tướng (Chân như)

1- Các pháp như thật trong Chân như thật tướng

2- Như Lai tùy sanh

3- Chân như quan Bát Nhã

7. Bình đẳng

8. Thanh tịnh

 

 

LUẬN #4. TỤC ĐẾ, THÁNH ĐẾ VÀ TRUNG ĐẠO ĐẾ

 

1. Tục đế (tương đối)

2. Thánh đế (tuyệt đối)

3. Trung đạo đế (hay con đường giữa)

1- Nhân duyên

2- Bát bất

3- Kết cấu của Trung đạo

4- Vai trò của Trung đạo trong việc giải thích Tánh Không

4. Trung đạo, phương tiện tạm thời?

5. Làm sao đưa cảnh giới chúng sanh đến gần cảnh giới Phật?

 

 

LUẬN #5. THẾ NÀO GỌI LÀ BÁT NHÃ

 

1. Khái lược về Bát nhã Ba la mật

1- Sao gọi là Bát Nhã?

2- Sao  gọi là Ba La Mật?

3- Sao gọi là Bát nhã Ba la mật?

2. Phải nắm bắt Bát Nhã như thế nào?

3. Muốn nắm bắt đúng Bát Nhã thì phải tư duy quán tưởng như thế nào?

4. Bát Nhã Trí siêu xuất làm sao nắm bắt được?

 

 

LUẬN #6. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ THÀNH TỰU GIÁC NGỘ 

 

1. Phương tiện thiện xảo

2. Các giáo pháp hỗ trợ cho sự thành tựu Bát Nhã hay Giác ngộ

1- Vô sở hữu, bất khả đắc và những dẫn xuất của chúng

1/. Giáo nghĩa Vô sở hữu & Vô sở đắc

2/. Giáo nghĩa Vô sở hữu trong kinh ĐBN

3/. Giáo nghĩa Vô sở hữu, Bất khả đắc

2- Vô tướng

1/. Vô tướng

2/. Tướng & Vô tướng

3/. Tướng, Vô tướng đều ly

3- Vô tánh

4-  Tự tánh & Vô tự tánh

5- Vô tánh không, Tự tánh không & Vô tánh tự tánh không

6- Vô trụ

 

 

LUẬN #7. MỤC TIÊU CỦA VIỆC TU HÀNH BÁT NHÃ

 

1. Ba mục tiêu của việc tu hành Bát Nhã

1- Bác Nhã và Giác ngộ

2- Bát Nhã và Chánh giác

3- Bát Nhã và Nhất thiết trí trí

2. Phải cầu, phảỉ tín thọ phụng hành Bát Nhã như thế nào?

1- Cầu Bát Nhã:

1/. Cầu Bát Nhã ở đâu?

1).- Chẳng cầu ở sở hành.

2).- Sở hành Bát Nhã phải cầu ở trong sở thuyết của Thiện Hiện.

2/. Tín thọ phụng hành.

2- Học hành Bát Nhã là: Học “Không”, hành “Vô Tướng”, “Vô tác”.

 

 

LUẬN #8. THẾ NÀO LÀ THÔNG ĐẠT BÁT NHÃ?

 

1.Thế nào là thông đạt Bát Nhã hay thông đạt tuệ?

2. Thông đạt Bát Nhã là thông đạt thật tánh tất cả pháp

 

 

LUẬN #9.  CHỨNG HAY ĐẮC?

 

 

LUẬN #10. CÔNG hay TỘI TRONG VIỆC THỌ TRÌ BÁT NHÃ

                    

1. Công đức do việc thọ trì Bát Nhã

1- Thế lực, oai thần Bát Nhã

2- Công năng Bát Nhã

3- Bát Nhã là tối thắng, là tôn quý, cao siêu, vi diệu... không gì bằng

4- Bát Nhã là kho báu lớn

5- Bát Nhã là vua của tất cả c

6- Bát Nhã cảnh giới nhiệm mầu của chư Phật

7- Bát Nhã với sức mạnh “huyền bí” của nó.

8- Công đức thọ trì Bát Nhã

2. Tội lỗi do việc thọ trì Bát Nhã khiếm khuyết gây ra

3. Tích tụ công đức thiện căn thì phải phát Bồ đề tâm

 

 

LUẬN #11. BÁT NHÃ VÔ BIÊN

 

1. Bát Nhã sâu xa

2. Bát Nhã không ngằn mé

3. Bát Nhã vô biên

 

 

LUẬN #12. BÁT NHÃ KỲ CÙNG CÓ PHẢI LÀ PHÁP TỐI CAO KHÔNG?

