- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
***
PHẨM “KHEN BÁT NHÔ.
Phần sau quyển 172 cho đến phần đầu quyển 181, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với quyển thứ 13, phẩm “Chiếu Minh”, MHBNBLM)
Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư Sĩ Quảng Tịnh
Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước
Gợi ý:
Thật ra phải đặt tên cho phẩm này là “Chiếu Minh” như Kinh MHBNBLMĐ đã làm. Nếu đặt tên cho phẩm này là “Khen Bát Nhã” thì phẩm này không làm tròn nhiệm vụ của nó. Vì sao? Vì khen tặng là người ta “gán cho mình”. Đó là vay mượn (từ ngoài vào), không phải phát chiếu (từ trong ra) như viên ngọc Ma ly tự nó phát quang (không phải nhận ánh sáng từ ngoài và phản chiếu lại mà chính nó có khả năng phát chiếu), nên Kinh MHBNBLMĐ mới đặt tên phẩm này là chiếu minh.
Tóm lược:
1.
- Bạch Thế Tôn! Vì Bát Nhã như thế không bị nhiễm trước, nên các pháp trong thế gian chẳng thể làm ô uế được. Bát Nhã như thế, xa lìa tất cả mê mờ trong ba cõi, có khả năng dứt trừ những tối tăm của phiền não. Bát Nhã như thế rất là cao cả, vì ở trong tất cả các loại pháp thuộc về giác ngộ, nó rất tôn quí hơn hết. Bát Nhã như thế có khả năng làm cho an ổn, vĩnh viễn dứt trừ tất cả sự khiếp sợ, bức não, tai họa bất ngờ. Bát nhã Ba la mật như thế có khả năng phát ánh sáng nhiếp thọ các hữu tình, khiến chứng đắc năm loại mắt. Bát nhã Ba la mật như thế có khả năng chỉ bày trung đạo, khiến kẻ lạc đường lìa khỏi nhị biên. Bát nhã Ba la mật như thế có khả năng phát sanh Nhất thiết trí trí, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả các phiền não tập khí tương tục. Bát nhã Ba la mật như thế là mẹ của các đại Bồ Tát, tất cả Phật pháp từ đấy xuất sanh.
Bạch Thế Tôn! Bát Nhã như thế bất sanh, bất diệt, tự tánh không. Bát Nhã như thế xa lìa sanh tử, chẳng phải thường, chẳng phải hoại. Bát Nhã như thế có khả năng làm chỗ nương tựa, bố thí các pháp bảo. Bát nhã như thế có khả năng thành tựu Phật mười lực, chẳng bị khuất phục. Bát nhã Ba la mật như thế có khả năng chuyển pháp luân vô thượng gồm ba lần chuyển mười hai hành tướng(1), đạt tất cả pháp, không chuyển trở lại. Bát nhã Ba la mật như thế có khả năng chỉ rõ tánh không điên đảo của các pháp, hiển bày pháp không không tánh tự tánh.
Bạch Thế Tôn!
- Bồ Tát thừa, hoặc Độc giác thừa, hoặc Thanh văn thừa, các loại hữu tình đối với Bát nhã Ba la mật, nên trụ như thế nào?
Phật dạy:
- Này Xá Lợi Tử! Các hữu tình ấy đối với Bát Nhã này nên như Phật trụ, cúng dường lễ kính, tư duy Bát Nhã, như cúng dường lễ kính Phật. Vì sao? Vì Bát Nhã chẳng khác Phật; Phật chẳng khác Bát Nhã; Bát Nhã tức là Phật, Phật tức là Bát Nhã. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều do Bát Nhã mà được xuất hiện. Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả đại Bồ Tát, Độc giác, A la hán, Bất hoàn, Nhất lai, Dự lưu v.v... đều do Bát Nhã mà được xuất sanh. Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả mười thiện nghiệp đạo, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, năm phép thần thông ở thế gian, đều do Bát Nhã mà được xuất sanh. Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, đều do Bát nhã Ba la mật được xuất sanh. Vì tất cả pháp không nội đến pháp Vô tánh tự tính không đều do Bát Nhã mà được xuất sanh. Vì tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh, định pháp, trụ pháp, thật tế… đều do Bát Nhã mà được xuất sanh. Vì tất cả bốn Thánh đế, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, mười hai duyên khởi, 37 pháp trợ đạo, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao đều do Bát Nhã mà được xuất sanh.
