- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
PHẨM “SÁU PHÁP ĐÁO BỈ NGẠN”
Phần sau cùng quyển 411 cho đến phần đầu quyển 412, Hội thứ II.
(Tương đương với phần phát biểu của Ngài Mãn Từ Tử về Ma Ha Tát,
phẩm “Ma Ha Tát”, quyển 47 và 48, Hội thứ I, ĐBN)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Gợi ý:
Để hiểu: Thế nào được gọi là Bồ Tát Ma ha tát? Phú Lâu Na được xem là người có biện tài thuyết pháp lưu loát nhất chỉ trừ Phật, nêu ra ba vấn đề:
1. Phát đại thệ nguyện trang nghiêm;
2. Phát thú Đại thừa; và
3. Thừa Đại thừa.
Phẩm này chỉ thuyết 2 phần trên. Phẩm kế tiếp có tên là “Đại Thừa”, sẽ thuyết phần cuối là “thừa Đại thừa”.
Khi Bồ Tát thực hiện được ba mục tiêu trên thì có thể gọi là Đại Bồ Tát hay Bồ Tát Ma ha tát.
Tóm lược:
Lúc bấy giờ, Mãn Từ Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con cũng muốn đem trí tuệ biện tài nói về ý nghĩa Ma ha tát của Bồ Tát.
Phật bảo Mãn Từ Tử:
- Ông cứ nói.
Mãn Từ Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Do các Bồ Tát vì làm lợi lạc cho khắp tất cả hữu tình nên mặc áo giáp đại công đức phát tâm hướng đến Đại thừa. Vì nương vào Đại thừa nên gọi là Ma ha tát.
Bấy giờ, Xá lợi Tử hỏi Mãn Từ Tử:
- Thế nào là Đại Bồ Tát vì làm lợi lạc khắp tất cả hữu tình nên mặc áo giáp đại công đức (còn được gọi là “đại thệ nguyện trang nghiêm”)?
Mãn Từ Tử đáp:
- Này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành bố thí Ba la mật không làm lợi lạc cho một nhóm nhỏ hữu tình tu hành bố thí, mà là làm lợi lạc cho khắp tất cả hữu tình nên tu hành bố thí. Các Bồ Tát khi tu hành tịnh giới Ba la mật không làm lợi lạc cho một nhóm nhỏ hữu tình tu hành tịnh giới, mà là làm lợi lạc cho khắp tất cả hữu tình nên tu hành tịnh giới. Các Bồ Tát khi tu hành an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật không làm lợi lạc cho một nhóm nhỏ hữu tình mà là làm lợi lạc cho khắp tất cả hữu tình nên tu hành an nhẫn cho đến Bát nhã Ba la mật.
Này Xá lợi Tử! Đó là Bồ Tát vì làm lợi lạc cho khắp tất cả hữu tình nên mặc áo giáp đại công đức.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát mặc áo giáp đại công đức làm lợi lạc cho các hữu tình không có giới hạn, không nghĩ như vầy: Ta sẽ cứu độ hữu tình ấy, làm cho họ vào cõi Vô dư y Niết bàn, mà tự họ không làm được. Ta sẽ cứu độ hữu tình, làm cho an trụ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà tự họ không an trụ được.
Này Xá lợi Tử! Đó là Bồ Tát vì làm lợi lạc khắp tất cả hữu tình nên mặc áo giáp đại công đức.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát nghĩ như vầy: Ta sẽ tự mình làm viên mãn bố thí Ba la mật, cũng làm cho tất cả hữu tình viên mãn bố thí. Ta sẽ tự mình làm viên mãn tịnh giới Ba la mật, cũng làm cho tất cả hữu tình viên mãn tịnh giới. Ta sẽ tự mình làm viên mãn an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, cũng làm cho tất cả hữu tình viên mãn an nhẫn cho đến Bát nhã Ba la mật. Các Bồ Tát nghĩ như vầy: Ta sẽ tự mình nương vào sáu pháp Ba la mật như vậy, an trụ pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh; tu hành bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng làm cho tất cả hữu tình nương vào sáu pháp Ba la mật này an trụ pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh; tu hành bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Các Bồ Tát nghĩ như vầy: Ta sẽ tự mình nương vào sáu pháp Ba la mật như vậy mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác vào cõi Vô dư y Niết bàn. Cũng làm cho tất cả hữu tình nương vào sáu pháp Ba la mật, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác vào cõi Vô dư y Niết bàn.