 

1. Tu hành Bát Nhã chớ quán các pháp có chút khá trụ, khá vượt

2. Bát Nhã không phải là thực tại cứu cánh

 

 

TOÁT YẾU

 

 

TỔNG KẾT TOÀN BỘ

 

 

ĐẠO VÀ ĐỜI

 

---o0o---

 

Thay lời phi lộ:

 

Phần thứ III Tổng luận là phần hệ trọng đối với hành giả Bát Nhã. Bởi vì Tánh Không Bát Nhã với những nguyên lý chỉ đạo thật sự có đủ quyền năng đem lại sự chứng ngộ hay có thể đem lại công đức và an lạc cho tất cả chúng sanh mà mọi người mong chờ hay không? Xin đọc các đoạn kinh ngắn sau đây để xác chứng:

 

- Phẩm “Phương Tiện Xảo Thiện”, Hội thứ III, ĐBN, Phật bảo: “Thiện Hiện nên biết! Ví như các con sông ở phía Đông châu Thiệm bộ đều đổ vào sông Hằng, từ sông Hằng chảy vào biển lớn. Cũng vậy, năm Ba la mật: Bố thí, trì giới v.v... đều được Bát nhã Ba la mật hộ trì nên có thể đạt đến quả vị Vô Thượng Bồ đề”.

Tu tất cả thiện pháp và 5 Ba la mật như bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định được giác ngộ, chứng Vô Thượng Bồ đề thì có Bát Nhã Trí, Nhất thiết trí trí mới có thể qua bờ kia. Vì vậy, nói Bát Nhã là biển tuệ nơi tập trung tất cả trí của Người, Trời, A tu la, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát. Nên cùng đoạn Kinh trên Phật nói tiếp:

Thiện Hiện nên biết! Ví như các dòng nuớc, bất cứ lớn nhỏ, nếu chảy vào biển lớn đều cùng một vị mặn. Cũng vậy, năm Ba la mật: Bố thí, trì giới v.v... nhập vào Bát nhã Ba la mật đều chứng đắc Nhất thiết trí trí. Nhờ sự chứng đắc này nên gọi là đến bờ bên kia”.

 

- Phẩm “Phật Mẫu”, quyển 305, Hội thứ I, ĐBN so sánh Bát Nhã:

Như người mẹ sanh nhiều con, nuôi dưỡng giáo dục cho chúng lớn khôn, thành đạt nên người. Bây giờ, người mẹ già yếu bệnh tật, các con phải hết lòng phụng dưỡng mẹ để báo ân. Các con tự nghĩ: Sở dĩ, ta được khôn lớn nên người là nhờ mẹ tảo tần nuôi nấng chúng ta. Bây giờ, mẹ già yếu bệnh tật, thân thể không an lạc, lại nhiều phiền muộn, lo nghĩ… ta phải dùng lương thực, thuốc thang thượng diệu cung phụng mẹ, lại phải ân cần săn sóc an ủi để mẹ được an lạc sung sướng.

Tất cả Như Lai trong mười phương thế giới cũng chăm sóc hộ niệm Bát nhã Ba la mật như vậy!Bát nhã Ba la mật thậm thâm có công năng phát sanh tất cả công đức của chư Phật, có công năng chỉ bày thật tướng các pháp thế gian. Nh Bát nhã Ba la mật nầy mà lục Ba la mật, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết chủng trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao ở quá khứ, hiện tại, vị lai xuất hiện ở thế gian.

Do nhân duyên đó nên tất cả Như Lai mười phương thế giới đều biết ơn. Vì vậy, Như Lai mười phương thường dùng Phật nhãn quán sát hộ niệm Bát nhã Ba la mật này”.