Khi ấy, trời Đế Thích bỗng nghĩ: “Nay Xá Lợi Tử do nhân duyên gì mà hỏi việc này”?
Khi ấy, Xá Lợi Tử biết tâm niệm ấy liền bảo:
- Này Kiều Thi Ca! Vì các đại Bồ Tát được Bát Nhã và các phương tiện thiện xảo nhiếp thọ, nên có khả năng đối với tất cả thiện căn công đức của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ, vị lai, hiện tại trong 10 phương thế giới, ở khoảng giữa từ sơ phát tâm đến khi chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân nhiệm mầu cho đến pháp diệt; hoặc thiện căn công đức của chư Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và các loại hữu tình khác nhóm tụ cân nhắc suy lường, khởi sự tùy hỷ hồi hướng quả vị Giác ngộ tối cao; do duyên cớ này nên mới hỏi như vậy.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Các đại Bồ Tát học Bát Nhã vượt hơn học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự gấp vô lượng lần. Thí như trăm ngàn kẻ mù bẩm sanh, không có người sáng mắt khéo dẫn đường, thì chẳng có thể đến gần đường chính, huống là có thể đi xa để đến thành lớn phong phú an lạc; bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba la mật cũng như vậy như các kẻ mù bẩm sinh, nếu không có Bát Nhã là người sáng mắt dẫn đường, thì còn chẳng thể hướng đến Bồ Tát chánh đạo, huống chi có thể vào được thành Nhất thiết trí.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba la mật như thế, vì do Bát nhã Ba la mật này nhiếp thọ, nên gọi là kẻ có mắt; lại vì do Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ nên bố thí, tịnh giới v.v... tất cả đều có tên là đáo bỉ ngạn. (Q. 172, ĐBN)
Khi ấy, trời Đế Thích liền bạch cụ thọ Xá Lợi Tử:
- Như Đại đức đã nói bố thí, tịnh giới v.v... cả năm Ba la mật, cốt yếu là do Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ, mới được gọi là đáo bỉ ngạn, thì đâu có thể nói: Do bố thí Ba la mật nhiếp thọ mà năm Ba la mật kia có tên là đáo bỉ ngạn; do tịnh giới Ba la mật nhiếp thọ mà năm Ba la mật kia có tên là đáo bỉ ngạn; do an nhẫn Ba la mật nhiếp thọ, nên năm Ba la mật kia có tên là đáo bỉ ngạn v.v…. Phải chăng có nhân duyên nào khác mới ngợi khen Bát Nhã vượt qua năm Ba la mật khác?
Xá Lợi Tử đáp:
- Chẳng phải vậy! Chẳng phải vậy! Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì chẳng phải do bố thí Ba la mật nhiếp thọ, mà năm cái khác được tên là đáo bỉ ngạn; vì chẳng phải do tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn Ba la mật v.v… nhiếp thọ, mà năm cái khác có tên là đáo bỉ ngạn. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát cốt yếu là trụ Bát nhã Ba la mật mới có khả năng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba la mật; chẳng phải trụ năm cái khác mà có thể thành tựu việc ấy. Vì vậy nên Bát nhã Ba la mật đối với năm thứ trước là tối thắng, là tôn quí, là cao siêu, là vi diệu, cao cả, không gì hơn.
2.
Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát nên dẫn phát(1) Bát nhã Ba la mật như thế nào?
Phật dạy:
- Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát chẳng dẫn phát sắc nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật; chẳng dẫn phát thọ, tưởng, hành, thức nên có thể dẫn phát Bát nhã Ba la mật.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ Tát chẳng dẫn phát sắc, thọ, tưởng, hành, thức, vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật?