Này Xá lợi Tử! Đó là Bồ Tát làm lợi lạc cho khắp tất cả hữu tình nên mặc giáp đại công đức.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành bố thí Ba la mật, đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí để tu bố thí. Giữ gìn thiện căn này dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng chung tất cả hữu tình hồi hướng Nhất thiết trí trí, khi bố thí hoàn toàn không có hối tiếc.
Này Xá lợi Tử! Đó là Bồ Tát khi tu hành bố thí Ba la mật, mặc áo giáp đại công đức bố thí Ba la mật.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành bố thí Ba la mật, đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí để tu bố thí. Giữ gìn thiện căn này, dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng chúng hữu tình hồi hướng Nhất thiết trí trí. Khi bố thí, chẳng khởi tác ý Thanh văn, Độc giác, tin nhận ưa muốn tu pháp bố thí, tinh tấn dõng mãnh không bỏ gia hạnh, chăm lòng hướng tới Nhất thiết trí trí, rốt ráo lợi vui tất cả hữu tình, chẳng tạp tác ý Thanh văn, Độc giác và khi bố thí an trụ tưởng như huyễn, không chấp người thí, người nhận, vật thí, quả bố thí. (Q.412, ĐBN)
Này Xá lợi Tử! Đó là Bồ Tát khi tu hành bố thí Ba la mật, mặc áo giáp đại công đức an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Như vậy, Bồ Tát khi tu hành bố thí Ba la mật, mặc áo giáp đại công đức đầy đủ sáu pháp Ba la mật.
Này Xá lợi Tử! Bồ Tát nào đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí khi tu hành bố thí Ba la mật, đối với tướng sáu Ba la mật không chấp, không đắc. Nên biết Bồ Tát này đã mặc áo giáp đại công đức.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành tịnh giới Ba la mật, đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí để tu tịnh giới. Giữ gìn thiện căn này, dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng chung tất cả hữu tình hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc tu tịnh giới đối với các vật sở hữu đều không bỏn xẻn.
Này Xá lợi Tử! Đó là Bồ Tát khi tu hành tịnh giới Ba la mật, mặc áo giáp đại công đức bố thí Ba la mật.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành tịnh giới Ba la mật, đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí để tu tịnh giới. Giữ gìn thiện căn này, dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng chung tất cả hữu tình hồi hướng Nhất thiết trí trí. Khi tu an nhẫn, đối với pháp tịnh giới tin nhận ưa muốn, không có tâm hạ liệt của Thanh văn, Độc giác, tinh tấn dõng mãnh không bỏ gia hạnh, chỉ lấy đại bi làm đầu, không xen lẫn tâm Nhị thừa, huống là tâm của hàng dị sanh, đối với tất cả pháp an trụ tưởng như huyễn, đối với hạnh tịnh giới không ỷ lại, không chứng đắc, vì bản tánh là không.
Này Xá lợi Tử! Đó là Bồ Tát khi tu hành tịnh giới Ba la mật, mặc áo giáp đại công đức an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Như vậy, Bồ Tát khi tu hành tịnh giới Ba la mật, mặc áo giáp đại công đức đầy đủ sáu pháp Ba la mật.
Này Xá lợi Tử! Bồ Tát nào đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, khi tu hành tịnh giới Ba la mật đối với tướng sáu Ba la mật không chấp, không đắc. Nên biết Bồ Tát này đã mặc áo giáp đại công đức.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành an nhẫn Ba la mật, đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí để tu an nhẫn. Giữ gìn thiện căn này, dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng chung tất cả hữu tình hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc tu an nhẫn, vì để thành tựu an nhẫn nên đối với thân mạng không tham luyến.
Này Xá lợi Tử! Đó là Bồ Tát khi tu hành an nhẫn Ba la mật, mặc áo giáp đại công đức bố thí Ba la mật.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành an nhẫn, đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí để tu an nhẫn. Giữ gìn thiện căn này, dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng chung tất cả hữu tình hồi hướng Nhất thiết trí trí. Khi tu an nhẫn, chẳng tạp tác ý hạ liệt Thanh văn và Độc giác, đối với pháp an nhẫn tin nhận ưa muốn, tinh tấn dõng mãnh không bỏ gia hạnh, khi tu an nhẫn nhiếp tâm vào một cảnh, tuy gặp các khổ nhưng tâm không tán loạn, an trụ tưởng như huyễn, tu tập Phật pháp, giáo hóa hữu tình, quán các pháp không, không chấp oán hại.
Này Xá lợi Tử! Đó là Bồ Tát khi tu hành an nhẫn, mặc áo đại công đức an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Như vậy, Bồ Tát khi tu hành an nhẫn, mặc áo giáp đại công đức đầy đủ sáu pháp Ba la mật.