 

Vì vậy, phần sau quyển 311 đến hết quyển 312, Hội thứ I, ĐBN, nói rằng: “Dù hữu tin, hữu nhẫn, hữu ái, hữu dục, hữu giải, hữu hành, hữu hỉ, hữu lạc, hữu xả, hữu tinh tiến, hữu tôn trọng, hữu tịnh tâm, ly phóng dật, bất tán loạn mà không nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật và tất cả pháp Phật làm phương tiện thì cũng giống như người băng qua sa mạc hay nơi hoang vắng đầy thú dữ, trộm cướp mà không mang lương thực khí giới, thì làm sao thoát hiểm để đến chỗ lợi vui? Cũng giống như những người đi lấy nước dùng bình bằng đất chưa nung, làm sao lấy được nước? Người đi biển không dùng phao làm chỗ nương tựa, làm sao khỏi chết chìm? Người già một trăm hai mươi tuổi lại bệnh tật, không có người xóc nách, làm sao lê thân được vài bước nói chi đi cả dặm? Do vậy, tu Bát nhã Ba la mật là phải biên chép, thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ, tu tập, vì người diễn nói thì mới không bị thối thất nửa đường, phải rơi vào bậc Thanh văn hay Độc giác”.

Bát nhã Ba la mật đóng vai trò quan trọng trong kỹ thuật luyện tâm luyện trí để trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác. Nên Bát Nhã là chỗ đáng nương tựa. Do đó, tùy thuận và nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật là phương tiện cần yếu nếu muốn được Giác ngộ, được Chánh giác hay Nhất thiết trí trí. Bát nhã Ba la mật như vậy được nhân-cách-hóa là mẹ, mẹ sinh mẹ dưỡng của chư Phật và chư Bồ Tát. Vai trò đó đáng được “tâng bốc” hơn bao giờ hết!

 

- Phẩm “Khen Bát Nhã”, quyển 172, Hội thứ I, ĐBN. Xá Lợi Phất bảo Thiên Đế Thích:

Kiều Thi Ca! Các Bồ Tát Ma ha tát sở học Bát nhã Ba la mật vượt hơn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự vô số lượng. Thí như bọn người mù bẩm sinh có cả trăm ngàn, mà không có một kẻ sáng mắt dắt dẫn đi, cố nhiên chẳng thể gần tới đường chính, huống là đi xa thấu đại thành phong phú an vui. Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự Ba la mật như thế là bọn người mù, nếu không có Bát nhã Ba la mật là kẻ sáng suốt dẫn đường, hãy chẳng đi tới Bồ Tát Chánh đạo, huống là năng vào được đại thành Nhất thiết trí.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự Ba la mật như thế, do Bát nhã Ba la mật đây nhiếp thọ, nên bố thí, tịnh giới v.v… tất cả đều được “đến bờ kia”.

“…Vì chẳng phải do bố thí Ba la mật nhiếp thọ, mà năm cái khác được gọi là đáo bỉ ngạn; vì chẳng phải do tịnh giới Ba la mật nhiếp thọ, mà năm cái khác được tên là đáo bỉ ngạn; vì chẳng phải do an nhẫn Ba la mật nhiếp thọ v.v… mà năm cái khác được tên là đáo bỉ ngạn, vì chỉ do Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ, nên năm cái khác được coi là đáo bỉ ngạn. Vì sao? Vì các Bồ Tát cốt yếu là trụ Bát nhã Ba la mật mới có khả năng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; chẳng phải trụ năm cái khác có thể thành tựu việc ấy. Vì vậy, nên Bát nhã Ba la mật đối với năm thứ trước là tối thắng, là tôn quí, là cao siêu, là vi diệu… không gì bằng”.

 

Bát Nhã là một trong sáu pháp Ba la mật, nhưng Bát Nhã là Ba la mật đứng đầu, là chỉ đạo, thiếu Bát Nhã các Ba la mật khác không thể hoạt động được. Bát Nhã là kim chỉ nam, là địa bàn đối với người vượt biển, là thuyền trưởng trên đại dương bao la. Có bố thí, có trì giới, có nhẫn nhục, thiền định nhưng thiếu Bát Nhã, các Ba la mật khác giống như một con thuyền không người lái lưu lạc trong cơn bão tố và sẽ không bao giờ thoát hiểm để đến bến bờ mong muốn! Vì vậy, Bát Nhã được ví như người sáng mắt trong vô số người mù bẩm sinh. Bát Nhã cũng được ví như đất mà mọi sinh vật có thể sinh sống trên đó, thiếu đất là thiếu mầm sống, là thiếu tất cả. Bát Nhã cũng ví như mặt trời, chiếu ánh sáng mang lại sự sống cho toàn thể thái dương hệ. Thiếu ánh sáng tất cả vạn vật đều tàn lụi giá băng!