Này Xá Lợi Tử! Vì sắc không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ Tát chẳng dẫn phát sắc, vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật; vì thọ, tưởng, hành, thức không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ Tát chẳng dẫn phát thọ, tưởng, hành, thức, vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát chẳng dẫn phát 12 xứ, 18 giới, tứ thiền, tứ vô lương, tứ định vô sắc cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, và cũng chẳng dẫn phát tất cả pháp, vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ Tát chẳng dẫn phát 12 xứ, 18 giới v.v… vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật; chẳng dẫn phát tất cả pháp vậy nên dẫn phát Bát nhã Ba la mật?
Này Xá Lợi Tử! Vì 12 xứ, 18 giới v.v… không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ Tát chẳng dùng 12 xứ, 18 giới v.v… để hướng dẫn; vì tất cả pháp cũng không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt v.v… nên đại Bồ Tát chẳng dùng tất cả pháp để dẫn dắt, mà phải dùng Bát nhã để dẫn dắt. Khi ấy, Xá Lợi Tử lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát dẫn phát Bát nhã Ba la mật như thế cùng hiệp với pháp nào?
Phật dạy: Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát dẫn phát Bát nhã Ba la mật như thế chẳng hiệp với tất cả pháp. Vì chẳng hiệp nên được gọi là Bát nhã Ba la mật.
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế không cùng hiệp với tất cả những pháp nào?
Phật bảo:
- Này Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật như thế, chẳng cùng hiệp với pháp thiện, chẳng cùng hiệp với pháp phi thiện, chẳng cùng hiệp với pháp hữu tội, chẳng cùng hiệp với pháp vô tội, chẳng cùng hiệp với pháp hữu lậu, chẳng cùng hiệp với pháp vô lậu, chẳng cùng hiệp với pháp hữu vi, chẳng cùng hiệp với pháp vô vi, chẳng cùng hiệp với pháp tạp nhiễm, chẳng cùng hiệp với pháp thanh tịnh, chẳng cùng hiệp với pháp nhiễm ô, chẳng cùng hiệp với pháp bất nhiễm ô, chẳng cùng hiệp với pháp thế gian, chẳng cùng hiệp với pháp xuất thế gian, chẳng cùng hiệp với pháp sanh tử, chẳng cùng hiệp với pháp Niết bàn. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật như thế, đối với tất cả pháp, không có sở đắc. (Q.173, ĐBN)
Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế cũng chẳng hiệp với Nhất thiết trí trí chăng?
Phật dạy:
- Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật này cũng chẳng hiệp với Nhất thiết trí trí. Vì không phải do cái này mà có cái kia, tất cả đều bất khả đắc.
Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát nhã Ba la mật đối Nhất thiết trí trí không hiệp cũng không đắc?
Kiều Thi Ca! Chẳng phải Bát nhã Ba la mật đối Nhất thiết trí trí như danh, như tướng, như sở tác kia có hiệp có đắc.
Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát Nhã đối với Nhất thiết trí trí chẳng hiệp chẳng đắc?
Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết trí trí không thọ, không thủ, không trụ, không đoạn, không chấp, không xả, đúng như danh, như tướng v.v... hiệp đắc như vậy mà không hiệp đắc. Bát nhã Ba la mật như thế, đối với tất cả pháp cũng không thọ, không thủ, không trụ, không đoạn, không chấp, không xả, đúng như danh, như tướng v.v… hiệp đắc như thế mà không hiệp đắc.
Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật hiếm có! Bát nhã Ba la mật như thế, vì tất cả pháp không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh mà hiện tại tiền, tuy có hiệp có đắc nhưng không hiệp không đắc.
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, khởi tưởng thế này: Bát Nhã cùng hiệp với tất cả pháp hoặc Bát Nhã chẳng cùng hiệp với tất cả pháp thì đại Bồ Tát ấy xa lìa Bát nhã Ba la mật.
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Lại cũng có nhân duyên khác khiến các đại Bồ Tát xa lìa Bát nhã Ba la mật, đó là khi đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, khởi tưởng thế này: Bát nhã Ba la mật như thế không có sở hữu, chẳng phải chơn thật, chẳng kiên cố, chẳng tự tại, vì vậy, cho nên đại Bồ Tát ấy xa lìa Bát nhã Ba la mật.