Này Xá lợi Tử! Bồ Tát nào đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí, khi tu hành an nhẫn đối với tướng sáu Ba la mật không chấp, không đắc. Nên biết Bồ Tát này đã mặc áo giáp đại công đức.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành tinh tấn Ba la mật, đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí để tu tinh tấn. Giữ gìn thiện căn này, dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng chung tất cả hữu tình hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc tu tinh tấn, hay siêng năng tu học hạnh bố thí khó làm.
Này Xá lợi Tử! Đó là Bồ Tát khi tu hành tinh tấn, mặc áo giáp đại công đức bố thí Ba la mật.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành tinh tấn, đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí để tu tinh tấn. Giữ gìn thiện căn này, dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng chung tất cả hữu tình hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc tu tinh tấn, siêng năng giữ gìn tịnh giới hoàn toàn không hủy phạm, hay siêng năng tu học hạnh nhẫn nhục khó làm, tinh tiến năng siêng tu học khổ hạnh hữu ích, hay siêng năng tu học tịnh lự đẳng chí, hay siêng năng tu học trí tuệ không chấp trước.
Này Xá lợi Tử! Đó là Bồ Tát khi tu hành tinh tấn, mặc áo giáp đại công đức an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Như vậy, Bồ Tát khi tu hành tinh tấn, mặc áo giáp đại công đức đầy đủ sáu pháp Ba la mật.
Này Xá lợi Tử! Nếu Bồ Tát đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, khi tu hành tinh tấn đối với tướng sáu Ba la mật không nắm giữ, không chấp trước. Nên biết Bồ Tát này đã mặc áo giáp đại công đức.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành tịnh lự Ba la mật, đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí để tu tịnh lự. Giữ gìn thiện căn này, dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng chung tất cả hữu tình hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc tu tịnh lự, với tâm thanh tịnh, thực hành bố thí, không còn tâm tán loạn, bỏn xẻn nữa.
Này Xá lợi Tử! Đó là Bồ Tát khi tu hành tịnh lự, mặc áo giáp đại công đức bố thí Ba la mật.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành tịnh lự, đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí để tu tịnh lự. Giữ gìn thiện căn này, dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng chung tất cả hữu tình hồi hướng Nhất thiết trí trí. Khi tu tịnh lự, tâm quyết định hộ trì giới, làm cho các ác giới không còn nữa, an trụ định từ bi mà tu an nhẫn, không làm não hại hữu tình, an trụ định thanh tịnh, siêng năng tu tập công đức, xa lìa các biếng nhác, khi tu tịnh lự, nương vào các tịnh lự, hướng đến định thù thắng, xa lìa tâm nhiễu loạn, hướng đến tuệ thù thắng, xa lìa tâm ác tuệ.
Này Xá lợi Tử! Đó là Bồ Tát khi tu hành tịnh lự, mặc áo giáp đại công đức an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Như vậy, Bồ Tát khi tu hành tịnh lự mặc áo giáp đại công đức đầy đủ sáu pháp Ba la mật.
Này Xá lợi Tử! Bồ Tát nào đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí khi tu hành tịnh lự, đối với tướng sáu Ba la mật không chấp, không đắc. Nên biết Bồ Tát này đã mặc áo giáp đại công đức.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí để tu Bát Nhã. Giữ gìn thiện căn này, dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng chung tất cả hữu tình hồi hướng Nhất thiết trí trí. Lúc tu Bát Nhã, tuy bố thí tất cả nhưng không thấy bố thí, người nhận, vật thí.
Này Xá lợi Tử! Đó là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, mặc áo giáp đại công đức lớn bố thí Ba la mật.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí để tu Bát Nhã. Giữ gìn thiện căn này, dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng chung tất cả hữu tình hồi hướng Nhất thiết trí trí. Khi tu Bát Nhã, tuy hộ trì tịnh giới nhưng đều không thấy trì, phạm sai khác, nương thắng không huệ mà tu an nhẫn, không thấy năng nhẫn, sở nhẫn, tuy quán các pháp rốt ráo đều không, nhưng vì đại bi nên siêng năng tu thiện pháp, tuy tu định thù thắng nhưng quán cảnh định rốt ráo đều không, khi tu Bát nhã Ba la mật, quán tất cả pháp, tất cả hữu tình và tất cả hành đều như huyễn mà tu các tuệ không chấp trước.
Này Xá lợi Tử! Đó là Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, mặc áo giáp đại công đức an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Như vậy, Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã mặc áo giáp đại công đức đầy đủ sáu pháp Ba la mật.