 

- Phẩm “Chúc Lụy”, quyển 346, Hội thứ I, ĐBN, Phật bảo:

“Nên biết Nhất thiết trí trí, quả vị Giác ngộ tối cao, sở đắc của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều nương vào Bát Nhã mà xuất sanh. Bát Nhã như thế là mẹ của các đại Bồ Tát, sanh ra các đại Bồ Tát. Bát Nhã như thế là kinh điển sáu phép Ba la mật sâu xa, là tạng pháp vô tận của chư Như Lai”.

Không những Bát nhã Ba la mật là mẹ của Bồ Tát, mẹ của chư Phật khắp 10 phương mà Bát Nhã còn là kinh điển sáu phép Ba la mật sâu xa, là tạng pháp vô tận của chư Như Lai nữa.

 

- Phẩm “Tịnh Đạo”, quyển 74, ĐBN. Xá lợi Phất hỏi Thiện Hiện:

- “Tất cả pháp Phật đều mang lại vô lượng vô biên các nhóm công đức nên gọi là đạo Bồ đề. Nhưng công đức như vậy do đâu mà có?

Thiện Hiện đáp:

- Xá Lợi Tử! Công đức như vậy đều do thế lực của Bát nhã Ba la mật mà đạt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật bao giờ cũng là mẹ của tất cả thiện pháp. Tất cả thiện pháp của Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai đều từ đó mà sanh.

- Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật này có khả năng nhiếp thọ khắp tất cả thiện pháp. Thiện pháp của Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai đều nương nơi đây mà an trú.

- Xá Lợi Tử! Chư Phật quá khứ tu hành Bát nhã Ba la mật đạt đến chỗ viên mãn rốt ráo, đã chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân vi diệu, độ vô lượng chúng sanh. Chư Phật vị lai tu hành Bát nhã Ba la mật đạt viên mãn rốt ráo, sẽ chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân vi diệu, độ vô lượng chúng sanh. Chư Phật hiện tại trong mười phương thế giới tu hành Bát nhã Ba la mật đạt viên mãn rốt ráo, hiện chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân vi diệu, độ vô lượng chúng sinh”.

Kinh Đại Bát Nhã nhiều chỗ xưng tán công đức và thế lực của Bát nhã Ba la mật như vậy. Nên Bát Nhã Ba la mật được qui hướng và ngưỡng mộ hơn bao giờ hết.

 

- Phẩm thứ nhất, tập 2, quyển 34 nói về “Tín Trì”, luận Đại Trí Độ, Bồ Tát Long Thọ viết rằng:

“Như trước đây đã nói: Nếu chẳng có Bát nhã Ba la mật soi sáng thì 5 độ kia chẳng có thể được gọi là Ba la mật. Ví như người có đôi mắt sáng mới biết được đường đi, chim có đôi cánh mới có thể bay xa được. Tất cả 5 Ba la mật kia phải được Bát nhã Ba la mật dẫn đạo mới có thể thành tựu được đại công đức.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói “Bồ Tát muốn được đầy đủ các công đức, phải tu tập Bát nhã Ba la mật”. 

 

- Phẩm thứ năm “Bát nhã Ba la mật”, tập 2, quyển 40. Đại Trí Độ Luận nói: “...Bát nhã Ba la mật dẫn đạo cả 5 Ba la mật kia, nên là Ba la mật tối đại, tối tôn, là Ba la mật đệ nhất, là Ba la mật tối thắng. Bát nhã Ba la mật thành tựu cả tự lợi lẫn lợi tha, nên là Ba la mật tối diệu. Trong các Ba la mật, thì Bát nhã Ba la mật chẳng có lỗi lầm, nên là Ba la mật vô thượng. Lại nữa, chẳng có pháp nào sánh kịp nên Bát nhã Ba la mậtBa la mật vô đẳng đẳng. Bát nhã Ba la mật là mẹ của chư Phật. Chư Phật trong 3 đời đều theo Bát nhã Ba la mật sanh, nên Bát nhã Ba la mật là vô thượng Ba la mật, là vô đẳng đẳng Ba la mật

 

- Phẩm “Xá Lợi Phất”, quyển thứ 479, ĐBN. Nói:

-“Nếu Bồ Tát Ma ha tát muốn dùng oai lực của mình khiến hữu tình trong mười phương thế giới như cát sông Hằng: Kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ câm được nói, kẻ cuồng được nhớ, kẻ loạn được định, kẻ nghèo được giàu, kẻ trần được áo, kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ bệnh được mạnh, kẻ xấu được đẹp, kẻ tàn tật được đầy đủ, kẻ căn khuyết được vuông tròn, kẻ mê lầm được tỉnh ngộ, kẻ mỏi mệt được thư thới, kẻ đọa ác thú được sanh thiện thú, kẻ tập ác nghiệp đều tu thiện nghiệp, kẻ phạm giới an trụ nhóm giới, kẻ chưa được định an trụ nhóm định, kẻ có ác huệ an trụ nhóm huệ, kẻ không giải thoát an trụ nhóm giải thoát, kẻ không giải thoát trí kiến an trụ nhóm giải thoát trí kiến, kẻ chưa thấy thánh đế được quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc Duyên giác, hoặc lần lữa chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, thời nên học Bát N. Nếu Bồ Tát Ma ha tát muốn học oai nghi thù thắng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khiến các hữu tình xem đó không chán, diệt ác sanh thiện, nên học Bát nhã Ba la mật.

Với những quả quyết đó, nên chúng ta nhiều lần tán tụng Bát nhã Ba la mật như một thứ pháp mầu với đầy đủ quyền năng, để tạo dựng một thế giới tươi đẹp đầy hạnh phúc, có thể đem lại an vui giải thoát cho thế gian thống khổ này.

 

- Phẩm “Bất Khả Động”, cuối quyển 388 – 390, Hội thứ I, ĐBN. Nói thêm rằng:

“Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ, vị lai, hiện tại mười phương đều dùng bản tánh không, làm Phật nhãn. Nhất định không có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nào lìa bản tánh không mà có thể xuất hiện ở đời. Chư Phật xuất thế đều thuyết bản tánh không; hữu tình được giáo hóa cần phải lắng nghe Phật thuyết lý bản tánh không, mới có thể nhập Thánh đạo, chứng quả Thánh đạo; lìa bản tánh không, không có phương tiện nào khác”.

“... Nếu đại Bồ Tát muốn đắc Vô Thượng Bồ đề thì phải an trụ tất cả pháp Phật, mà an trụ tất cả pháp Phật tức là an trụ bản tánh không... “Bản tánh không là sở chứng của chư Phật, cũng gọi là Phật đạo”. “Nhất định không có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nào lìa bản tánh không mà có thể xuất hiện ở đời”. Vậy, bản tánh không là Như Lai Ứng Cúng Đẳng giác, là Vô Thượng Bồ đề, là Phật Đạo”.

 

Trên đây chỉ là những đoạn kinh ngắn trong hàng trăm đoạn kinh như vậy, chúng ta có thể tìm thấy bất cứ ở pháp hội nào nói về Tánh không hay Bản tánh không Bát Nhã với những nguyên lý chỉ đạo của nó. Nếu theo đúng những chỉ dẫn đó tu hành thì có thể đạt ngộ, có đầy đủ quyền năng công đức để có thể trọn vẹn làm chủ thế gian này.

Do đó, phẩm “Bất Khả Động”, quyển 388, Hội thứ I, ĐBN cho thấy tính cách trọng yếu của Bát Nhã Tánh không: “Chư Phật xuất thế đều thuyết Bản tánh không; hữu tình được giáo hóa cần phải lắng nghe Phật thuyết lý Bản tánh không, mới có thể nhập Thánh đạo, chứng Thánh quả; lìa Bản tánh không, không có phương tiện nào khác”.

 

Phẩm thứ 84, “Tứ Đế”, tập 5, quyển 93, Đại Trí Độ Luận ghi lại chánh văn của Kinh MHBNBLMĐ nguyên văn như sau:

“Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Thế nào là quán các pháp như thật tướng(chơn như thật tướng của tất cả pháp)?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Đó là quán các pháp không.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là quán các pháp không?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Đó là quán các pháp tự tướng không.

Bồ Tát dùng trí huệ, quán hết thảy các pháp đều là không, chẳng có pháp tánh có thể thấy được. Bồ Tát an trú trong tánh không mà được Vô Thượng Bồ Đề.

Vì sao? Vì tướng của “tánh không” là tướng của Vô Thượng Bồ Đề.

Tướng “tánh không” đó chẳng phải do chư Phật làm ra, chẳng phải do chư Thanh Văn, chư Bích Chi Phật, chư Bồ Tát làm ra.

Vì chúng sanh chẳng biết, chẳng thấy các pháp như thật tướng, nên Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật phải dùng các lực phương tiện, để vì chúng sanh thuyết ra các pháp ấy”.