3.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu vậy đại Bồ Tát khi tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin pháp nào?
Phật dạy:
- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin sắc; chẳng tin thọ, tưởng, hành, thức.
Cụ thọ Thiện Hiện lại hỏi:
- Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ Tát khi tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin sắc, chẳng tin thọ, tưởng, hành, thức?
Phật đáp:
- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, quán sắc bất khả đắc; quán thọ, tưởng, hành, thức bất khả đắc. Vì vậy nên đại Bồ Tát khi tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin sắc; chẳng tin thọ, tưởng, hành, thức.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tin Bát Nhã thì chẳng tin mười hai xứ, mười tám giới, chẳng tin tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, Tứ Thánh đế, thập nhị nhân duyên, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ Tát khi tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin tất cả pháp như đã nói?
Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, quán năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới bất khả đắc, quán tất cả pháp cũng bất khả đắc. Vì vậy, nên đại Bồ Tát khi tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin mười hai xứ, mười tám giới cho đến tất cả pháp.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ Tát khi tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin tất cả pháp?
Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, quán tất cả pháp bất khả đắc. Vì vậy nên đại Bồ Tát khi tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin tất cả pháp.
4.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát đáng được gọi là đại Ba la mật.
Phật hỏi:
- Này Thiện Hiện! Ông dựa vào ý gì mà nói Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát là đại Ba la mật?
Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát đối với sắc chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sắc chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với sắc chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với sắc chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với sắc chẳng làm cho có lực, chẳng làm cho không có lực; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho có lực, chẳng làm cho không có lực.
Bạch Thế Tôn! Con dựa vào ý này nên nói Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát là đại Ba la mật.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát, đối với mười hai xứ, mười tám giới cho đến tất cả pháp Phật chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; chẳng làm cho có lực hay chẳng làm cho không có lực. (Q.174, ĐBN)
Bạch Thế Tôn! Con dựa vào ý này nên nói Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát là đại Ba la mật.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát tân học Đại thừa, nương vào hay chẳng nương vào Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, mà khởi tưởng thế này: Bát nhã Ba la mật như thế, đối với sắc làm cho lớn hay chẳng làm cho lớn, làm cho nhỏ hay chẳng làm cho nhỏ; đối với thọ, tưởng, hành, thức làm cho lớn hay chẳng làm cho lớn, làm cho nhỏ hay chẳng làm cho nhỏ, làm cho phân tán hay chẳng làm cho phân tán v.v... thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy, do khởi tưởng này nên chẳng phải tu hành Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát tân học Đại thừa, nương vào hay chẳng nương vào Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật mà khởi tưởng thế này: Bát nhã Ba la mật như thế, đối với mười hai xứ, mười tám giới cho đến tất cả pháp làm cho lớn hay chẳng làm cho lớn, làm cho nhỏ hay chẳng làm cho nhỏ, làm cho phân tán hay chẳng làm cho phân tán v.v... thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy, do khởi tưởng này nên chẳng phải tu hành Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát tân học Đại thừa, nương vào hay chẳng nương vào Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật mà khởi tưởng thế này: Bát nhã Ba la mật như thế, đối với tất cả pháp làm cho lớn hay chẳng làm cho lớn, làm cho nhỏ hay chẳng làm cho nhỏ, làm cho phân tán hay chẳng làm cho phân tán v.v…, thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy, do khởi tưởng này nên chẳng phải tu hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì tất cả như thế đều chẳng phải là quả Đẳng lưu của Bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát khởi tưởng thế này: Bát nhã Ba la mật như thế, đối với tất cả pháp hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tất cả pháp hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, v.v... thì bạch Thế Tôn! Tất cả như thế đều chẳng phải quả Đẳng lưu của Bát nhã Ba la mật. (Q.178, ĐBN)
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát khởi tưởng thế này: Bát Nhã như thế, đối với tất cả các pháp hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tất cả pháp hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán v.v… thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải tu hành Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì chẳng phải tưởng có sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình vô sanh nên biết Bát Nhã cũng vô sanh; vì hữu tình vô diệt nên biết Bát nhã cũng vô diệt; vì hữu tình vô tự tánh nên biết Bát Nhã cũng vô tự tánh; vì hữu tình vô sở hữu nên biết Bát Nhã cũng vô sở hữu; vì hữu tình là không nên biết Bát Nhã cũng không; vì hữu tình vô tướng nên biết Bát Nhã cũng vô tướng; vì hữu tình vô nguyện nên biết Bát Nhã cũng vô nguyện; vì hữu tình viễn ly nên biết Bát nhã Ba la mật cũng viễn ly; vì hữu tình tịch tịnh nên biết Bát nhã Ba la mật cũng tịch tịnh; vì hữu tình bất khả đắc nên biết Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc; vì hữu tình bất khả tư nghì nên biết Bát nhã Ba la mật cũng bất khả tư nghì; vì hữu tình vô tri giác nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô tri giác; vì thế lực của hữu tình chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thành tựu.
Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát là đại Ba la mật.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì sắc vô sanh nên biết Bát Nhã cũng vô sanh; thọ, tưởng, hành, thức vô sanh nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh; vì sắc vô diệt nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô diệt v.v...; vì thọ, tưởng, hành, thức vô sanh nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh; vì biết thọ tưởng hành thức vô diệt nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô diệt v.v... Mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, tứ Thánh đế, thập nhị nhân duyên, ba mươi bảy pháp trợ đạo, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao vô sanh, nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh; vì biết tất cả pháp từ 12 xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc... cho đến quả vị Giác ngô tối cao vô diệt, nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô diệt v.v...
Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát là đại Ba la mật.
Nói tóm lại, bạch Thế Tôn! Vì tất cả pháp vô sanh nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh; vì tất cả pháp vô diệt nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô diệt; vì tất cả pháp vô tự tánh nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô tự tánh v.v... cho đến vì thế lực của tất cả pháp chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thành tựu.
Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát là đại Ba la mật.
Thích nghĩa:
(1). Ba lần chuyển mười hai hành pháp luân (tam chuyển thập nhị hành tướng, 三轉十二行 相, Phạm: Trì-parivarta-dvàdazàkàradharma-cakra-pravartana): Xin xem lại thích nghĩa ở Đoạn sáu của phẩm “So Lường Công Đức”.
(2). Dẫn phát: Dẫn dắt, hướng dẫn. Thí dụ: Chẳng lấy sắc hay thọ tưởng hành thức dẫn phát nghĩa là không nên lấy sắc để dẫn dắt hay hướng dẫn mình hoặc kẻ khác, vì sắc là những pháp vô thường, sanh diệt đổi dời, không thường trụ giống như bèo bọc, sương khói… duyên hợp thì có, duyên tán thì hoại diệt, làm sao có thể hướng dẫn được ai.
Lược giải:
1. Bát Nhã là chiếu minh:
Bát Nhã là một trong sáu pháp Ba la mật, nhưng Bát Nhã là Ba la mật đứng đầu, là chỉ đạo. Thiếu Bát Nhã, thiếu bộ phận mẹ, các Ba la mật khác không thể hoạt động được. Bát Nhã là địa bàn đối với người vượt biển, là thuyền trưởng trên đại dương bao la. Có bố thí, có trì giới, nhẫn nhục, thiền định nhưng thiếu Bát Nhã, các Ba la mật khác giống như một con thuyền không người lái lưu lạc trên biển cả mênh mông và sẽ không bao giờ đến được bến bờ mong muốn! Vì vậy, Bát Nhã được ví như thuyền trưởng hay như người sáng mắt trong vô số người mù bẩm sanh. Bát Nhã cũng được ví như đất mà mọi sinh vật có thể sinh sống và nương tựa, thiếu đất là thiếu mầm sống, là thiếu tất cả!