Này Xá lợi Tử! Bồ Tát nào đem tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, khi tu hành Bát Nhã đối với tướng sáu Ba la mật không chấp, không đắc. Nên biết Bồ Tát này đã mặc áo giáp đại công đức.
Này Xá lợi Tử! Như vậy, gọi là các Bồ Tát làm lợi lạc cho khắp tất cả hữu tình mặc áo giáp đại công đức.
Này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát an trụ mỗi một Ba la mật đều tu sáu pháp Ba la mật làm cho được viên mãn. Vì vậy, gọi là mặc áo giáp đại công đức.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát tuy đắc tịnh lự, vô lượng, vô sắc nhưng không đắm vị, cũng không theo thế lực đó mà thọ sanh, cũng không bị thế lực đó dẫn dắt.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát tuy đắc tịnh lự, vô lượng, vô sắc, an trụ ly kiến, tịch tịnh kiến, không, vô tướng, vô nguyện kiến nhưng không chứng thật tế, không vào địa vị Thanh văn và Độc giác, vượt lên trên tất cả Thanh văn, Độc giác.
Này Xá lợi Tử! Do các Bồ Tát làm lợi lạc cho khắp tất cả hữu tình mặc áo giáp đại công đức như vậy, nên còn gọi là Ma ha tát.
Này Xá lợi Tử! Như vậy, vì làm lợi lạc cho khắp hữu tình mặc áo giáp đại công đức nên Bồ Tát ở trong đại chúng được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong hằng hà sa số thế giới chư Phật khắp mười phương hoan hỷ khen ngợi như vầy: Trong thế giới ấy, phương ấy, có Bồ Tát ấy mặc áo giáp đại công đức làm lợi lạc cho khắp tất cả hữu tình, làm nghiêm tịnh cõi Phật, giáo hóa hữu tình, an trụ thần thông, làm những việc nên làm. Tiếng khen như vậy dần dần vang khắp mười phương, trời, người v.v... nghe đều rất vui mừng, nói: Bồ Tát này không bao lâu sẽ chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đã mong cầu làm cho các hữu tình đều được lợi lạc.
Bấy giờ, Xá lợi Tử hỏi Mãn Từ Tử:
- Thế nào là Bồ Tát làm lợi lạc cho khắp các hữu tình nên phát tâm hướng đến Đại thừa?
Mãn Từ Tử đáp:
- Này Xá lợi Tử! Các Bồ Tát làm lợi lạc cho khắp tất cả hữu tình, mặc áo giáp đại công đức sáu Ba la mật rồi, lại làm lợi lạc cho các hữu tình nên xa lìa pháp dục ác bất thiện có tầm, có tứ, ly sanh hỷ lạc, nhập và an trụ hoàn toàn vào sơ thiền. Nói rộng cho đến đoạn trừ lạc, đoạn trừ khổ, không có vui buồn, hết khổ hết lạc, xả niệm thanh tịnh nhập và an trụ hoàn toàn vào tịnh lự thứ tư. Lại nương vào tịnh lự sanh tâm câu hữu với từ, hành tướng rộng lớn, vô lượng vô nhị, không oán, không hại, không hận, không não, khéo tu thắng giải biến khắp, trùm khắp mười phương tận cùng pháp giới hư không, an trụ đầy đủ từ tâm thắng giải. Khởi bi, hỷ, xả cùng tâm, hành tướng thắng giải cũng lại như thế. Nương gia hạnh này lại vượt tất cả tưởng sắc, diệt tưởng hữu đối, chẳng suy nghĩ các tưởng khác, vào vô biên không, không vô biên xứ trụ đầy đủ. Nói rộng cho đến vượt tất cả vô sở hữu xứ, vào phi tưởng phi phi tưởng xứ trụ đầy đủ.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này từ tĩnh lự, vô lượng, vô sắc đây, đem vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng tất cả hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Xá Lợi Tử! Đấy là đại Bồ Tát khắp vì lợi vui các hữu tình nên phát tới Đại thừa.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát nào tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu tự an trụ tịnh lự, vô lượng, vô sắc như vậy, tu hành bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Bát nhã Ba la mật; tu tất cả pháp môn như bốn niệm trụ, ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, ba môn giải thoát cho đến Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, giữ gìn thiện căn, dùng vô sở đắc làm phương tiện, cùng tất cả hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Xá Lợi Tử! Đấy là đại Bồ Tát khắp vì lợi vui các hữu tình nên phát tới Đại thừa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, đại bi làm đầu, vô sở đắc làm phương tiện, khởi trí nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Đem vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng tất cả hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Xá Lợi Tử! Đấy là đại Bồ Tát khắp vì lợi vui các hữu tình nên phát tới Đại thừa.