Đoạn Kinh này đã nâng Tánh không lên ngang hàng với Vô Thượng Bồ đề. Vậy, chẳng gì nghờ vực vai trò cũng như những nguyên lý chỉ đạo của Tánh không trong Phật đạo.

Với các dẫn chứng cũng như các luận giải sau đây chúng tôi cố gắng nêu lên những nguyên lý chỉ đạo này. Còn hiểu, học và áp dụng vào việc tu hành và đạt ngộ được công đức oai nghi thù thắng là ở hành giả Bát Nhã.

 

Trong nhà Thiền dưới trướng của Sư Đại Huệ Tông Cảo (1089-1163) đời Tống, có một ông Tăng tên là Đạo Khiêm học Thiền đã nhiều năm nhưng chưa nhập lý. Sư phụ bắt đi hành cước ở phương xa, ông tỏ vẻ thất vọng. Một cuộc viễn du kéo dài đến sáu tháng trời chắc rằng sẽ là mối chướng đạo hơn là trợ đạo cho ông. Có một ông bạn đồng môn tên là Tông Nguyên thương hại bèn nói: “Tôi sẽ theo ông trên đường hành cước, sẽ làm những gì có thể làm được để giúp ông. Không có lý do nào khiến ông phải bỏ dở việc tham thiền, cả đến lý do xê dịch”. Thế rồi cả hai lên đường.

Một đêm kia, Đạo Khiêm tuyệt vọng nài nỉ người bạn đường giúp ông vén màn bí mật của nhân sinh và vũ trụ. Người bạn đáp: “Tôi sẵn sàng giúp ông bất cứ thứ gì, nhưng có năm điều tôi không thể giúp ông. Những điều ấy, tự ông phải đảm đương lấy”. Đạo Khiêm xin cho biết là những điều gì, ông bạn đáp: “Chẳng hạn như khi ông mặc áo ăn cơm thì tôi không thể ăn không thể mặc giùm ông được, ông phải tự mình ăn tự mình mặc lấy. Khi ông mắc ỉa mắc đái, ông phải tự mình lo liệu, tôi không thể làm thay ông. Rốt hết chính là ông, không ai khác, phải mang cái thây chết này của ông suốt khoảng đường trường này”.

Lời nói đó phút chốc mở tâm người cầu đạo; ông này mừng quá với những điều khám phá mới không còn biết nói gì để tỏ niềm vui. Bấy giờ, Tông Nguyên mới nói rằng công quả của ông nay đã tròn, từ nay sự đi chung không còn ý nghĩa nữa. Thế rồi hai người chia tay nhau, và Đạo Khiêm tiếp tục cuộc hành trình một mình. Sáu tháng sau, Đạo Khiêm trở về chùa cũ. Sư phụ là Đại Huệ xuống núi tình cờ gặp ông đang lên chùa, bèn cười rồi tự nói:

“Bây giờ, thì chắc đệ tử biết như thế nào rồi!”

Thử hỏi cái gì bừng ra lúc ấy trong tâm trí của Đạo Khiêm khi ông bạn (Tông Nguyên) đưa ra một lời khuyên quá đỗi tầm thường như vậy?(1)

Ở đây chúng tôi như Sư Tông Nguyên, chỉ là người bạn đường của Đạo Khiêm, giúp Quý đạo hữu mở con mắt Đạo. Nhưng rốt lại Tông Nguyên cũng chẳng giúp ích được gì, chính Đạo Khiêm phải làm tất cả. Cũng như vậy, chúng tôi chỉ là người trình bày lại giáo lý của đức Thế Tôn. Chúng tôi cũng như Tông Nguyên giúp các đạo hữu trên bước đường hành cước, là người giải Kinh, cốt chỉ cho Quý vị bên kia sườn núi có khói. Còn Quý vị phải nhờ cái thấy mà biết cái không thấy: Thấy khói bên kia sườn núi là biết bên kia có lửa. Cũng vậy, tuy chúng tôi đào xới bới dỡ để chỉ cho Quý vị các giáo pháp cực kỳ ảo diệu của Tánh không với những nguyên lý chỉ đạo của nó, nhưng hiểu, học, hành để đạt ngộ được hay không đó là do công phu của Quý vị!

Thích nghĩa cho “Thay lời phi lộ này”:

(1). Câu chuyện Thiền này được trích dẫn từ Thiền Luận quyển hạ của Thiền sư D.T. Suzuki.

 

---o0o---

 

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com