Cũng vậy, Tứ niệm xứ đến 18 pháp bất cộng, các tam muội đến Nhất thiết chủng trí đều nương Bát nhã Ba la mật xuất sanh. Các Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Phật và các pháp của Thanh văn cho đến tất cả pháp của chư Phật cũng đều nương Bát nhã Ba la mật mà tăng trưởng. Năm Ba la mật nương Bát nhã Ba la mật mà trưởng thành. Thế nên Bát nhã Ba la mật là chỉ đạo của năm Ba la mật và tất cả các pháp thế gian, xuất thế gian.
Phẩm “Khen Bát Nhã” quyển 172, Hội thứ I, ĐBN, Ngài Huyền Trang dịch, nói:
“Các Bồ Tát Ma ha tát sở học Bát nhã Ba la mật vượt hơn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự vô số lượng. Thí như bọn người mù bẩm sinh, có cả trăm ngàn mà không có một kẻ sáng mắt dắt dẫn đi, cố nhiên chẳng thể gần tới đường chính, huống đi xa thấu đại thành phong phú lợi vui. Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự như thế là bọn người mù, nếu không có Bát nhã Ba la mật là kẻ sáng suốt dẫn đường, chẳng thể đạt Bồ Tát Chánh đạo, huống là năng vào được đại thành Nhất thiết trí.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự như thế là do Bát nhã Ba la mật đây nhiếp thọ, nên bố thí, trì giới v.v… tất cả đều được “đến bờ kia”.
(…)Vì chẳng phải do bố thí Ba la mật nhiếp thọ, mà năm cái khác được gọi là đáo bỉ ngạn; vì chẳng phải do tịnh giới Ba la mật nhiếp thọ, mà năm cái khác được tên là đáo bỉ ngạn; vì chẳng phải do an nhẫn Ba la mật nhiếp thọ v.v…mà năm cái khác được tên là đáo bỉ ngạn, chính do Bát nhã Ba la mật nhiếp thọ, nên năm cái khác được coi là đáo bỉ ngạn. Vì sao? Vì các Bồ Tát cốt yếu là trụ Bát nhã Ba la mật mới có khả năng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự; chẳng phải trụ năm cái khác có thể thành tựu việc ấy. Vì vậy, nên Bát nhã Ba la mật đối với 5 thứ trước là tối thắng, là tối tôn, là vi diệu, cao cả, không gì hơn”.
Phẩm “Chiếu Minh”, quyển thứ 13, MHBNBLMĐ cũng nói thêm rằng: “Bát Nhã là đuốc tuệ của tất cả pháp, Bát Nhã phá trừ mọi vô minh tăm tối, Bát Nhã là Nhất thiết chủng trí, Bát Nhã là mẹ của chư Bồ Tát vì hay xuất sanh Phật pháp, Bát Nhã là nơi an ổn, là nơi nương tựa của muôn loài. Vậy, phải lễ bái, cúng dường Bát nhã Ba la mật như lễ bái, cúng dường Phật. Vì Phật chẳng khác Bát nhã Ba la mật và Bát nhã Ba la mật tức là Phật. Phật tức là Bát nhã Ba la mật và Bát nhã Ba la mật tức là Phật. Bát nhã Ba la mật nầy xuất sanh chư Phật, chư Bồ Tát, Bích Chi Phật, A La Hán, A Na Hàm, Tư Đà Hàm, Tu Đà Hoàn. Bát nhã Ba la mật nầy xuất sanh mười thiện đạo, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, tứ niệm xứ đến bát thánh đạo. Bát nhã Ba la mật nầy xuất sanh thập lực, mười tám pháp bất cộng, đại từ đại bi, Nhất thiết chủng trí…”
Bát nhã Ba la mật giống như mặt trời, trung tâm của thái dương hệ. Tất cả uẩn, xứ, giới và các pháp, giống như những hành tinh bay trên những quỷ đạo xoay quanh mặt trời. Nhờ mặt trời mà các hành tinh nhận được ánh sáng và nhờ có ánh sáng mà có sự sống. Bát Nhã cũng vậy, Bát Nhã chiếu soi tất cả pháp và nhờ có Bát Nhã mà các pháp xuất sanh và tăng trưởng. Vì vậy, nên Bát Nhã được coi là chiếu minh!