Nếu đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối tất cả pháp phát khởi diệu trí phi loạn phi định, diệu trí phi thường phi vô thường, diệu trí phi vui phi khổ, diệu trí phi ngã phi vô ngã, diệu trí phi tịnh phi bất tịnh, diệu trí phi không phi bất không, diệu trí phi hữu tướng phi vô tướng, diệu trí phi hữu nguyện phi vô nguyện, diệu trí phi vắng lặng phi chẳng vắng lặng, diệu trí phi xa lìa phi chẳng xa lìa. Đem vô sở đắc mà làm phương tiện, cùng tất cả hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Xá Lợi Tử! Đấy là đại Bồ Tát khắp vì lợi vui các hữu tình nên phát tới Đại thừa.
Nếu đại Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, đại bi làm đầu, vô sở đắc làm phương tiện trí, chẳng hành pháp trí quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng phải chẳng biết ba đời. Chẳng hành pháp trí cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, chẳng phải chẳng biết ba cõi. Chẳng hành pháp trí thiện, bất thiện, vô ký, chẳng phải chẳng biết ba tánh. Chẳng hành pháp trí thế gian xuất thế gian. Chẳng phải chẳng biết pháp thế gian, pháp xuất thế gian. Chẳng hành pháp trí hữu vi vô vi, chẳng phải chẳng biết hữu vi vô vi. Chẳng hành pháp trí hữu lậu vô lậu, chẳng phải chẳng biết hữu lậu vô lậu. Đem vô sở đắc làm phương tiện, cùng tất cả hữu tình đồng chung hồi hướng Nhất thiết trí trí. Xá Lợi Tử! Đấy là đại Bồ Tát khắp vì lợi vui các hữu tình nên phát tới Đại thừa.
Xá Lợi Tử! Vì các Bồ Tát do phương tiện khéo léo như thế thảy khắp vì lợi vui các hữu tình phát tới Đại thừa nên lại gọi Ma ha tát.
Xá Lợi Tử! Như vậy, khắp vì lợi vui hữu tình phát tới Đại thừa, đại Bồ Tát khắp được mười phương như cát sông Hằng, chư Phật thế giới tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, ở giữa đại chúng vui mừng khen ngợi nói lời như vầy: Phương ấy, trong thế giới ấy, có đại Bồ Tát tên ấy, khắp vì lợi vui tất cả hữu tình phát tới Đại thừa, nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, du hý thần thông, làm việc đáng làm. Như vậy, lần lữa tiếng vang khắp mười phương người trời thảy nghe đều rất vui mừng, đều nói lời này: Đại Bồ Tát đây chẳng bao lâu sẽ chứng sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, khiến các hữu tình đều được lợi vui.
Thích nghĩa:
(1). Thắng xứ: Pháp quán nương vào đó để vượt dục giới bằng cách làm chủ các thụ tưởng. (Xem tám thắng xứ, Phần thứ I Tổng luận)
(2). Biến xứ: Người tu định tập trung tâm trên các đối tượng như đất, nước, lửa, gió, sắc xanh, sắc vàng, sắc đỏ, sắc trắng để đạt đến một trạng thái tâm lý, ở đó mọi hoạt động giác quan đều ngưng động, không còn thấy, nghe, cảm giác, đó là sơ thiền (xem 10 biến xứ, phần thứ I Tổng luận).
Lược giải:
Phẩm này thuyết hai phần rõ rệt:
1. Thuyết lục Ba la mật tức bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định, Bát nhã Ba la mật (phát đại thệ nguyện trang nghiêm) và
2. Thuyết tướng Đại thừa: Bồ Tát tu lục độ vạn hạnh và tất cả các pháp Phật trên cầu Vô Thượng Bồ đề, dưới hóa độ chúng sanh. Đấy là đại Bồ Tát khắp vì lợi vui các hữu tình nên phát tới Đại thừa (phát thú Đại thừa).
Bồ Tát nào tu hành viên mãn hai phương diện này thì được xem là Bồ Tát lớn hay Bồ Tát Ma ha tát. Tu hai phần đó thì có đầy đủ tánh đức trí tuệ, công hạnh vuông tròn thì có thể thành thục hữu tình, thanh tịnh cõi Phật, hóa độ chúng sanh qua biển lớn sanh tử. Đó là sở nguyện của Bồ Tát mặc giáp bị công đức, phát thú Đại thừa.