Bao nhiêu lời tán tụng như trên cũng đủ nói lên cách thượng tôn của Bát nhã Ba la mật. Càng học càng thấy cái vi diệu nhiệm mầu của Bát nhã Ba la mật mà bút lông vẽ không nổi, bút thép tả cũng không xong!
2. Bát Nhã với những đặc thù của nó:
1- Phẩm “Phẩm Khen Bát Nhã”, quyển 173, Hội thứ I, ĐBN. Phật bảo:
“Này Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật như thế, chẳng cùng hiệp với pháp thiện, chẳng cùng hiệp với pháp phi thiện, chẳng cùng hiệp với pháp hữu tội, chẳng cùng hiệp với pháp vô tội, chẳng cùng hiệp với pháp hữu lậu, chẳng cùng hiệp với pháp vô lậu, chẳng cùng hiệp với pháp hữu vi, chẳng cùng hiệp với pháp vô vi, chẳng cùng hiệp với pháp tạp nhiễm, chẳng cùng hiệp với pháp thanh tịnh, chẳng cùng hiệp với pháp nhiễm ô, chẳng cùng hiệp với pháp bất nhiễm ô, chẳng cùng hiệp với pháp thế gian, chẳng cùng hiệp với pháp xuất thế gian, chẳng cùng hiệp với pháp sanh tử, chẳng cùng hiệp với pháp Niết bàn. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật như thế, đối với tất cả pháp, không có sở đắc. (Q. 173, ĐBN)
Thiện hay phi thiện, hữu tội hay vô tội, hữu lậu hay vô lậu... là nhị pháp. Bát Nhã là pháp môn bất nhị. Nên nói Bát Nhã chẳng hiệp hai bên, chẳng phải hai tướng. Bát Nhã vẫn hiện hữu giữa lòng căn tánh của tất cả vạn hữu, không nắm không bỏ, không thủ không xả, không hiệp không tán, không trói không mở... không theo hai bên, không có hai tướng. Vì Bát Nhã là vô sở đắc, nên mới có thể siêu vượt lên tất cả. Đó là tánh cách vô sở hữu, bất khả đắc của Bát nhã Ba la mật.
2- Vì vậy, đoạn Kinh kế tiếp Phật bảo: “Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật đối với Nhất thiết trí trí không thọ, không thủ, không trụ, không đoạn, không chấp, không xả, đúng như danh, như tướng v.v... hiệp đắc như vậy mà không hiệp đắc. Bát nhã Ba la mật như thế, đối với tất cả pháp cũng không thọ, không thủ, không trụ, không đoạn, không chấp, không xả, đúng như danh, như tướng v.v… hiệp đắc như thế mà không hiệp đắc.
Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật hiếm có! Bát nhã Ba la mật như thế, vì tất cả pháp không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh mà hiện tại tiền, tuy có hiệp có đắc nhưng không hiệp không đắc”.
Nói như vậy, Bát Nhã có nghĩa là thụ động hay tiêu cực chăng? Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:
- “Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, khởi tưởng thế này: Bát nhã Ba la mật cùng hiệp với tất cả pháp hoặc Bát nhã Ba la mật chẳng cùng hiệp với tất cả pháp thì đại Bồ Tát ấy xa lìa Bát nhã Ba la mật”.
Hiệp là thường, chẳng hiệp là đoạn. Pháp thường pháp đoạn là pháp sanh diệt. Đã sanh diệt liền rơi vào đối đãi. Đối đãi là nhị pháp, tu hành như vậy là xa lìa Bát Nhã.
Bát Nhã không nương tựa các pháp khác mà Bát Nhã cũng không muốn các pháp nương tựa nó, không người nương tựa, không chỗ nương tựa. Nên nói tuy (thấy) có hiệp có đắc mà (thật sự) chẳng hiệp chẳng đắc. Đấy là tánh cách vô tri của Bát Nhã. Bát Nhã muốn hành giả Bát Nhã tự mình là tác chủ, không nương tựa vào bất cứ pháp nào dù là các pháp mang nhiều công đức nhất.