Tu bố thí, trì giới, an nhẫn, là tu Phước, vì tích tụ công đức thiện căn cho đời này, đời sau. Tu tinh tấn, thiền định và Bát nhã Ba la mật là tu Huệ. Cứ tu một pháp thì ảnh hưởng tốt đối với năm pháp còn lại. Nếu tu hết tất cả sáu Ba la mật thì tròn đầy phước huệ song tu. Nên kinh bảo: Các Bồ Tát do phương tiện Ba la mật khéo léo như thế khắp vì lợi vui tất cả hữu tình phát tới Đại thừa nên mới được gọi là Ma ha tát. Do đó, được chư Phật khắp mười phương thế giới như cát sông Hằng, ở giữa đại chúng vui mừng tuyên dương, khen ngợi.
1. Tu như thế nào thì được gọi là đại thệ nguyện trang nghiêm?
Luận Đại Trí Độ, phẩm thứ 5, “Phú Lâu Na”, tập 3, quyển 45 giải thích rằng:
“Vị chủ tướng muốn chống phá quân giặc, phải chuẩn bị đầy đủ binh lính và khí giới, cũng như vậy, Bồ Tát Ma Ha Tát muốn đánh phá ma quân, dẹp giặc phiền não phải hành sáu pháp Ba la mật, để tự trang nghiêm.
Bồ Tát trong vô lượng kiếp đã tu tập các công đức trí huệ để làm hành trang vào Phật đạo, nên mới cưỡi cỗ xe Đại Thừa, hành sáu pháp Ba la mật.
Hỏi: Vì sao Thanh Văn và Bích Chi Phật cũng hành đạo, mà lại chẳng được gọi là đại thệ trang nghiêm?
Đáp: Nhị Thừa tâm có hạn lượng, vì còn có chứng, có đắc, lại nặng về phần tự độ, nhẹ về phần tha độ.
Đối với Bồ Tát thì tự độ và tha độ đều bình đẳng như nhau, chẳng có gì phân biệt cả. Bồ Tát Ma Ha Tát tự trang nghiêm bằng cách dùng cỗ xe Đại Thừa đưa hết thảy chúng sanh vào Phật đạo, bình đẳng như nhau. Bồ Tát Ma Ha Tát tự trang nghiêm là để trang nghiêm Phật độ, nên thường hành sáu pháp Ba La Mật, và cũng dìu dắt chúng sanh cùng hành sáu pháp Ba La Mật
Hỏi: Vì sao Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại thệ trang nghiêm?
Đáp: Vì muốn độ hết thảy chúng sanh, muốn cùng với hết thảy chúng sanh đồng đến Vô Thượng Bồ Đề, nên Bồ Tát Ma Ha Tát tu sáu pháp Ba La Mật.
Như ngài Phú Lâu Na nói: Bồ Tát vì hết thảy trí huệ mà tu tập các công đức, để cùng với hết thảy chúng sanh đồng hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề. Bồ Tát chẳng mong cầu phước báo nhân thiên, mà chỉ phát đại nguyện cùng với hết thảy chúng sanh, đồng đến Niết Bàn an lạc, đồng thành Phật đạo. Như vậy là đại thệ trang nghiêm.
Lại nữa, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng tham đắm thần thông, mà chỉ nhất tâm hành Phật đạo, cho nên dù bị người đến mắng nhiếc, đánh đập, hay đến đe dọa giết chết, Bồ Tát vẫn nhẫn thọ, vẫn an nhiên tự tại hành bố thí, nhẫn nhục, cùng các pháp Ba La Mật khác. Vì sao? Vì Bồ Tát biết rõ các pháp đều là rốt ráo không, nên trước mọi sự đe dọa, áp bức... cũng vẫn giữ tâm bất động, chẳng hề nao núng. Vì Bồ Tát biết rõ các pháp đều do duyên hòa hợp sanh, mà tự tánh vốn là không, biết rõ các pháp đều như huyễn, như hóa, nên thường nhất tâm, niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, thường nhập vào các thiền định. Lại vì Bồ Tát cầu nhất thiết chủng trí, nên tu tập đầy đủ sáu pháp Ba la mật, mà chẳng chấp Ba la mật tướng. Như vậy ở nơi một pháp Ba la mật, mà nhiếp cả năm pháp Ba la mật kia, nên được gọi là đại trang nghiêm.
Trong các kinh có nói nhiều về bố thí Ba la mật, nhưng vì nghĩa lý của Ba la mật này quá thậm thâm, xưa nay ít có ai thấu triệt được, nên nay khai luận để giải rõ hơn về nghĩa lý của bố thí Ba la mật, cũng như về nghĩa lý của năm pháp Ba la mật kia.
Hỏi: Vì sao nói Đàn Ba la mật (bố thí) nhiếp luôn cả năm pháp Ba la mật kia?