3- “Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, quán năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới bất khả đắc, quán tất cả pháp cũng bất khả đắc. Vì vậy, nên đại Bồ Tát khi tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin mười hai xứ, mười tám giới cho đến tất cả pháp.
Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ Tát khi tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin tất cả pháp?
Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, quán tất cả pháp bất khả đắc. Vì vậy nên đại Bồ Tát khi tin Bát nhã Ba la mật thì chẳng tin tất cả pháp”.
Nếu không tin các pháp Phật thì làm sao trở thành Vô Thượng Bồ đề? Có mong cầu, chấp đắm thì không còn tự chủ trong tư duy hay hành động. Bát Nhã tự phát khởi khả năng hoạt dụng của nó khi thâm nhập được chính nó chớ không phải do mong cầu nắm bắt từ bên ngoài. Vì vậy, nên nói tin Bát Nhã thì không nên tin các pháp khác ngoài Bát Nhã.
Nói Bát Nhã bất khả đắc, bất khả thủ, bất khả chấp không ngoài gây tự tin cho những ai thọ trì. Và hành giả Bát Nhã khi hiểu ra như vậy thì phải xem Bát Nhã như những khuyến dẫn quan trọng, để rồi tự mình lặn sâu vào trí năng của chính mình, bằng ý chí, nghị lực tự vương lên trong ánh sáng giác ngộ. Đó là Bát Nhã tự biểu lộ tánh cách tích cực nó.
4- Bát Nhã là trung tánh. Phẩm “Chiếu Minh”, quyển 174 đến quyển 178, Hội thứ I, ĐBN: Kiều Thi Ca bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát, đối với mười hai xứ, mười tám giới cho đến tất cả pháp Phật chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; chẳng làm cho có lực hay chẳng làm cho không có lực”.
Bát nhã Ba la mật đối với tất cả pháp chẳng làm cho lớn chẳng làm cho nhỏ hoặc chẳng làm cho nhóm tụ chẳng làm cho phân tán v.v... Bát Nhã là bình đẳng. Nếu đại Bồ Tát nào khởi tưởng như vậy là chẳng phải tu hành Bát nhã Ba la mật, vì có sở đắc lớn. Có sở đắc thì không thể tu Bát Nhã được. “Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình vô sanh nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh; vì hữu tình vô diệt nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô diệt; vì hữu tình vô tự tánh nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô tự tánh; vì hữu tình vô sở hữu nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu; vì hữu tình là không nên biết Bát nhã Ba la mật cũng không; vì hữu tình vô tướng nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô tướng; vì hữu tình vô nguyện nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô nguyện; vì hữu tình viễn ly nên biết Bát nhã Ba la mật cũng viễn ly; vì hữu tình tịch tịnh nên biết Bát nhã Ba la mật cũng tịch tịnh; vì hữu tình bất khả đắc nên biết Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc; vì hữu tình bất khả tư nghì nên biết Bát nhã Ba la mật cũng bất khả tư nghì; vì hữu tình vô tri giác nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô tri giác; vì thế lực của hữu tình chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát nhã Ba la mật cũng chẳng thành tựu”.
“Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì sắc vô sanh nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh; thọ, tưởng, hành, thức vô sanh nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh; vì sắc vô diệt nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô diệt v.v...; vì thọ, tưởng, hành, thức vô sanh nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô sanh; vì biết thọ tưởng hành thức vô diệt nên biết Bát nhã Ba la mật cũng vô diệt v.v...”
Tất cả các pháp Phật cũng đều như thế.
Đây chỉ là hệ quả của tất cả các tánh đặc thù kể trên. Nên, cuối cùng cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát là đại Ba la mật”.
Nghĩa là khi hiểu được tất cả đặc tánh vi diệu như vậy để tiến tu thì có thể tìm được bè lớn mà sang sông, nên nói “Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát là đại Ba la mật”./.
---o0o---