Đáp: Nói một pháp Ba la mật nhiếp luôn cả năm pháp Ba la mật kia cũng chẳng có lỗi gì. Vì sao? Vì chẳng phải ở trong một đời mà Bồ Tát có thể hành đầy đủ cả sáu pháp Ba la mật, mà phải trải qua vô lượng kiếp, tu tập vô lượng công đức hòa hợp, mới được đầy đủ cả sáu pháp Ba la mật.
Khi hành một pháp Ba la mật, thì cả năm pháp Ba la mật kia cũng đồng sanh.
Lại nữa, chư Phật trong khắp mười phương, khi thuyết pháp thường lấy bố thí làm cửa ban đầu dẫn vào Phật đạo.
Trong kinh thường dạy rằng, bố thí và trì giới được phước đức sanh lên cõi trời.
Hỏi: Vì sao nói bố thí là cửa ban đầu dẫn vào Phật đạo?
Đáp: Vì đem pháp môn bố thí dạy cho chúng sanh, thì từ nhỏ đến lớn, từ sang đến hèn v.v... ai cũng đều có thể tu được cả.
Ví như nói :
- Bố thí cho người ghét mình sẽ làm cho sự oán hận của họ tiêu tan, biến ác thành thiện, biến thù thành bạn.
- Do hành bố thí Ba la mật mà chư Phật có được đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, được đầy đủ các công đức.
- Do hành bố thí Ba la mật mà ngài Bồ Tát Bảo Thủ luôn luôn có bảy báu đầy đủ để cấp thí cho chúng sanh.
- v.v...
Nghe nói như vậy chúng sanh hoan hỷ tín thọ, tinh tấn tu bố thí và tu năm độ khác, dẫn vào được đạo Niết Bàn.
Bởi nhân duyên vậy, nên nói: Bố thí là cửa ban đầu dẫn vào Phật đạo.
Hỏi: Vì sao ngài Phú Lâu na nói “một pháp Ba la mật nhiếp cả năm pháp Ba la mật kia là đại trang nghiêm?”
Đáp: Nếu hành riêng rẽ từng Ba la mật, thì thế lực rất yếu. Nếu tập hội đủ cả sáu pháp Ba la mật, thì thế lực sẽ tăng lên gấp bội. Ví như khi chưa tập hợp đầy đủ quân sĩ, khí giới, lương thực thì khả năng chiến đấu còn hạn chế. Ngược lại nếu tập hợp đầy đủ quân sĩ, khí giới lương thực, cùng các phương tiện hành quân khác, thì sự chống phá giặc ắt sẽ có hiệu quả hơn rất nhiều.
Bồ Tát cũng như vậy, do hành đầy đủ cả sáu pháp Ba la mật, nên có lực phương tiện hùng mạnh phá hết ma quân, dẹp sạch phiền não để thẳng tiến đến Vô Thượng Bồ Đề. Cho nên hành một pháp Ba la mật, mà nhiếp được cả năm pháp Ba la mật kia mới là đại trang nghiêm vậy.
Bồ Tát phát đại thệ trang nghiêm như vậy, được chư Phật khắp trong mười phương hoan hỷ xưng danh, tán thán rằng: Ở cõi đó, có vị Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại thệ trang nghiêm, thành tựu chúng sanh và tịnh Phật quốc độ”.
2. Sao gọi là phát thú Đại thừa? Nghĩa là phải học tất cả pháp mầu Phật đạo để thâm nhập Đại thừa mới có thế hóa độ chúng sanh, nên nói là phát thú Đại thừa. Cũng cùng phẩm trên Đại Trí Độ luận rằng:
“Hỏi: Trong sáu pháp Ba la mật, nếu thuyết theo chiều nghịch thì phải thuyết Bát nhã Ba la mật trước, nếu thuyết theo chiều thuận thì phải thuyết Đàn Ba la mật trước. Nay vì sao vừa mở đầu đã thuyết về Thiền Ba la mật?
Đáp: Người đã phát đại thệ trang nghiêm, trước hết phải vào thiền định. Vì sao? Vì nếu Bồ Tát chưa có lực thiền định thì chưa có thể ly dục tâm. Do còn dục tâm nên chưa có thể hành các Ba la mật khác được, ngoài ra còn rất dễ bị thối tâm. Ngược lại, nếu Bồ Tát vào Thiền Ba la mật mà hành từ tâm, thì từ tâm sẽ được kiên cố, bất động.
Bồ Tát hành từ tâm, nhập vào từ tâm tam muội thì dao chẳng có thể chém được, lửa chẳng có thể thiêu được, v.v... Ngoài ra còn có được nhiều thần thông biến hóa. Bởi vậy nên muốn phát đại thệ trang nghiêm, thì trước hết Bồ Tát phải vào thâm thiền định.
Phật dạy rằng: Chim phải có đầy đủ đôi cánh mới có thể bay xa được.
Cũng như vậy, người tu hành trước hết phải tu Thiền Ba la mật, rồi sau đó mới có thể tinh tấn, dõng mãnh tu các Ba la mật khác được.
Hỏi: Trong tứ thiền đã có nhiều công đức dẫn tu sáu pháp Ba la mật rồi. Nay vì sao còn nói phải tu tứ vô lượng tâm nữa?
Đáp: Bồ Tát Ma Ha Tát khi hành Bồ Tát đạo, dùng tứ vô lượng tâm để duyên các tướng tâm của chúng sanh, nhằm cứu độ họ.
Lại nữa, trong tứ vô lượng tâm có từ bi tâm. Bồ Tát thường dùng từ bi tâm để ban vui cho chúng sanh, và cứu họ thoát khổ.
Hỏi: Bồ Tát trú trong ngũ thần thông cũng làm lợi ích cho chúng sanh. Như vậy vì sao chẳng nói đến?
Đáp: Đại bi là căn bản của Bồ Tát hạnh. Bởi vậy nên nói dùng tứ vô lượng tâm mà hành sáu pháp Ba la mật mới là phát thú Đại Thừa. Vì sao? Vì từ, bi, hỷ, xả dẫn sanh sáu pháp Ba la mật.
--o0o--
Trên đây, các nhân duyên phát thú Đại thừa đã được nêu đầy đủ.
Hỏi: Vì sao phải tu tứ niệm xứ,... dẫn đến phải tu thập bát bất cộng pháp để được Nhất Thiết Chủng Trí (nói gọn là tu các pháp Phật)?
Đáp: Hành pháp có hai nghĩa. Đó là :
- Tín hành.
- Pháp tánh hành.
* Tín hành là quán về tánh vô thường, khổ, không, vô ngã.
* Pháp tánh hành là quán về các hành vô thường, khổ, không, vô ngã, hoặc chỉ quán vô thường, chỉ quán khổ, chỉ quán không, chỉ quán vô ngã, mà thấu rõ được thật tướng các pháp.
Bồ Tát Ma Ha Tát vì muốn độ hết thảy chúng sanh, nên phải tu học hết thảy các pháp môn.
Lại nữa, Bồ Tát Ma Ha Tát phát Đại Thừa tâm, dùng thập bát không để phá thập bát chướng pháp, rồi lại chuyển thập bát không thành đại trí huệ.
- Dùng trí huệ quán các pháp là thường định, mà chẳng có định tướng. Như vậy là dùng trí huệ quán các pháp chẳng phải định mà cũng chẳng phải loạn.
- Dùng trí huệ quán các pháp chẳng phải thường, chẳng phải lạc, chẳng phải ngã, chẳng phải tịnh, nên chẳng rơi về tứ chấp điên đảo “thường, lạc, ngã, tịnh”.
- Dùng trí huệ quán ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai, quán ba cõi Dục, Sắc và Vô Sắc, đều chẳng phải có, cũng chẳng phải chẳng có. Vì biết rõ ba thời, ba cõi đều là bất khả đắc, nên chẳng rơi vào vô minh, mà được đại trí huệ.
- Dùng trí huệ quán thế gian trí và xuất thế gian trí là chẳng phải trí, cũng chẳng phải chẳng phải trí (phi trí). Vì biết rõ trí và phi trí đều là không, là bất khả đắc cả, nên được rốt ráo thanh tịnh, chẳng trú nơi bất cứ một định tướng nào cả.
--o0o--
Lại nữa, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng hành “không”, nhằm phá chấp về đoạn diệt, cũng chẳng hành pháp ái nhằm ly y chỉ.
Bởi vậy nên nói Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng phải hành trí, mà cũng chẳng phải chẳng hành trí (hành phi trí).
Hỏi: Thế nào gọi là phi trí?
Đáp : Xả ly các pháp, mà cũng chẳng y chỉ nơi trí huệ, chẳng khởi tâm phân biệt.
Như vậy là được “quyết định trí”, tức là được “phi trí” vậy.
Tới đây, chúng ta nói xong hai phần của Bồ Tát Ma ha tát: 1. Phát đại thệ nguyện trang nghiêm và 2. Phát thú Đại thừa. Muốn trở thành Bồ Tát Ma ha tát theo quan niêm của Phú Lâu Na, thì Bồ Tát phải hoàn thành yếu tố thứ ba là “thừa Đại thừa”, thì phải học tiếp phẩm “Đại Thừa” sau đây./.
---o0o---